Trang

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2022

HÀ NỘI 60 NGÀY KHÓI LỬA

 

- Tên sách: Hà Nội 60 ngày khói lửa

- Tác giả: Vương Thừa Vũ

- Nhà xuất bản: Hà Nội

- Năm xuất bản: 2006

- Người số hóa: giangtvx, vnmilitaryhistory


Tham gia biên tập trong lần tái bản

ĐẠI TÁ: TẠ DUY ĐỨC - CCB Trung đoàn thủ đô

ĐẠI TÁ HOÀNG KIM HIÊN - CCB Trung đoàn thủ đô

PHÒNG LỊCH SỬ ĐẢNG - Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội

 

CÙNG BẠN ĐỌC THÂN MẾN!

Cuốn sách này được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản lần đầu năm 1964, nay được Nhà xuất bản Hà Nội tái bản theo chủ trương của Thành uỷ và đáp ứng nguyện vọng của các cựu chiến binh Hà Nội và Sư đoàn 308 Anh hùng. Cuốn sách ra mắt bạn đọc đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp (19-12-1946).

Cuốn sách do Trung tướng Vương Thừa Vũ, nguyên chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội mùa đông năm 1946, viết về một sự kiện lịch sử trọng đại và oai hùng của Thủ đô Hà Nội góp phần tô thắm truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc Việt Nam mà mỗi chúng ta đều có quyền tự hào, có trách nhiệm giữ gìn và phát triển.

Cuốn sách này là một bản tường trình chân thực, đầy đủ, cặn kẽ của một nhân chứng lịch sử quan trọng và giúp chúng ta hiểu rõ:

60 năm trước đây dưới sự lãnh đạo kiên quyết và tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vào 20 giờ 03 phút ngày 19 tháng 12 năm 1946, quân và dân thủ đô Hà Nội đã nhất tề đứng lên nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xám lược.

Cuộc chiến đấu kiên cường của quân dân Hà Nội mùa Đông năm 1946 nhằm bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, ngay từ đầu đã thu hút đông đảo nhân dân toàn Thành phố tham gia với đủ các thành phần xã hội tiêu biểu: công nhân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, sinh viên, kỹ sư, bác sĩ, các nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ, nông dân, dân nghèo... Lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" đã thúc đẩy quân dân Hà Nội kết thành sức mạnh vô cùng to lớn vượt qua mọi thử thách hiểm nguy, tạo nên "yếu tố quyết định hàng đầu trong trận tổng giao chiến đầu tiên" giữa những vệ quốc quân, tự vệ, những người Hà Nội trong tay chỉ có bom ba càng, súng khai hậu, lựu đạn, chai xăng cơ-rếp... với đội quân viễn chinh nhà nghề của thực dân Pháp được trang bị vũ khí tối tân và các phương tiện chiến tranh hiện đại.

Cuộc chiến đấu hào hùng của quân dân Hà Nội mùa Đông năm 1946 là biểu hiện tập trung, là bức tranh hoành tráng của cuộc chiến tranh nhân dân theo đường lối, tư tưởng quân sự đúng đắn, ưu việt của Đảng và Hồ Chủ tịch. Nêu cao ý chí chiến đấu "sống chết với Thủ đô", "quyết tử để Tổ quốc quyết sinh", quân dân Hà Nội đã phát huy cao độ nghệ thuật quân sự của cha ông "lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều", sử dụng mọi vũ khí có trong tay, đặc biệt chiến thuật "trùng độc chiến" kết hợp trong đánh - ngoài vây; trong - ngoài cùng đánh ở Liên khu I (nay là quận Hoàn Kiếm) và các Liên khu II, III, cùng các vành đai ngoại thành; phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội Vệ Quốc Đoàn với dân quân tự vệ, giữa tác chiến tập trung với lối đánh du kích phân tán nhỏ lẻ, ra sức tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch. Bằng gần 200 trận chiến đấu quyết liệt diễn ra trong suốt 60 ngày đêm, quân dân thủ đô đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao phó: làm thất bại kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và kìm chân chúng trong 2 tháng trời, gấp đôi thời gian quy định, tạo điều kiện cho cả nước triển khai thế trận chiến lược trường kỳ kháng chiến của Đảng ta.

Trận chiến 60 ngày đêm của quân dân Hà Nội mùa Đông năm 1946 đã gây cho quân địch thất bại nặng nề, đồng thời thực hiện xuất sắc chủ trương bảo toàn lực lượng ta để kháng chiến lâu dài. Đã có những đơn vị chủ lực của ta được sinh ra trong lửa đạn mà điển hình là trung đoàn Thủ đô anh hùng. Ra đời ngày 6 tháng 01 năm 1947 từ cuộc chiến đấu bám trụ kiên cường giữa vòng vây bốn bề của địch ở Liên khu I - khu vực 36 phố phường cổ kính, trung đoàn Thủ đô đã lập nên nhiều chiến tích kỳ diệu. Tết Đinh Hợi, trung đoàn được Bác Hồ gửi thư khen tặng: "Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh". Sau hai tháng chiến đấu oanh liệt, được lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, trung đoàn Thủ đô đã thực hiện cuộc rút quân "thần kỳ" an toàn ra khỏi Hà Nội để đi tiếp cuộc trường chinh giải phóng dân tộc với một lời thề "Thủ đô sẽ chiến thắng quân thù". Và lời thề thiêng liêng đó đã trở thành hiện thực vào cái ngày "trùng trùng quân đi như sóng" giữa bầu trời thu lồng lộng nắng vàng rực rỡ tháng 10 năm 1954, khi "năm cửa ô đón mừng" trung đoàn Thủ đô trong đội hình Đại đoàn chủ lực 308 Quân Tiên Phong tiến về giải phóng Hà Nội mến yêu.

Trận chiến oai hùng 60 ngày đêm của Thủ đô Hà Nội mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp lủ một trong những trang sử chói lọi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh.

60 năm đã đi qua. Hà Nội ngày nay đã trở thành Thủ đô anh hùng của nước Việt Nam độc lập và thống nhất đang xây dựng cuộc sống văn minh hạnh phúc. Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh, vào sức mạnh vô địch của đại đoàn kết dân tộc, quân và dân Hà Nội nhất tâm kế tục, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vận dụng những bài học quý báu của cuộc chiến đấu oanh liệt 60 ngày đêm, mùa Đông năm 1946 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng thủ đô xã hội chủ nghĩa yêu quý giàu mạnh, hiện đại, văn minh, xứng đáng với lòng ngưỡng mộ của đồng bào cả nước và bạn bè trên toàn thế giới.

Giờ đây, khi cuốn sách này (tái bản lần thứ 2) đến với bạn đọc thì tác giả của nó - Trung tướng Vương Thừa Vũ, một người con ưu tú của Hà Nội, đã vĩnh viễn đi xa. Để tưởng niệm và tri ân tác giả, chúng tôi trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc gần xa.

Mùa Đông năm 2006

BAN TUYÊN GIÁO THÀNH ỦY HÀ NỘI

BAN LIÊN LẠC CỰU CHIẾN BINH

TRUNG ĐOÀN THỦ ĐÔ ANH HÙNG

 

Lời nói đầu

          Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống bọn thực dân xâm lược Pháp ở thủ đô Hà Nội trong suốt hai tháng trời vào thời kỳ đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến đấu quyết liệt giữa hai lực lượng quá chênh lệch nhau về trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh, giữa một đội quân xâm lược thiện chiến và một dân tộc bị áp bức vừa mới trỗi dậy. Pháp là một nước tư bản vốn đã phát triển từ lâu, có một nền kinh tế công nghiệp hiện đại, lại là một đế quốc chiếm nhiều thuộc địa trên thế giới, nên có một đạo quân viễn chinh nhà nghề, trang bị đầy đủ vũ khí tối tân và phương tiện hiện đại, có bộ tham mưu giàu kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược, có "truyền thống" rất hung ác và xảo quyệt. Nước Việt Nam thì mới thoát khỏi ách thống trị tàn bạo hơn 80 năm của thực dân Pháp, với một nền kinh tế lạc hậu bị kìm hãm, vơ vét kiệt quệ, với một quân đội rất giàu nhiệt tình cách mạng nhưng mới phát triển và trang bị rất thô sơ.

          Dưới sự lãnh đạo kiên quyết và tài tình của Đảng ta, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã phát huy truyền thống chống ngoại xâm lâu đời, không hề nao núng trước một kẻ địch mạnh hơn gấp bội. Quân và dân thủ đô Hà Nội, với hai bàn tay trắng, đã nêu cao khí tiết của một dân tộc anh hùng, sáng tạo ra trăm phương nghìn kế kiên quyết đánh bại kẻ thù xâm lược và với tinh thần anh dũng phi thường, đã giam chân giặc Pháp hai tháng trời trong thành phố. Đó là một thắng lợi to lớn trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược. Bọn tư sản phản động cùng một số nhà quân sự tư sản trong và ngoài nước cho rằng: "Việt Nam được mấy hơi (!) mà cũng đối địch với đế quốc Pháp". Trước ngày Hà Nội kháng chiến, họ khuyên chúng ta nên đầu hàng(!). Nhưng chúng ta đã đứng lên và đã chiến thắng, đã làm đảo lộn những "lý luận" và mơ ước của họ. Mặt khác, qua thời gian chiến đấu, chúng ta đã thấy được bản chất của bọn thực dân xâm lược là ngoài mạnh trong yếu. Ta đã giáng vào đầu chúng những nhát búa có sức mạnh vô địch. Đó là lòng tự cường và tinh thần quật khởi của một dân tộc quyết không chịu làm nô lệ. Chúng ta càng tin tưởng vào khả năng của mình, tin tưởng vào tiền đồ chính nghĩa tất thắng. Quân và dân thủ đô Hà Nội đã vinh dự được Hồ Chủ tịch khen ngợi: Đồng bào thủ đô Hà Nội đã cùng bộ đội và dân quân tự vệ chiến đấu giam chân địch được một tháng, đã là thắng lợi, lại giam chân địch được hai tháng, là đại thắng lợi.

          Cuộc chiến đấu bảo vệ thủ đô Hà Nội đã đưa lại thắng lợi to lớn bước đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc. Dưới sự lãnh đạo tài tình và dũng cảm của Đảng, quân và dân Hà Nội đã chiến đấu trong hoàn cảnh gian nan hiểm nghèo, lấy tinh thần "quyết tử để Tổ quốc quyết sinh", mưu trí và dùng vũ khí thô sơ để cản bước tiến của địch. Quân và dân thủ đô Hà Nội đã đem xương máu của mình để giữ vững từng căn nhà, từng góc phố, đã tô thắm trang sử anh hùng của thủ đô Hà Nội, góp phần xứng đáng của mình vào lịch sử vẻ vang của một dân tộc anh hùng. Chúng ta có quyền tự hào với truyền thống anh hùng ấy.

          Từ ngày tiếng súng kháng chiến ở Hà Nội bùng nổ đến nay (năm 1964) đã gần 20 năm. Những người trực tiếp chiến đấu ở Hà Nội đến nay mỗi người công tác một nơi, có người đã khuất. Tài liệu lưu lại không được đầy đủ. Những người không được trực tiếp chiến đấu ở Hà Nội thì chỉ được nghe người này, người khác kể chuyện lại với từng sự việc, từng thời gian, ở từng địa phương riêng lẻ.

          Trong cuốn sách này, tôi không có ý định trình bày các vấn đề của toàn bộ mặt trận, mà chỉ ghi lại sự việc theo trình tự thời gian, với những tài liệu cụ thể còn giữ được, có tham khảo đối chiếu với một số tài liệu khác, để chúng ta cùng nhau nhớ lại sự chỉ đạo vô cùng tài tình và sáng suốt của Đảng ta, tinh thần anh dũng tuyệt vời của quân và dân ta. Ngoài ra, qua tài liệu đó, chúng la khẳng định một số vấn đề về tính chất chiến tranh nhân dân, về hình thức tác chiến và vấn đề chủ động để một đơn vị ở lại Liên khu I giam chân và tiêu hao địch, rồi chủ động rút ra sau khi nhiệm vụ đó đã được hoàn thành, v.v...

          Lâu ngày, tôi cũng quên mất nhiều sự việc cụ thể nên chỉ viết được một phần nhỏ bé trong toàn bộ cuộc chiến đấu anh dũng đó. Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Văn Trân, Trần Độ và tất cả các đồng chí khác cùng Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã nhiệt tình giúp đỡ, bổ sung ý kiến để tôi hoàn thành cuốn sách này.

Hà Nội, tháng 9 năm 1964

TÁC GIẢ

 

Phần thứ nhất

VÀI NÉT VỀ HÀ NỘI

HÀ NỘI, THĂNG LONG XƯA

 

          Năm 1010 (tức năm Canh Tuất), Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ đã thiên đô từ thành Hoa Lư (Hoa Lư là kinh đô nước ta dưới thời Đinh và Tiền Lê, nay thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) về Thăng Long.

          Thăng Long nghĩa là rồng bay. Con rồng là tượng trưng cho sức mạnh vô địch, khi trở mình thì rung chuyển trời đất, khi phủ phục thì uy nghi và kiên cường.

          Thủ đô nước ta mang cái tên đẹp đẽ và oai hùng đó hơn 800 năm, mãi đến năm 1831 mới đổi là Hà Nội. Hà Nội nằm bên hữu ngạn sông Hồng, phía trước có các sông Cầu, sông Kinh Thày, sông Thái Bình che chở. Sau lưng tựa vào dãy núi Tam Đảo cao ngất, quanh năm mây mù bao phủ. Bên trái, bên phải có dãy núi Đông Triều và Trường Sơn. Tam Điệp chạy dài ra sát biển Đông, như hai cánh tay rắn chắc, khuỳnh ra sẵn sàng bảo vệ Thủ đô yêu dấu. Hà Nội là hợp điểm của các đường giao thông thủy bộ, nối liền trung du với đồng bằng, núi rừng với bờ biển. Có lẽ, đó cũng là yêu tố quan trọng để Hà Nội bền vững và phát triển. Và có lẽ đó cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến các đội quân xâm lược trước kia cố tình đánh chiếm Hà Nội rồi tỏa ra xâm chiếm dần cả nước ta.

          Hà Nội có khu 36 phố phường. Đó là những nơi tiêu biểu cho cố đô Thăng Long. Và đó cũng là những "đám lửa" thiêu quân giặc ngay trong lòng Hà Nội những ngày đầu kháng chiến. Xung quanh những phố phường chi chít ấy, ở phía nam và phía tây, có biết bao biệt thự, lâu đài vừa kiên cố, vừa lộng lẫy, có đường lớn rộng thênh thang, có vườn hoa đủ màu sắc, có những hàng cây cổ thụ xòe bóng mát che kín mặt đường. Trước Cách mạng tháng Tám, đây không phải là những nơi nhân dân ta được ở mà lại là những nơi bọn viên chức trong chính quyền thực dân Pháp chiếm cứ.

          Hà Nội qua các triều đại, sự phát triển có khác nhau, nhưng đến năm 1946 thì có diện tích khoảng 152 cây số vuông bao gồm: 20 chợ, 4 bến sông, 4 bến ô tô, 3 ga xe lửa, 18 đường phố, 4 dốc và 24 đại lộ, 249 phố, 55 ngõ với trên 39 vạn người. Trong đó có trên một vạn năm ngàn đồng bào theo đạo Thiên chúa và một số đồng bào theo đạo Cao đài, Tin lành. Ở Hà Nội lúc này, ngoài nhân dân ta, còn có trên một vạn Hoa kiều và hàng trăm ngoại kiều An, Pháp, Anh, Nhật v.v... cư trú.

          Từ xưa, Hà Nội đã có nhiều danh lam thắng cảnh và đã là đầu mối sản xuất và lưu thống hàng hóa của bốn phương, Hà Nội ngày càng thịnh vượng, dán số ngày càng đông đúc, phố phường ngày càng phát triển.

          Từ Thăng Long đến Hà Nội, Thủ đô của ta có gần một ngàn năm lịch sử. Đó là một niềm tự hào của dân tộc ta, một dân tộc anh hùng, có truyền thống đấu tranh bất khuất, đã từng lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.

          Trở lại trang sử cũ: Năm 1257, sau trận Đông Bộ Đầu (Nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông), cửa ngõ phía nam của kinh thành Thăng Long, quân ta đã đánh cho quân Nguyên tan tác phải bỏ chạy về Vân Nam. Năm 1285, sát kinh thành, trong trận Chương Dương lừng lẫy, 50 vạn quân Nguyên đại bại, quân dân ta chiếm lại Thăng Long. Lần thứ ba, năm 1287, Trần Quốc Tuấn tiêu diệt hoàn toàn thủy quân cửa giặc ở sông Bạch Đằng. Chủ tướng quân Nguyên là Thoát Hoan hồn bay phách lạc, phải rời bỏ Thăng Long đem quân bộ tháo chạy. Tuy nhiều lần thất bại, nhưng bọn phong kiến phương bắc vẫn không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng. Năm 1406, nhà Minh lại đem quân giày xéo đất nước ta. Cha con Hồ Quý Ly không được nhân dân và các tầng lớp xã hội tiến bộ lúc ấy ủng hộ nên có chống cự song thất bại. Không chịu khuất phục dưới ách thống trị hà khắc của quân Minh, năm 1418, Lê Lợi, tiêu biểu cho lực lượng xã hội tiến bộ đương thời, khởi nghĩa ở đất Lam Sơn. Năm 1426, sau chín năm kháng chiến gian khổ, quân ta đã chiếm lại hầu khắp đất đai cả nước và tiến tới vây hãm quân Minh tại kinh thành Thăng Long. Cuộc chiến đấu bao vây quân địch ở Thủ đô diễn ra suốt một năm trời. Vòng vây của quân dân ta ngày càng siết chặt. Trong lúc vây hãm địch, quân dân ta đã tổ chức nhiều đợt tấn công vào thành và đã ba lần đánh tan viện binh của giặc từ Trung Quốc kéo sang. Quân Minh càng đánh càng thua, cuối cùng chúng phải xin giảng hòa và rút về nước. Mùa xuân năm 1428, vừa tròn 10 năm kiên trì chống giặc, dân tộc ta đại thắng, kinh đô Thăng Long yêu quý lại được giải phóng.

          Hơn 300 năm sau, Thăng Long lại ghi vào sử sách những chiến công vô cùng oanh liệt. Năm 1788, nhà Thanh đã cho Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang xâm lược nước ta và đánh chiếm Thăng Long. Nhân dân cả nước ta vùng dậy chống giặc. Sau một năm anh dũng kháng chiến, quân ta đã tiến về giải phóng Thăng Long. Sáng ngày 5 tháng giêng âm lịch năm 1789, sau khi quân ta diệt các đồn Hạ Hồi và Ngọc Hồi, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đốc quân đánh vào kinh thành. Tại đồn Loa Sơn (gò Đống Đa), xác giặc chất cao như núi, 20 vạn quân Thanh tan vỡ, xéo lên nhau mà chạy. Trưa mồng 5, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào thành Thăng Long, ăn mừng thắng trận.

          Chiến công hiển hách ấy, chấm dứt nạn xâm lược của phong kiến Trung Quốc đồng thời cũng thủ tiêu tận gốc nạn tương tàn giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn đã diễn ra trong mấy năm, mở đường cho cuộc khôi phục nền thống nhất nước nhà ở đầu thế kỷ XIX.

          Gần 100 năm sau khi thoát khỏi ách chiếm đóng của nhà Thanh, ngày 20 tháng 11 năm 1873, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất. Mặc dầu nhà nước phong kiến chống cự yếu ớt, nhưng cả Hà Nội vẫn vùng lên chống giặc.

          Ngày 20 tháng 4 năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Ngay từ phút đầu, người dân Hà Nội đã tự tay châm lửa đốt nhà mình, hàng dãy phố lửa bốc ngùn ngụt cản bước tiến của giặc. Hàng ngàn người tự vũ trang bằng giáo mác, gậy gộc kéo đến trước đình Quảng Văn (Cửa Nam bây giờ) xin đi đánh giặc. Mặt khác khắp nơi đều nhất loạt đánh chiêng, khua trống, gõ mõ, hò reo để hư trương thanh thế và hỗ trợ cho tinh thần chiến đấu của quan quân trong thành. Tướng sĩ của Hoàng Diệu xông lên mặt thành chém đầu quân giặc đến phút cuối cùng.

          Nhưng, căm giận thay! Triều đình nhà Nguyễn Gia Long đã phản bội dân tộc, quỳ gối đầu hàng, dâng Tổ quốc ta cho giặc. Hà Nội nung nấu hận thù. Sau đó, các phong trào yêu nước, các tổ chức chống thực dân Pháp thống trị liên tiếp nổi lên. Đông Kinh Nghĩa Thục, nhóm sĩ phu yêu nước tiến bộ xuất hiện khoảng tháng 3 năm 1907. Năm 1908, vụ Hà thành đầu độc của binh sĩ Việt Nam làm nội ứng phối hợp với nghĩa quân Đề Thám đã làm cho thực dân Pháp giật mình hoảng sợ. Tiếp đó, Nguyễn Văn Túy - một công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm - và một chiến sĩ Việt Nam Quang Phục hội ném bom khách sạn "Gà vàng" (Coq d’or) ở phố Tràng Tiền ngày 26 tháng 4 năm 1913 giết hai tên trung tá Pháp Mônggơrãng (Montgrand), Sapuy (Chapuis) và một số lính Pháp. Hành động đó đã gây chấn động trong toàn quốc.

         Tư bản Pháp đặt chân tới Hà Nội. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và bắt đầu bổ nhát cuốc đầu tiên đào mồ chôn giai cấp bóc lột và bọn đế quốc xâm lược. Các cuộc đấu tranh từ thấp đến cao của công nhân liên tiếp nổ ra. Năm 1919, đã có bãi công đòi đuổi một tên giám đốc người Pháp. Đặc biệt thời kỳ này, Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội - tiền thân chủ yếu của Đảng Cộng sản Đông Dương - xuất hiện và nãm 1926, đặt trụ sở bí mật của Kỳ bộ Bắc kỳ tại Hà Nội. Từ đó phong trào bãi công ngày càng lan rộng. Ngày 9 tháng 5 năm 1927 ở Hà Nội, đã nổ ra mấy cuộc biểu tình của một vạn rưỡi lao động, học sinh và những người buôn bán nhỏ... phản đối tờ "Dân báo" thóa mạ các chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển. Tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam được củng cố. Đến nay, nhìn lại dĩ vãng, giai cấp công nhân và nhân dân Thủ đô lấy làm tự hào về những sự kiện lịch sử còn lưu truyền: tháng 3 năm 1929, tại số nhà 5D phố Hàm Long, chi bộ cộng sản đầu tiên của Đông Dương được thành lập và sau đó Đảng Cộng sản Đông Dương1 (Thời kỳ này, 3 tổ chức cộng sản ở Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ chưa hợp nhất) ra đời trong một cuộc hội nghị vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 ở phố Khâm Thiên. Từ đó, phong trào đấu tranh lại nổ ra liên tục với mục đích và tính chất rõ rệt hơn hẳn các năm về trước, ở Hà Nội, bọn thực dân Pháp dăng ra cả một màng lưới nhà tù, cảnh sát, mật thám, v.v... tưởng như không ai có thể lọt được qua mắt chúng. Vậy mà đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương đã viết bản luận cương chính trị nổi tiếng ở ngay trong căn nhà của một tên công chức cao cấp Pháp - số 90 Hàng Bông Thợ Nhuộm. Người bồi của tên Pháp nhận đồng chí là người nhà. Sự việc ấy nói lên rằng dù trong hoàn cảnh nào, người chiến sĩ cách mạng cũng luôn luôn được sự ủng hộ của quần chúng cần lao.

          Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Bọn thực dân Pháp thẳng tay đàn áp nhân dân ta. Hà Nội những ngày này tràn ngập không khí khủng bố, nhưng các chiến sĩ cộng sản vẫn một lòng một dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, của dân tộc. Năm 1936, Chính phủ mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền; lợi dụng thuận lợi khách quan đó, phong trào cách mạng ở Hà Nội được đẩy mạnh. Nhóm cộng sản công khai ra tờ báo "Lao động" (Le travail) viết bằng chữ Pháp. Hàng loạt tổ chức cơ sở của Đảng, tổ chức quần chúng được thành lập trong hàng ngũ công nhân. Đốm lửa đấu tranh ngày càng lan rộng. Uy tín của Đảng ngày càng cao. Đế quốc Pháp thống trị và bóc lột nhân dân và giai cấp vô sản Việt Nam thì giai cấp vô sản Việt Nam và giai cấp vô sản Pháp càng siết chặt hàng ngũ vững bước đấu tranh. Nhân dân Pháp nhiệt tình ủng hộ nhân dân Việt Nam.

          Ngày mồng 1 tháng 5 năm 1938, trên 2 vạn người thuộc đủ các tầng lớp nhân dân Hà Nội tham dự cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, hô vang khẩu hiệu đấu tranh cho tự do dân chủ.

          Những năm sau, mặc gông cùm, máy chém, mặc lưỡi lê, họng súng dã man của kẻ thù, phong trào cách mạng ờ Hà Nội không hề lùi bước. Lòng dân Hà Nội hận thù càng chứa chất, khí thế đấu tranh càng sôi sục. Tấm gương hy sinh cao cả với khí phách anh hùng của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Tổng bí thư của Đảng, mãi mãi còn sáng chói. Tại Bạch Mai, trước giờ bị xử bắn, đồng chí đã lớn tiếng tố cáo và lên án giai cấp thống trị và bọn đế quốc thực dân xâm lược, đồng chí vẫn vững lòng tin: Cách mạng của giai cấp vô sản nhất định thành công, dân tộc Việt Nam nhất định thắng!

          Sang thời kỳ tiền khởi nghĩa, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng ở Hà Nội cuồn cuộn dâng lên như bão biển. Thời cơ đã đến! Cả dân tộc vùng lên! Cả Hà Nội quật khởi! Các cuộc mít tinh tuần hành thị uy liên tiếp nổ ra, bừng bừng khí thế khởi nghĩa.

          Bão táp cách mạng nối lên như trời long đất lở. Sáng sớm ngày 19 tháng Tám năm 1945, cùng với lực lượng vũ trang cách mạng, hơn 20 vạn nhân dân Hà Nội vùng lên khởi nghĩa đập tan chính quyền bù nhìn. Chính quyền cách mạng ra đời. Bầu trời thủ đô Hà Nội rực sáng. Ngàn vạn cờ đỏ sao vàng tung bay, Hà Nội giải phóng! Giai cấp vô sản đã mở ra cho Hà Nội một trang sử mới, một trang sử mà nhân dân lao động nắm chính quyền.

          Nhớ lại những chiến công hiển hách, những sự tích anh hùng của thủ đô Việt Nam, ta sẽ thấy trong "60 ngày khói lửa" mùa Đông năm 1946, nhân dân Hà Nội đã tỏ ra xứng đáng với truyền thống kiên cường, bất khuất của cha ông.

 

TRƯỚC NGÀY KHỞI CHIẾN

          Năm 1945, Đồng minh thắng phát xít Đức - Ý - Nhật. Chiến tranh thế giói lần thứ hai kết thúc, ở Việt Nam, Cách mạng tháng Tám thành công. Theo hiệp ước của Đồng minh, quân đội Tưởng Giới Thạch vào giải giáp quân đội phát xít Nhật ở Đông Dương, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc; quân đội Anh giải giáp quân đội phát xít Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam. Nhưng sự thật không phải chỉ có như thế. Con cú vọ bị đánh đuổi bay xa, nhưng vẫn quay cổ lại tiếc miếng mồi béo bở. Quân Pháp theo sau quân Anh trở lại Nam Bộ với mục đích lập lại nền đô hộ cũ. Được quân Anh dung túng, giúp sức, quân Pháp khiêu khích và tiến đánh Sài Gòn vào ngày 23 tháng 9 năm 1945.

          Nhưng giặc Pháp đã lầm. Sài Gòn không bao giờ khoanh tay khuất phục. Cả Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Nhân dân cả nước chi viện cho Nam Bộ, quyết không bao giờ để cho thực dân Pháp chiếm miền Nam ruột thịt của mình.

          Ngày 19 tháng 11 năm 1945, quân Pháp đổ bộ vào Nha Trang. Đầu tháng 5 năm 1946, chúng huy động 15.000 quân đánh chiếm Tây Nguyên và dùng miền này làm bàn đạp tiến đánh các miền khác ở Trung Bộ. Giặc Pháp sấn sổ như một tên cướp giật. Trong khoảng thời gian ngắn, chúng tung quân đi đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ...

          Trước hành động xâm lược của giặc Pháp, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị kháng chiến, kiến quốc, vạch ra đường lối kháng chiến và chỉ rõ cần triệt để vận dụng chiến tranh du kích trên khắp miền Nam.

          Ở Bắc Bộ, hai mươi vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào, đem theo "một đàn chó sói" - bọn "cõng rắn cắn gà nhà" - Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh của Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần với mưu đồ: Lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính quyền bù nhìn tay sai đế quốc.

          Trong lúc đó, 3.000 tàn binh Pháp đã bị Nhật đánh bại ngày 9 tháng 3 năm 1945, phải chạy trốn sang đất Trung Quốc, nay lại vượt biên giới tiến vào Lai Châu rồi tiến đánh Quỳnh Nhai, Tuần Giáo. Bọn Pháp từ Thượng Lào tiến qua Điện Biên Phủ, rồi dần dần lấn tới Sơn La, Hòa Bình.

          Giữa lúc Tổ quốc lâm vào cảnh vô cùng hiểm nghèo, tình hình trở nên vô cùng phức tạp: nước ta sau gần một thế kỷ bị đế quốc Pháp thống trị, bị vơ vét tận xương tủy, chính quyền nhân dân mới thành lập, lực lượng vũ trang của ta mới tổ chức, quần chúng mới thoát khỏi gông cùm nô lệ, tuy bừng bừng khí thế đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhưng tổ chức đội ngũ chưa được củng cố thì thù trong giặc ngoài xúm lại định xâu xé nước ta. Nhưng Đảng và Hồ Chủ tịch đã khéo léo lái con thuyền Tổ quốc vượt qua cơn sóng gió. Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp được ký kết ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946. Ta hòa hoãn với Pháp để tranh thủ thời gian xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng, đồng thời gạt 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ra ngoài. Bọn "chó săn" bàng hoàng như bị sét đánh ngang đầu, một số trở về con đường chính nghĩa, một số cuốn gói chạy theo quân Tưởng, một số ngoan cố dần dần bị ta tiễu trừ, số còn lại quay ra bí mật bắt tay với giặc Pháp.

Nhưng, như mọi người đều biết, bọn đế quốc không dễ dàng nhả miếng mồi ngon.

          Theo hiệp định sơ bộ, quân đội Pháp cùng với quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm nhiệm vụ tiếp phòng thay cho quân Tưởng Giới Thạch rút về nước. Ngày 1 tháng 3 năm 1946, quân Pháp, do tướng Lơcléc (Leclerc) chỉ huy, xuất phát từ Nam Bộ đổ bộ lên Hải Phòng, gồm các đơn vị sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 9(9e DIC), sư đoàn thiết giáp thứ 2 (2e DB) và một lữ đoàn lính thủy đánh bộ, tổng cộng là 15.000 tên. Sớm ngày 6 tháng 3, chúng vào Hải Phòng... Đến ngày 18 tháng 3, Lơcléc tiến vào Hà Nội cùng với một số đơn vị của sư đoàn thiết giáp thứ 2 gồm khoảng 1.000 tên với 200 xe. Sau đó 4.000 quân Pháp bị Nhật giam trong thành được giải thoát1 (Tướng Giăng Mác-săng, Thảm kịch Đông-dương (Le drame indochinois), Nhà xuất bản J.Peyrounet. Pa-ri. 10-1953, tr.61, 62, 63. Về số 4.000 quân Pháp bị giam trong thành, trong cuốn Số phận Đông-dương (Le destin de rindochine) của Xa-bát-chi-ê cũng nói như vậy).

          Bản chất ăn cướp, dù khoác áo cà sa, nói năng lịch sự đến thế nào chăng nữa thì sớm muộn vẫn lòi mặt ăn cướp. Hiệp định sơ bộ ký chưa ráo mực, thực dân Pháp đã tiến hành hàng loạt âm mưu lật đổ Chính phủ ta, định đánh úp Hà Nội để tiến tới thôn tính cả nước ta. Tờ báo "Đề huề" (L’Entente) của chúng xuất bản tại Hà Nội trắng trợn vu khống Chính phủ ta. Chúng liên tiếp tăng quân tới Hà Nội, nhưng vẫn già mồm chối cãi quanh co. Tại nước Pháp, báo "Giải phóng", báo "Du kích" và báo "Chiến đấu" cũng tố cáo hành động mập mờ, bí ổi ấy của bọn Pháp ở Việt Nam.

          Trước ngày khởi chiến, ở Hà Nội, lực lượng của giặc Pháp lên tới khoảng 6.500 quân, đa số là lính lê dương, lính tinh nhuệ thiện chiến và 62 xe tăng, xe bọc sắt, 19 máy bay, 42 pháo, 5.000 súng trường, 600 liên thanh nhẹ, 180 liên thanh nặng1 (Phụ lục - Vị trí và lực lượng địch trước ngày khởi chiến (trang 208)). Chúng bố trí các cứ điểm, chẹn các cửa ngõ của thành phố, thành một vành đai bao vây Hà Nội, khống chế các vị trí chiến thuật. Giặc Pháp âm mưu dùng quân cơ động mạnh trong thành tấn công chia cắt Hà Nội ra từng mảng, bao vây tiêu diệt ta ở từng khu vực. Nơi nào có cơ quan đầu não, có nhà máy, hoặc bộ đội của ta thì chúng đưa nhiều lực lượng đến đóng kèm ngay bên cạnh, với lý do để bảo vệ an ninh(!), nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu bất ngờ, nhanh chóng tiêu diệt quân đội và cơ quan Chính phủ ta. Ví dụ như giặc Pháp đưa 200 quân tới chiếm đóng khách sạn Mêtơrôpôn cách Bắc Bộ phủ2 (Nay là Vụ Lễ tân, Bộ Ngoại giao) vài chục thước. Vì Bắc Bộ phủ là nơi làm việc của Hồ Chủ tịch và một số cơ quan Chính phủ ta. Ngoài ra  chúng còn đưa quân tới chiếm đóng nhiều nơi khác như nhà ngân hàng, máy điện, máy nước, ga xe lửa, cầu Long Biên, v.v... cùng với âm mưu đen tối như vậy.

           Rõ ràng kẻ cướp đã lộ mặt! Chúng đã đem vào Hà Nội một lực lượng quân sự lớn mạnh, chuẩn bị một màn cướp đoạt chớp nhoáng, với thái độ hung hăng, kẻ cả, chủ quan kiêu ngạo. Nhưng cũng từ đó, chúng bắt đầu chuẩn bị lao đầu vào một rừng lửa rực cháy ngất trời, để tự thiêu hủy mình một cách thảm hại.

         Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta đã chủ động chuẩn bị mọi mặt về chính trị, kinh tế và quốc phòng, để sẵn sàng đối phó một cuộc chiến tranh xâm lược mới do lòng tham vô đáy của bọn đế quốc quay lại hòng bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta. Đảng và Chính phủ đã phát triển mau chóng các lực lượng vũ trang chủ lực và tự vệ, lập các kho dự trữ lương thực, các xưởng chế tạo vũ khí đạn dược theo phương pháp thủ công, đã kêu gọi nhân dân tự rèn đúc vũ khí thô sơ, sẵn sàng xông ra tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc. Các lớp đào tạo cán bộ quân sự và chính trị liên tiếp được mở ra ở các địa phương và trung ương, cho tới tháng 12 năm 1946, ở Hà Nội, chúng ta đã xây dựng được một lực lượng vũ trang tập trung - Vệ Quốc Đoàn - có 5 tiểu đoàn gồm 2.515 người, 1.500 súng trường (trong đó có một nửa là súng khai hậu và súng bắn chim, một nửa gồm đủ các loại súng trường Nhật, Mỹ, Mútxcơtông, Anhđôsinoa...) Trung, đại liên có 4 khẩu, bom ba càng1 (Là loại bom do công binh xưởng Việt Nam chế tạo, có cán dài khoảng 3 mét, dùng sức người lao vào xe tăng, xe bọc sắt của địch. Bom nổ, xe cơ giới của địch bị phá hủy) 80 quả, lựu đạn 1.000 quả, đạn các loại 2 vạn viên, badôca 1 khẩu, étxăng crếp 200 chai, 7 khẩu pháo cao xạ 75 ly cũ của Pháp ta đem dùng làm pháo mặt đất để bắn gián tiếp và một sơn pháo 75 ly, 1 pháo 25 ly đặt ở các pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh, Ba Đê, Thủ Khối. Ngoài số súng nói trên, phần lớn các đơn vị bộ đội chủ lực đều trang bị bằng dao găm, mã tấu, giáo, mác, kiếm và các loại vũ khí cũ. Nếu tính trung bình thì 2 người mới có 1 khẩu súng trường, mỗi chiến sĩ có được 8 viên đạn, 5 chiến sĩ mới có 2 quả lựu đạn, 600 người mới có 1 khẩu súng máy. Lúc ấy, lực lượng chính quy chỉ khác các lực lượng dân quân tự vệ là sống tập trung, còn các mặt trang bị, học tập, chế độ, v.v.. thì mỗi đơn vị một vẻ. Ngay cả đến việc ăn, mặc cũng mỗi người, mỗi đơn vị tùy khả năng của mình, của địa phương mà cải tiến. Các chiến sĩ đều là những thanh niên mới nhập ngũ được một vài tháng, mới học tập được một số động tác chiến đấu lăn, lê, bò, bắn súng, ném lựu đạn... đã phải phân tán nơi 5 người, nơi 1 tiếu đội, 1 trung đội để canh gác bảo vệ cơ quan, công xưởng, nhà máy1 (Phụ lục - Vị trí và lực lượng của ta trước ngày giặc Pháp khởi chiến). Cấp chỉ huy trừ một vài đồng chí hoạt động cách mạng từ thời kỳ bí mật có học tại trường Hoàng Phố hoặc Liễu Châu ở Trung Quốc và một số là cựu binh sĩ tiến bộ, còn phần lớn là những thanh niên và hội viên cứu quốc mới chỉ được huấn luyện cấp tốc từ 15 đến 30 ngày. Hồi đó, theo chủ trương của trên, đồng chí Trần Độ có mở lớp huấn luyện ngắn ngày cho các chính trị viên đại đội, trung đội Vệ Quốc Đoàn lấy tên là trường Bắc Sơn, chương trình huấn luyện gồm tài liệu "Công tác chính trị trong bộ đội" và cuốn sách "Chính trị giáo đạo viên" dịch của Trung Quốc do đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa cho. Nhưng cũng có nhiều đồng chí không được qua lớp huấn luyện nào.

          Ngoài lực lượng Vệ Quốc Đoàn kể trên, ở Hà Nội còn có 8 trung đội "công an xung phong" do Mặt trận Việt Minh tổ chức lãnh đạo và có khoảng 6.000 thanh niên yêu nước xung phong gia nhập tự vệ chiến đấu. Dần dần tới trước ngày nổ súng, lực lượng tự vệ ở Hà Nội có tới 8.500 người. Các chiến sĩ tự vệ chủ yếu lấy tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm và mưu mẹo, sử dụng phương tiện, vũ khí thô sơ sẵn có hoặc do mình tạo ra để đánh lại xe tăng, pháo binh và máy bay chiến đấu của giặc. Cán bộ chỉ huy do anh em bầu ra, có một số được học quân sự hoặc chính trị từ 2 đến 3 ngày, còn hầu hết không học qua trường, lớp nào.

          Xem như vậy thì về mặt quân số và trang bị, rõ ràng bộ đội tập trung của ta lúc ấy còn rất yếu. Nếu so sánh với giặc Pháp thì binh lực của chúng hơn ta 3 lần. Vũ khí bộ binh của chúng không những tối tân hơn, tốt hơn, mà còn nhiều hơn ta gấp 9 lần, pháo binh gấp 6 lần. Còn xe tăng và máy bay thì giặc Pháp hoàn toàn chiếm ưu thế tuyệt đối, ta chưa có gì. Về phương tiện vận chuyển cơ động, giặc Pháp có ô tô vận tải, canô, tàu thủy... Phía Việt Nam dựa vào đôi vai để gồng gánh, đeo, vác và đôi chân đi bộ. Giặc Pháp còn hơn ta về mặt kỹ thuật và tổ chức chỉ huy. Vì chúng là một quân đội nhà nghề chuyên đi xâm lược, có bộ máy chỉ đạo chiến tranh và cơ quan tham mưu giàu kinh nghiệm... Nếu theo đường lối quân sự tiến hành chiến tranh tự vệ bằng cách lấy chính quy chọi chính quy, lấy chủ lực chọi chủ lực, đánh giá quân đội ta chỉ ở mấy khẩu súng kíp, mấy con dao thì quả là dễ mất tin tưởng đi đến đầu hàng thỏa hiệp, hoặc ngược lại "dốc túi đánh một canh" đi đến khánh kiệt lực lượng. Và nếu làm như vậy thì cuộc chiến đấu tự vệ của chúng ta sẽ đi đến đâu? Thủ đô của chúng ta sẽ nằm trong tình trạng như thế nào?

         Nhưng Đảng ta đã vận dụng tài tình tư tưởng quân sự Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước nhà, đã tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng và đã động viên toàn dân vũ trang đứng lên kháng chiến lâu dài, đánh giặc trên mọi mặt, bằng mọi hình thức quyết giành thắng lợi cuối cùng.

 

GIẶC PHÁP TRỞ MẶT

Ngày nay, ai tin rằng bọn tư bản đế quốc đã thay đổi bản chất bóc lột và xâm lược thì không khác gì gà trống vì nghe lời đường mật của cáo già nên đã thiệt thân, cừu non tin lời nịnh hót của chó sói nên đã bị cắn xé.

          Vừa đặt chân tới Hà Nội, giặc Pháp đã trở mặt xé bỏ hiệp định sơ bộ. Ngày 27 tháng 3 năm 1946, chúng đánh chiếm Nha Tài chính Việt Nam1 (Nay là trụ sở Bộ Ngoại giao), hạ cờ đỏ sao vàng xuống, kéo cờ tam tài lên. Thật là một hành động vô cùng láo xược! Nếu ta lùi bước này, kẻ thù sẽ tiến thêm bước nữa. Nhưng không, chúng ta không lùi bước. Suốt ngày 29 tháng 3, làn sóng công phẫn của nhân dân Hà Nội dâng lên cuồn cuộn, hàng chục vạn người đã xuống đường biểu tình phản đối hành động xâm lược của giặc Pháp. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân thủ đô, giặc Pháp đã phải hạ cờ tam tài và rút khỏi Nha Tài chính. Tuy nhiên chúng vẫn tiến hành những mưu đồ thâm độc, chúng vạch ra một chương trình hành động tháng 5 năm 1946 theo kiểu "ném đá giấu tay":

          "- Ngày 6 tháng 5 năm 1946, lúc quân Tàu1 (Những chữ Tàu ở đây là chỉ quân đội Tưởng Giới Thạch) rút khỏi Việt Nam, sẽ ám sát một số lính Tàu quan trọng để gây ác cảm giữa Tàu và Việt Nam.

          - Ngày 19 tháng 5 năm 1946, ra lệnh cho đàn bà, trẻ con, người già yếu (Pháp kiều) vào Sài Gòn để đến ngày 10 tháng 6 năm 1946, đợi khi Tàu rút sẽ uy hiếp Việt Nam. Tiếp tục tích trữ lương thực và phân phối vũ khí cho các địa điểm trong Hà Nội.

          - Ngày 22 tháng 5 năm 1946, đợi khi Tàu rút lui sẽ can thiệp vào nội trị Việt Nam, giữ sự trị an.

          - Phiên họp ngày 25 tháng 5 năm 1946, bàn về chủ trương đánh chiếm Trung, Bắc Bộ.

          - Vì không thể chỉ chờ mong ở Pháp quốc tiếp tế cho quân đội Pháp ở đây, ngày 29 tháng 5 năm 1946 bàn đến vấn đề tự túc ở Đông Dương"2 (Tài liệu ta bắt được của giặc Pháp năm 1946).

          Chương trình hành động của giặc Pháp như thế, nhưng chúng vẫn la lối ầm ĩ là "bị khiêu khích, bị tấn công"(!). Với Thủ đôạn "vừa ăn cướp vừa la làng" ấy, giặc Pháp cũng không thể lừa bịp được ai. Kẻ cướp vẫn hiện nguyên hình là kẻ cướp. Ngày 2 tháng 5 năm 1946, chúng bắt giam 15 công nhân trong thành, lập tức 2.000 anh chị em công nhân khác đã đấu tranh đình công kéo dài 2 tuần lễ. Ngày 18 tháng 5, giặc Pháp phải nhượng bộ, thả tất cả 15 người. Trong tháng 5 năm 1946, giặc Pháp đã phân phát đầy đủ vũ khí cho các kiều dân và công chức Pháp. Ngày 8 tháng 5 năm 1946, nhiều sĩ quan và binh lính Pháp mặc thường phục giả là kiều dân đến xem xét các vị trí quan trọng, bí mật bố trí thành ổ chiến đấu. "Ở khách sạn Xpơlăngdít (Splendide), khách sạn Mêtơrôpôn (Métropole) đều có bố trí súng trường, súng máy và rất đông quân. Khách sạn Côngtinăngtan (Continental, trước ga xe lửa), khách sạn Técminuýt đờ la ga (Terminus de la gare) mỗi nơi có 40 súng trường. Tiệm ăn Giêrăng (Gérand) phố Triệu Quang Phục (trước cửa trại Vệ Quốc Đoàn) và nhà Phái đoàn Anh (Mission Anglaise) đều có vũ khí đạn dược. Nhà Ănggiê (Anger) - 17 Trần Hưng Đạo - nhà số 9 phố Nguyễn Văn Trạch và nhà thờ Liễu Giai, mỗi nơi đều có từ 2 đến 4 súng máy loại nặng"1 (Tài liệu ta bắt được của Pháp năm 1946).

          Song song với việc bí mật lập các ổ tác chiến ở các khu phố, hành động khiêu khích của giặc Pháp ngày càng trắng trợn. Chúng cho quân lấn sang chiếm đóng Phủ Toàn quyền cũ. Xe tăng, xe bọc sắt kéo đến trước cổng Bắc Bộ phủ, nơi Chính phủ ta làm việc, gầm gừ lồng lộn như một bầy thú dữ hòng đe dọa, uy hiếp ta. Tháng 6, chúng ra sức vận động, thúc ép thanh niên kiều dân Pháp vào quân đội thực dân Pháp và tiếp tục bí mật đưa quân đến ở rải rác trong các nhà bọn tay chân của chúng trong thành phố. Hành động lén lút ấy giấu sao nổi những người dân đang cảnh giác theo dõi kẻ thù và sẵn sàng chiến đấu, thà chết không chịu làm nô lệ. Nhưng toàn dân ta vẫn làm theo yêu cầu của Đảng và Bác Hồ, nén căm giận, tránh âm mưu khiêu khích của giặc, kiên trì tranh thủ điều kiện hòa binh để gấp rút xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng. Đảng ta kịp thời đề ra những khẩu hiệu đấu tranh: "Quân đội Pháp không được khiêu khích để lấy cớ nhúng tay vào nội trị Việt Nam, quân đội Pháp phải tôn trọng nển độc lập của Việt Nam", "Phản đối chiến tranh xâm lược, binh lính Pháp hãy đòi hồi hương!", "Nhân dân Việt - Pháp đoàn kết đấu tranh chống thực dân phản động Pháp âm mưu chiếm Việt Nam".

          Ngày 6 tháng 7, hội nghị Việt - Pháp họp ở Phôngtennơbơlô (Fontainebleau). Tại hội nghị này, trưởng phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đồng chí Phạm Văn Đồng lên tiếng phản đối việc thành lập chính phủ Nam kỳ tự trị và việc Đácgiăngliơ1 (Cao ủy Pháp ờ Đông Dương) thừa nhận chính phủ ấy. Trong khi đó ở Hà Nội, quân đội thực dân Pháp chuẩn bị đánh úp Chính phủ ta vào ngày 14 tháng 7. Đó là một kế hoạch xâm lược dưới hình thức một trò hề đảo chính do bọn thực dân Pháp chủ mưu và được bọn phản động tay sai giúp sức thực hiện. Kế hoạch ấy rất dã man, không những vì âm mưu đen tối xâm lược nước ta mà còn biểu hiện sự phân biệt chủng tộc một cách độc ác: Quân Pháp sẽ tổ chức lễ kỷ niệm cách mạng tư sản dân quyền Pháp ở Hà Nội một cách rầm rộ. Chúng sẽ diễu binh trên khắp các đường phố, chủ yếu ở khu vực tập trung các cơ quan của Đảng và Chính phủ ta. Các lực lượng vũ trang của Pháp sẵn sàng chiến đấu, nhân cơ hội đó sẽ hành động. Bọn Đại Việt2 (Đảng phái phản động làm tay sai cho giặc Pháp) đã chuyển mìn và lựu đạn bố trí sẵn ở một số nơi trong thành phố. Khi quân Pháp diễu qua, một số tên Đại Việt sẽ ném lựu đạn và bắn súng vào các đoàn diễu binh, nhưng chỉ được bắn vào các toán gồm lính Marốc và Xênêgan, tuyệt đối không được bắn vào lính Pháp. Bọn Pháp nhân việc ấy mà đổ vấy cho ta cố tình đánh chúng và lập tức tiến quân bao vây các cơ quan Chính phủ ta, bắt các lãnh đạo và nhân viên Chính phủ, đồng thời bọn Đại Việt tuyên bố đảo chính, lập chính phủ bù nhìn, v.v...

          Nhưng "vỏ quýt dày có móng tay nhọn". Giặc Pháp không ngờ sự việc diễn ra đã hoàn toàn ngược lại. Ngày 12 tháng 7, nhân dân và công an Hà Nội đã khám phá và tóm cổ những tên đầu sỏ phản động trong các vụ Ôn Như Hầu1 (Phụ lục - Vụ Ôn Như Hầu... (trang 217)), khu vực đường Quán Thánh, Châu Long. Tất cả những truyền đơn, báo cáo, yết thị và kế hoạch lật đổ của bọn phản động Quốc dân đảng2 (Lúc này bọn Đại Việt và Quốc dân đảng đã hợp nhất và lấy tên Quốc dân đảng. Chi tiết xem phụ lục, Vụ Ôn Như Hầu...) làm tay sai cho giặc Pháp đều bị phơi trần. Cả "thầy" lẫn "tớ" hết đường chối cãi. Ngày 14 tháng 7, không thấy mặt Xanhtơni bén mảng đến khẩn khoản để nghị với Chính phủ ta xin "diễu binh khắp thành phố Hà Nội" như mấy hôm trước nữa. Âm mưu đó đã bị thất bại nhưng quân Pháp vẫn xúc tiến âm mưu đen tối khác: tiếp tục bãi bỏ lệnh thuyên chuyển quân đội ở Bắc Bộ và Nam Bộ, tiếp tục tăng quân và vũ khí đưa từ Nam Bộ ra Bắc. Ngoài ra chúng còn tạm (?) bãi bỏ việc cho hồi hương binh lính hết hạn tại ngũ, còn tiếp tục tuyển thổ phỉ, tuyển tay sai. "Vụ Tham Hoan" là một chứng cớ. Tên Tham Hoan là một công chức cao cấp ngành bưu điện trong thời kỳ Pháp còn đô hộ nước ta. Hắn là tư sản, bố vợ là tổng đốc, Tham Hoan chuyên nghề tuyển người làm nội ứng cho giặc Pháp. Chính Xanhtơni trực tiếp giao nhiệm vụ cho hắn: "Ai muốn theo Pháp thì chi cần ký tên vào một bản danh sách là sẽ được Pháp cấp ngay 500 đồng và một tạ gạo". Khi bắt Tham Hoan, ta bắt được cả bản danh sách ấy giấu trong người hắn.

          Lợi dụng chính quyền ta mới thành lập chưa được một năm, mọi tổ chức của ta chưa kịp củng cố vững chắc, chúng đã ráo riết chuẩn bị một cuộc tấn công chớp nhoáng, tiếp tục khiêu khích, lấn dần. Bốn giờ chiều ngày 29 tháng 8 năm 1946, chúng chiếm Nha Thuế quan của ta. Xe nhà binh Pháp mở hết tốc lực chạy khắp thành phố, cán người, bắt cóc, bắn bừa bãi vào nhân dân đi qua đường phố.

          Để làm dịu bớt không khí căng thẳng và tranh thủ thời gian xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng quốc phòng, sẵn sàng đối phó với việc đế quốc Pháp bất ngờ trở mặt tấn công xâm lược nước ta một lần nữa, ngày 14 tháng 9 năm 1946, Hồ Chủ tịch ký với Mutê (Marius Moutet), bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp, một tạm ước. Nhưng tạm ước vừa ký xong, giặc Pháp lại xúc tiến những âm mưu mới. "Ngày 29 tháng 9 năm 1946, một phái đoàn kinh tế Pháp do Lôrăng (Laurent) làm trưởng đoàn đã sang Singapore điều đình với nhà đương cục Anh, ký một bản hiệp ước cùng nhau chia sẻ quyền lợi kinh tế ở Á Đông và thỏa thuận để một đại biểu Anh được dự vào phần kiểm soát tài chính các ngân hàng Việt Nam. Viên đại biểu Anh đó là Tơribo Uynsơn (Tribor Wilson)"1 (Tài liệu lưu trữ cơ quan Bộ Tổng tham mưu). Bọn thực dân Pháp lại ký kết với bọn Tưởng Giới Thạch một hiệp ước thương mại nhằm bóp nghẹt kinh tế của ta, che chở cho bọn Tưởng Giới Thạch tự do xuất, nhập khẩu những hàng hóa mà Chính phủ ta ngăn cấm, giúp đỡ bọn đặc vụ, thổ phỉ hoạt động phá hoại. Giặc Pháp còn "thành lập một uỷ ban kiểm soát hàng hóa xuất nhập cảng ở Việt Nam. Ủy ban này bắt đầu làm việc ngày 15 tháng 10 năm 1946... và thành lập cơ quan thương chính song hành với Nha Thuế quan Việt Nam"1 (Thông tư của Bộ Kinh tế Pháp ngày 14 tháng 10 năm 1946). Chúng đòi những hàng hóa của ta phải có giấy phép của Pháp cấp mới được vận chuyển trên miền duyên hải. Ta muốn thông thương với nước ngoài phải cho Pháp kiểm soát, phải đưa sổ cho Pháp ký thuận mới được đi. Thật là những hành động hoàn toàn vô lý của những tên cướp biển. Ở các nơi khác, giặc Pháp ráo riết mở rộng phạm vi chiếm đóng hòng cô lập Hà Nội. Tại Sơn La suốt bốn ngày, từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 11, hai máy bay khu trục của giặc Pháp mỗi ngày hai lần bắn phá vào nhân dân và các làng mạc, quân Pháp ở Mường Krieng tấn công xuống bản Mong. Tại Hòn Gai, ngày 8 tháng 11, giặc Pháp đổ bộ vào làng Tài Xá gần vùng Cẩm Phả bến. Ở Hải Ninh, giặc Pháp cho máy bay bắn xuống những vùng đồng bào ta đang gặt, đồng thời chúng đưa bọn thổ phỉ đi cướp phá 270 mẫu lúa của nhân dân.

          Tình hình ấy buộc chúng ta phải hết sức cảnh giác chuẩn bị đề phòng, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế mà giặc Pháp có thể gây ra.

          Hà Nội nằm trong tình trạng bị thúc ép, đe dọa và uy hiếp nghiêm trọng.

 

Phần thứ hai

HÀ NỘI NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN

HÀ NỘI SỤC SÔI

          Giặc Pháp tổ chức ngày càng nhiều những cuộc diễu binh thị uy trên các đường phố và nhiều cuộc tập trận giả chiến thuật tấn công ở các vườn hoa Hà Nội. Chúng vẫn âm mưu dùng áp lực quân sự bắt ta phải nhượng bộ từng bước và cuối cùng phải đầu hàng(!), nếu không, một màn kịch xâm lăng chớp nhoáng và tàn bạo sẽ xảy ra. Tháng 11 năm 1946, không khí thủ đô Hà Nội đã trở nên vô cùng căng thẳng. Giữa lúc ấy, tại ngôi nhà ở gần đầu cầu thị xã Hà Đông về phía Hà Nội, có một cuộc họp quan trọng. Sau khi phân tích tình hình, đồng chí Trường Chinh nói: "Giặc Pháp chuẩn bị gấp rút lắm, trước sau thế nào nó cũng đánh ta. Trung ương giao cho đồng chí Vương Thừa Vũ làm khu trưởng khu XI (khu Hà Nội), tổ chức chuẩn bị sẵn sàng đề phòng chúng trở mặt gây chiến". Tại đây, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng đã nhấn mạnh: "Nếu giặc Pháp cố tình tấn công đánh chiếm Hà Nội, thì ta phải làm thế nào cho khéo, giữ được lực lượng để đánh lâu dài và phải hết sức tranh thủ chuẩn bị, nhưng cũng hết sức tránh mắc mưu khiêu khích của giặc, vì để kháng chiến bùng nổ sớm là không có lợi".

         Bảy ngày sau, 19 tháng 11 năm 1946, tại Lò Lợn, Hà Nội, trụ sở của cơ quan chỉ huy khu XI, đồng chí Lê Quảng Ba, nguyên chỉ huy trưởng của khu, chính thức bàn giao nhiệm vụ. Các cán bộ, chiến sĩ đứng trước quốc kỳ màu đỏ chói lọi nghiêm trang làm lễ chào cờ, đọc mười lời thề danh dự. Những tiếng hô "xin thề!" thốt ra từ đáy lòng các chiến sĩ, những cánh tay rắn chắc, bàn tay nắm chặt nhất loạt giơ lên: "... thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí..."1 (Một đoạn của lời thề thứ 3, trong 10 lời thề danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam). Lòng mọi người sôi sục căm thù khi nghĩ tới một ngày nào đó, giặc Pháp man rợ sẽ nổ súng đánh úp Chính phủ, quân đội và nhân dân ta. Bom đạn của chúng sẽ trút xuống phố xá, làng mạc yên lành. Hà Nội, khói lửa sẽ nghi ngút bốc lên rực trời. Cảnh tàn khốc sẽ diễn ra...

         Nhưng không! Hà Nội nhất định không chịu khoanh tay đợi giờ chết. Thủ đô Hà Nội sẽ đứng lên! Cả nước sẽ đứng lên! Quyết không cam tâm chịu làm thân trâu ngựa. Hà Nội nhất định thắng!

         Mỗi người dân Hà Nội đều sẵn có trong mình một dòng máu anh hùng: "đánh giặc, cứu nước!". Giặc Pháp càng lấn tới, nhân dân Hà Nội càng căm thù sôi sục.

         Hàng ngày, nhân dân các khu phố kéo đến gặp cơ quan chính quyền, gặp Bộ chỉ huy khu tình nguyện xin đi đánh giặc. Người nào cũng biểu lộ ý chí sắt đá của mình. "Giặc Pháp lấn át ta quá lắm, không chịu được nữa rồi. Trước sau thế nào nó cũng đánh mình. Đánh! nhất định ta phải đánh!". Đó là lời nói của một cụ già đã ngoài 60 tuổi, khi cụ đến xin chính quyền cho đi đánh giặc. Ở Hà Nội, không riêng gì người lớn mà cả các em nhỏ cũng rất căm thù hành động hung bạo của quân cướp nước. Em Minh, 15 tuổi, cũng như trăm ngàn em bé khác, sẵn có trong người dòng máu của Trần Quốc Toản, trước cảnh Tổ quốc lâm nguy đã nhất quyết xin gia nhập đội ngũ chiến đấu. Khi được vào tự vệ, Minh sung sướng tìm đến tâm tình với đồng chí Trần Độ: "Cậu ạ, cháu được vào tự vệ khu phố rồi. Cháu có hai quả lựu đạn và một con dao găm. Bọn Tây gặp cháu mà sinh sự là cháu choảng liền". Thật đáng tự hào, mặc dầu trang bị, kỹ thuật quân sự của ta còn rất thô sơ, nhưng từ em bé đến ông già, với tinh thần yêu nước rất cao, chẳng ai sợ giặc Pháp. Toàn dân một lòng nhất định không chịu làm nô lệ. Giữa lúc nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược sắp nổ ra ngày càng rõ rệt, lòng căm thù của nhân dân Hà Nội đối với giặc Pháp ngày càng sôi sục thì Đảng ủy mặt trận Hà Nội được thành lập gồm đồng chí Nguyễn Văn Trân (bí thư) và các đồng chí Lê Hoàng, Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo, Nguyễn Tài, Ngô Ngọc Du (ủy viên). Đồng chí Trần Quốc Hoàn hồi đó là phó bí thư xứ ủy Bắc kỳ được Trung ương cử về làm phái viên chỉ đạo và trực tiếp tham gia Đảng ủy mặt trận Hà Nội. Cùng lúc ấy, ủy ban bảo vệ thành phố cũng được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Trân (chủ tịch), Vương Thừa Vũ (phó chủ tịch kiêm chỉ huy trưởng khu XI), Trần Độ (chính trị ủy viên), Lê Hữu Qua (công an). Cơ quan giúp Bộ chỉ huy có đồng chí Khánh làm tham mưu phó, đồng chí Trương Công Cần làm chủ nhiệm chính trị và một số đồng chí khác.

          Cơ quan lãnh đạo của Hà Nội được kiện toàn, quần chúng nhân dân các tầng lớp đoàn kết gắn bó xung quanh Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, tin tưởng vô bờ bến vào Đảng và Bác. Trung ương trực tiếp chỉ đạo, hàng ngày, hàng giờ chăm lo tới tình hình Hà Nội. Một chỉ thị phát ra, muôn người như một, nhất tề hưởng ứng. Chúng ta kiên trì hòa bình nhưng sẵn sàng đánh trả lại, nếu giặc Pháp cố tình nổ súng hòng cướp đoạt Thủ đô của ta, xâm chiếm tổ quốc chúng ta.

          Chúng ta kiên quyết giữ vững chủ quyền, thành thật hợp tác với Pháp trên nguyên tắc tự do và bình đẳng. Nhưng thực dân Pháp lại không muốn thế. Chúng tiếp tục uy hiếp và tấn công ta về mọi mặt: Ngày 20 tháng 11 năm 1946, chúng khiêu khích phá rối trị an, gây chuyện đánh chiếm Hải Phòng, khống chế cửa ngõ ngoại thương, chiếm lĩnh một số vị trí quân sự quan trọng ở miền Bắc nước ta. Và cũng trong ngày đó (20-11-1946), quân Pháp ngang nhiên đánh chiếm Lạng Sơn, khống chế đường biên giới Việt - Trung. Tháng 11, ở Tiên Yên, giặc Pháp đánh về Đình Lập, Móng Cái nhằm kiểm soát miền bờ biển và làm chủ con đường giao thông chiến lược Hải Phòng - Móng Cái và Móng Cái - Lạng Sơn. Ngoài ra, thực dân Pháp còn nổ súng đánh chiếm nhiều nơi khác để cô lập Hà Nội và khống chế khu tam giác đồng bằng Bắc Bộ. Ở Hà Nội, giặc Pháp ngang nhiên phá rối trật tự trị an. Lính Pháp đi chơi, bỗng nhiên xả hàng tràng súng máy vào làng Nhân Thôn, đốt làng Ái Mộ (Gia Lâm). Chúng còn láo xược dùng vũ lực đuổi các chiến sĩ của ta gác nhà Đông Dương ngân hàng ra vỉa hè. Một xe gíp của Pháp qua bờ hồ Hoàn Kiếm bắn súng trường vào đồn công an, nhà Gôđa, ném lựu đạn vào chỗ chiến sĩ ta gác ở Tòa thị chính. Hàng ngày, xảy ra hàng chục vụ xe nhà binh Pháp mở hết tốc lực phóng bạt mạng trong thành phố đâm vào xe của Vệ Quốc Đoàn, đè bẹp xe bò, xe xích lô, chồm lên vỉa hè húc đổ tủ kính, quán hàng. Mỗi ngày xảy ra hàng chục vụ lính Pháp đi cướp thuốc lá, cướp quần áo, mua hàng không trả tiền còn đánh đập người có của, chặn đường ăn cướp, bắt cóc phụ nữ bỏ lên ôtô chạy vào thành. Tại phố Hàng Bông, lính Pháp giơ súng hăm dọa rồi lột áo, móc túi cướp tất cả tiền bạc của một thanh niên, liền sau đó chúng xộc vào cướp 27 chiếc đồng hồ của một cửa hàng của người Hoa kiều. Mặt khác, xe tăng, xe bọc sắt của chúng luôn luôn gầm rú trên các đường phố để khiêu khích. Lòng căm hờn uất ức của đồng bào thủ đô dâng lên tột độ. Có anh đạp xích lô đã rút guốc đập vào mặt giặc Pháp. Có những chủ hàng đã dùng chai lọ ném vào bọn cướp của, ăn quịt. Không khí Hà Nội ngày càng ngột ngạt. Tình hình ngày càng khẩn cấp. Âm mưu gây chiến tranh cướp nước ta một lần nữa của bọn thực dân Pháp ngày càng trắng trợn. Sự sống của Tổ quốc ta chỉ trong gang tấc. Ta đã nhiều lần lên tiếng phản đối chúng. Dân tộc ta có lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm. Chúng ta không thể để cho giặc Pháp muốn sao được vậy.

"Phải chiến đấu để tự vệ!

          ... Một số người Pháp ngoan cố và tham lam bất chấp cả công lý và tự do, đã chống lại ý muốn hòa bình của nhân dân Pháp, từ hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 đến tạm ước 14 tháng 9. Họ cố theo đuổi chính sách thực dân hòng bắt dân Việt Nam trở lại đời nô lệ. Họ tuyên bố thân thiện nhưng vẫn hành động xâm lấn. Họ nói hòa bình hôm trước rồi lại gây chiến hôm sau...

          ... Máu người Việt và Pháp đang đổ ở Hải Phòng, Kiến An, Sơn La và Lạng Sơn.

          Lami, người Pháp có trách nhiệm dàn xếp sự xung đột ở đây cũng đã công nhiên vỗ trắng chữ ký của mình và thừa nhận việc làm ngang ngược của quân đội Pháp.

          Hỡi toàn thể nhân dân Việt Nam! Chúng ta tin ở tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt - Pháp, nhưng chúng ta phải ngờ vực thái độ của một số những nhà đại diện Pháp ở đây.

          Tình thế bắt buộc chúng ta phải chuẩn bị chiến đấu để tự vệ. Hãy đoàn kết muôn người như một. Hãy sẵn sàng chờ lệnh Chính phủ. Hãy nghiêng mình trước cái chết anh dũng của đồng bào Hải Phòng, Kiến An và Lạng Sơn. Chúng ta hãy noi gương hy sinh cảm tử để bảo vệ chủ quyền của đồng bào những nơi đó. Chúng ta hết sức tránh khiêu khích, nhưng một khi cần phải chiến đấu để tự vệ, chúng ta phải chiến đấu thực oanh liệt, thực bền bỉ, làm cho những kẻ gây chiến phải lìa bỏ chính sách võ lực của họ, làm cho họ phải tôn trọng chủ quyển Việt Nam"1 (Báo Cứu quốc, số 416, ngày 25 tháng 11 năm 1946).

          Theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, lòng căm thù giặc Pháp của nhân dân Thủ đô, cũng như nhân dân cả nước, càng sôi sục. Khắp nơi rầm rộ chuẩn bị kháng chiến. Từ trẻ đến già, người sắm dao, người đúc kiếm, mỗi người tự tìm lấy một thứ vũ khí để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Tại trụ sở Ủy ban các khu phố, hàng ngày người kéo đến đông nghịt, nô nức xung phong vào tự vệ, cứu thương. Nhân dân xe thóc, gánh gạo, vận chuyển quần áo thuốc men rầm rập trên các đường phố đem đến ủy ban, ủng hộ Chính phủ làm quỹ kháng chiến. Chị em phụ nữ hăng hái không kém gì nam giới. Có chị cắt tóc ngắn, mặc âu phục, nai nịt gọn gàng cũng vác súng luyện tập, tuần tra canh gác ngày đêm. Nhiều phụ nữ Hoa kiều cũng xung phong đi cứu thương, nấu ăn và vào tự vệ. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức các bà mẹ và chị em phụ nữ đi quyên bông, quyên vải, quyên len, may chăn, đan áo gửi tặng bộ đội.

"...

   Để cho chiến sĩ anh hùng,

   Mùa đông tháng giá lạnh lùng sao đang?

   Chị em! Nào hãy sửa sang

   Người giúp của, kẻ sẵn sàng giúp công

   Đan, may chăn áo mùa đông,

   Tặng người chiến sĩ tỏ lòng biết ơn"1 (Báo Cứu quốc, số 416, ngày 25 tháng 11 năm 1946).

          Trong những ngày căng thẳng ấy, Đảng ủy, ủy ban và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội làm việc suốt ngày, suốt đêm với tinh thần khẩn trương để tránh bị động, lúng túng. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân lăn lộn với quần chúng, tổ chức các đoàn thể, giáo dục, vận động nhân dân sẵn sàng kháng chiến. Mỗi người một việc mải mê quên ăn, quên ngủ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy và đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng trực tiếp tới thực địa duyệt những ý định chuẩn bị chiến đấu tự vệ của Bộ chỉ huy mặt trận.

          Cứ sau ba ngày, Bộ chỉ huy mặt trận báo cáo tổng hợp tình hình với Bộ Tổng chỉ huy một lần. Đồng chí Tổng chỉ huy luôn luôn nhắc nhở: "Nếu giặc Pháp cố tình đánh chiếm Hà Nội, thì nhiệm vụ mặt trận Hà Nội là phải chiến đấu giam chân địch tại Hà Nội một thời gian nhất định để hậu phương ta kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, phải tiêu hao địch, hết sức giữ gìn lực lượng mình để còn chiến đấu lâu dài, thực hiện phương châm chiến lược: toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến".

          Sau mỗi lần nhận chỉ thị trực tiếp của đồng chí Tổng chỉ huy, các đồng chí trong Bộ chỉ huy Hà Nội người nào cũng tăng thêm tin tưởng, quyết tâm càng thêm vững chắc, nhất là tinh thần làm việc cụ thể, sâu sát của các đồng chí cấp trên đã nhắc nhở những cán bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội càng phải đề cao trách nhiệm hơn nữa.

          Hồi ấy, có một sĩ quan trong quân đội phát xít Nhật sang hàng ta được ở gần Bộ chỉ huy Hà Nội để góp ý kiến. Sĩ quan hàng binh ấy lấy tên Việt Nam là Ái Việt. Khi được tham gia bàn bạc kế hoạch tác chiến với Bộ chỉ huy ở ngôi nhà hai tầng, phía bắc Ngã Tư Sở chừng hai trăm mét, Ái Việt đề ra ý kiến chia thành từng tuyến để chiến đấu.

          - Tuyến thứ nhất bám sát lấy các cửa ô, như ô Đống Mác, ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, ô Yên Phụ.

          - Tuyến thứ hai: Đường Đuôi Cá, Giáp Bát, Thanh Liệt, vòng ra Mọc Quan Nhân, Cầu Giấy, Chèm.

          - Tuyến thứ ba: Văn Điển, sông Nhuệ, Hà Đông...

          Mỗi lần mọi người đứng xúm quanh bản đổ là một lần tranh luận sôi nổi, gay gắt. Bộ chỉ huy mặt trận và đồng chí Trần Quốc Hoàn đều không đồng ý đánh như thế. Vì mấy lý do sau đây: một là hỏa lực của ta còn yếu, toàn là súng kíp, súng trường, dao găm, mã tấu mà diện đối diện với kẻ thù có vũ khí tối tân thì hoàn toàn không có lợi; hai là địa hình rộng mênh mông mỗi vòng cung từ 15 đến 30 cây số, lực lượng ta vẻn vẹn có 5 tiểu đoàn, rải mành mành ra như vậy biết bao nhiêu cho vừa, nhất định không thể giam chân giặc ở Hà Nội được; ba là bộ đội ta hầu hết là những thanh niên hôm qua còn trong nhà máy, ngoài đồng ruộng, trên ghế nhà trường..., hôm nay cầm súng đánh giặc, tuy rất giàu lòng yêu nước nhưng kỹ thuật, chiến thuật còn hết sức non yếu. Mặt khác toàn dân ta ai ai cũng kháng chiến, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh đều có nhiệm vụ đánh giặc cứu nước, như vậy lại càng không thể "bày binh bố trận" theo kiểu vỗ ngực, khua dao, múa kiếm được.

          Tuy nhiên sau đó, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội vẫn đem ý kiến của Ái Việt báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu.

Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nói:

          - Ái Việt bố trí như thế không phù hợp với quan điểm và cách đánh của ta. Ý kiến đó để tham khảo. Còn ý kiến quyết định là tùy ở Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận. Sau đó báo cáo lên Bộ Tổng chỉ huy để duyệt.

Nhận được chỉ thị của đồng chí Tổng tham mưu trưởng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận lại họp bàn bạc cặn kẽ, nghe ngóng ý kiến của cán bộ và chiến sĩ. Có ý kiến là tập trung lực lượng tấn công vào thành, tiêu diệt địch để giành chủ động. Lại có ý kiến khác là tập trung một phần lực lượng tiêu diệt địch ở trường Bưởi. Lực lượng còn lại để một phần bảo vệ các cơ quan, công xưởng, một phần làm đội dự bị.

          Hội nghị cho rằng, ý kiến thứ nhất thì hơi mạo hiểm, vả lại cũng không đủ sức tấn công tiêu diệt tức khắc một ngàn tên giặc trong thành, ý kiến thứ hai cũng không thực hiện được tiêu hao địch và đánh lâu dài giam chân địch tại Hà Nội. Vì lực lượng ta có hạn, mà còn phải canh gác bảo vệ nhiều nơi quan trọng, và đánh như thế tự mình sẽ tạo nhiều sơ hở cho địch phát huy ưu thế trang bị kỹ thuật, phát triển tấn công nhanh chóng. Sau đó được Trung ương trực tiếp giúp đỡ ý kiến, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội đi đến nhất trí là chuẩn bị làm sao để khi địch nổ súng gây chiến, ta có thể nhanh chóng quật trả lại để giành chủ động tiêu diệt một bộ phận địch, rồi thu quân để có lực lượng trong đánh ra, ngoài đánh vào, giằng co như giàn gai để giam chân địch. Bố trí lực lượng để lại trong lòng địch, hồi đó ta gọi là thuật "trùng độc chiến". Có lực lượng ta ở bên trong, thì địch không rảnh tay đánh thúc hậu phương ta. Ngược lại, có lực lượng bên ngoài thì địch cũng không rảnh tay tiêu diệt lực lượng bên trong của ta. Vấn đề chia liên khu cũng được bàn bạc rất sôi nổi. Để liên khu như khu hành chính hiện thời hay chia lại? Để như khu hành chính thì Liên khu I rộng lên tới đường Cổ Ngư1 (Nay là đường Thanh Niên), Yên Phụ. Chia lại cũng có ba ý kiến khác nhau. Một là chia cắt ngang từ tây sang đông làm 3 liên khu. Hai là chia đọc từ nam lên bắc, lấy đường xe điện và xe hỏa phân chia làm ba. Để như khu hành chính và hai cách chia như trên đều không thực hiện được nhiệm vụ giam chân địch, không phá được ý định tốc quyết, tốc thắng của địch, không thực hiện được trong đánh ra ngoài đánh vào, giằng co phân tán lực lượng địch. Cuối cùng chỉ có cách chia thứ ba là được nhiều cán bộ đồng ý và biến thành quyết định của ủy ban bảo vệ thành phố và Bộ chỉ huy mặt trận: Liên khu I, khi nổ súng, vẫn giữ như khu hành chính cũ là phía nam và tây nam theo đường Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi và đường Cột Cờ1 (Nhân dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1964). Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội đã quyết định đổi tên đường Cột Cờ là đường Điện Biên Phủ), phía tây bắc từ đường Cổ Ngư tới Yên Phụ. Phía bắc và đông bắc là dọc sông Hồng từ Yên Phụ đến Nhà Hát Lớn. Sau 3 ngày chiến đấu tiêu hao địch, Liên khu I thu hẹp lại. Giới tuyến phía nam dọc theo đường phố Hàng Thùng, Cầu Gỗ, Hàng Gai, Hàng Bông; phía tây theo đại lộ Phùng Hưng; phía bắc và đông bắc theo đường xe lửa tới cầu Long Biên, ven theo sông Hồng trở về Lò Sũ. Khu này dân cư đông đúc, nhà cửa liền nhau san sát. Bộ binh theo đường đục tường từ nhà nọ sang nhà kia để cơ động, có thể liên hoàn tác chiến hỗ trợ lẫn nhau và có thể len lỏi quật những đòn bất ngờ vào sau lưng địch. Ở đây đường sá lại chật hẹp, ngang, dọc phức tạp, cơ giới khó vận chuyển, tiện cho ta bố trí chướng ngại ngăn chặn xe tăng địch. Độ chênh mặt đất cao hơn các khu khác cũng có tác dụng quan sát và khống chế rộng. Do đó hình thành hạt nhân bên trong tổ chức phòng thủ kiên cố để thu hút lực lượng địch rất tốt. Sau khi chiến đấu tự vệ ba ngày tại những khu vực của mình, tiểu đoàn 101 rút vào Liên khu I thực hiện ý định "trùng độc chiến", cố gắng chiến đấu trong lòng địch 15 ngày để phối hợp với ngoại tuyến, về quân sự do đồng chí Nguyễn Văn Triệu và đồng chí Toàn Vinh phụ trách, về Đảng và chính quyền do đồng chí Lê Trung Toản và đồng chí Hoàng Phương phụ trách. Căn cứ chỉ huy của tiểu đoàn đặt ở Hàng Bè.

          Liên khu II, phía tây lấy dọc phố Hàng Lọng1 (Nay là đường Lê Duẩn), Kim Liên làm giới tuyến; phía bắc giáp Liên khu I; phía đông ven sông Hồng về Vĩnh Tuy; phía nam tiếp giáp các làng mạc ngoại thành. Phần lớn khu này do bọn viên chức lớp trên và kiều dân Pháp ở, nên nhà cửa thưa, kiểu kiến trúc kiên cố và rộng rãi, còn đại lộ vận chuyển chiến xa thuận lợi. Ở đây, ta có tiểu đoàn 77 và 212 phụ trách, về quân sự có đồng chí Bùi Sinh và Quang Tuần chỉ huy. Về Đảng và chính quyền có đồng chí Đào và đồng chí Hồng Cơ phụ trách. Căn cứ chỉ huy đặt tại Chợ Hôm và trại Hàn Lân.

          Liên khu III lấy đường phố Hàng Lọng và đại lộ Phùng Hưng làm giới tuyến phía đông, bao gồm các khu phố phía tây và tây bắc Hà Nội, đặc điểm chung giống Liên khu II và do tiểu đoàn 145, 523 phụ trách, về quân sự có đồng chí An Giao chỉ huy, về Đảng và chính quyền có đồng chí Phong và Trinh phụ trách. Căn cứ chỉ huy đặt tại ô Cầu Giấy.

          Sau khi chiến đấu 3 ngày tại khu vực bố trí của mình, trừ tiểu đoàn 101 theo kế hoạch sẽ rút vào Liên khu I, còn bốn tiểu đoàn thu gọn lực lượng rút ra bám các cửa ô, riêng phía tây và tây bắc rút ra phía Kim Mã, Ngọc Hà, Yên Phụ, bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh ép từ ngoài vào. Như vậy tiểu đoàn 101 ở lại Liên khu I như hạt nhân. Quân địch ở bao quanh như cùi. Bốn tiểu đoàn của ta bọc xung quanh như vỏ. Đó là một ý định tác chiến táo bạo và rất nguy hiểm cho địch. Trước mặt, sau lưng chúng đều có lực lượng của ta giằng co lôi kéo chúng, làm cho kẻ địch phải hao tổn lực lượng, bị động lúng túng, như thế ta sẽ giam chân kẻ địch được lâu hơn. Ý định phòng thủ Hà Nội vô cùng độc đáo ấy được Trung ương trực tiếp chi đạo và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội tiến hành, kẻ địch không bao giờ nghĩ tới. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà giặc Pháp từ chủ động lâm vào thế bị động.

          Theo chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy, tiểu đoàn 101 vừa chiến đấu, vừa lấy quân số tại chỗ để xây dựng lực lượng, tác chiến giam chân địch khoảng 2 tuần lễ thì rời Liên khu I ra ngoài. Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận dự kiến phương án cho đơn vị đó, sau khi làm tròn nhiệm vụ sẽ rời Liên khu I ra ngoài theo ba đường: Một là mở đường máu phá vây rút về Vĩnh Tuy. Hai là phân tán nhỏ rút theo đường cống ngầm và các phố hẻo lánh. Ba là bí mật rút qua sông Hồng về phía đông hoặc đông bắc. Bộ chỉ huy bàn bạc nhiều và có thỉnh thị ý kiến của trên, nhưng không thể quyết định dứt khoát được, chủ yếu căn cứ vào tình hình thực tế lúc đó, do Liên khu I báo cáo, sẽ quyết định.

          Từ đầu tháng 12 năm 1946, hành động cướp bóc khiêu khích của giặc Pháp càng tăng lên gấp bội. Ở Hà Nội, không ngày nào là không có những vụ giặc Pháp đi cướp của, bắt cóc phụ nữ, nổ súng vào tự vệ, v.v... Trắng trợn hơn là giặc Pháp xâm phạm thẳng vào các cơ quan nhà nước ta. Năm giờ chiều ngày 2 tháng 12, lính Pháp tới phá phòng thông tin Hà Nội ở phố Tràng Tiền, xé các bản tin, xé báo "Nhân dân"1 (In bằng tiếng Pháp) (Le Peuple), viết bậy lên tường. Hai giờ chiều ngày 3 tháng 12, chúng lại tới xé cờ đỏ sao vàng, treo cờ tam tài lên và còn viết láo xược rằng: "nếu ai bỏ lá cờ này thì nhà này sẽ bị đốt". Ngày mồng 4, hồi 7 giờ 25 phút, giặc Pháp lại kéo tới đốt phòng thông tin. Tình hình căng thẳng vì hành động ngang ngược của quân Pháp, đến nỗi chính một số binh lính Pháp cũng không chịu nổi. Bảy giờ sáng ngày 5 tháng 12 năm 1946, một tốp lính Pháp đi rải truyền đơn phản đối chiến tranh xâm lược ở các phố trong tiểu khu 6 (mạn Đồn Thủy, Hà Nội).

          "Hỡi anh em binh lính đóng ở Việt Nam! Các bạn! Vì lợi ích của các bạn, những đứa con hiên ngang và can đảm của nước Pháp yêu quý, mà chúng tôi gửi các bạn những lời hăng hái này thốt tự đáy con tim.

Nhận được lệnh đời nước Pháp sang đây để giải giáp quân đội Nhật, chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ. Nhiệm vụ xong, người ta phải hồi hương chúng ta.

Phải hồi hương chúng ta!

Chúng sắp tiêu phí sinh mệnh chúng ta bằng cách đẩy chúng ta vào cuộc chiến tranh với một dân tộc chỉ muốn có hòa bình và cộng tác, thành thật thân thiện với nước Pháp. Như thế thật là trái hẳn với tạm ước mà hai nước vừa ký xong. Những việc xảy ra từ trước đến nay, từ Bắc chí Nam ở Việt Nam đã cho ta thấy rõ chứng cớ và bảo rằng: Chúng ta, những người Pháp, chúng ta đã đau khổ nhiều về tai họa chiến tranh Pháp - Đức trước đây, tại sao chúng ta lại còn nhảy vào một cuộc chém giết khác. Thật đã là quá lắm đối với chúng ta rồi, những người chỉ muốn có hòa bình.

- Hòa bình cho người Pháp chúng ta!

- Đả đảo chiến tranh xâm lược thảm khốc giữa loài người!

- Đả đảo bọn thực dân!"1 (Báo Cứu quốc, số 430, ngày 9 tháng 12 năm 1946).

Những truyền đơn này vừa được tung ra đường phố, lập tức bọn thực dân khủng bố bắt giam hàng loạt binh lính Pháp mà chúng tình nghi là phản chiến. Ba giờ chiều ngày 7 tháng 12, bọn chỉ huy lại dẫn quân tới ngang nhiên chiếm đóng Nhà ngân hàng Pháp - Hoa. Ngày 8 tháng 12, giặc Pháp nổ súng, ném lựu đạn ở khắp các đường phố, anh Phạm Văn Quang 18 tuổi ở số nhà 19 phố Hàng Đậu bị đạn xuyên qua hông. Ông Nguyễn Hai ở số nhà 67 phố Mai Hắc Đế bị chúng đánh gần chết. Anh Lê Ngọc Chúc ở phô tô Lịch bị cướp phá hết đồ đạc. Hồi 8 giờ 30 phút tối, một xe nhà binh Pháp chạy qua phố Bắc Ninh đến phố Bình Chuẩn vô cớ nổ súng vào thường dân làm cho chị Vũ Thị Gái, 19 tuổi, bị trúng đạn gãy xương hông và ông Vũ Tự, 39 tuổi, bị gãy chân trái. Mười một giờ đêm, lính Pháp ném lựu đạn ở phố Hàng Khoai, nổ súng khiêu khích tự vệ phố Hàng Gà. Từ đó, giặc Pháp ngày càng hành động ngang ngược hơn. Chúng cố tình gây nên không khí căng thẳng để mượn cớ dùng áp lực quân sự bắt Chính phủ ta phải nhượng chủ quyền cho chúng (!).

         Để không cho giặc Pháp phán đoán được thực chất lực lượng của ta và cũng làm cho chúng phải dè chừng không dám nổ súng đánh úp ta sớm, Bộ chỉ huy mặt trận đã tiến hành một cuộc nghi binh lớn, điều động hàng ngàn dân quân du kích các xã thuộc hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, trời nhá nhem tối rầm rập từ các cửa ô kéo vào Hà Nội, đóng xen kẽ vào các vị trí Vệ Quốc Đoàn. Nửa đêm về sáng lại lặng lẽ bí mật rút ra ngoại thành. Suốt một tuần lễ, ta làm như vậy. Giặc Pháp hoài nghi. Chúng cho là ta đã điều về Hà Nội tới 4 vạn bộ đội và dân quân.

         Sau khi Đảng ủy mặt trận Hà Nội đã thông qua toàn bộ kế hoạch chuẩn bị và được đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy trực tiếp duyệt y và chỉ thị bổ sung cụ thể, chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy và nghị quyết của Đảng ủy mặt trận, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội bắt đầu bố trí lại quân, điều chỉnh lực lượng cho thích hợp với nhiệm vụ chiến đấu phòng thủ. Tuy nhiên, 5 tiểu đoàn vẫn còn đóng rải rác ở 65 địa điểm để làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng trong và ngoài thành phố. Theo yêu cầu của nhiệm vụ và cũng là yêu cầu của quần chúng, mặt trận tổ chức được 12 đội quyết tử quân, nhiệm vụ chủ yếu là dùng bom ba càng phá xe tăng, xe bọc sắt của địch. Và có 36 tổ du kích mỗi tổ từ 3 đến 5 người bố trí ở những nhà gác và những góc phố quan trọng làm nhiệm vụ nghi binh, quấy rối, bắn tỉa, lưu động phục kích. Để bảo đảm đầy đủ vật chất chiến đấu độc lập và lâu dài, Bộ chỉ huy chia cho Liên khu I mỗi loại vũ khí một nửa tổng số của mặt trận, còn lại một nửa vừa chia cho hai liên khu vừa để dự bị. Liên khu I có lương thực dự trữ ăn ba tháng, một vạn viên đạn, 500 quả lựu đạn, 100 chai étxăng cơrếp, 2 máy vô tuyến điện.

         Trong khi đó, đồng chí Nguyễn Văn Trân trực tiếp tổ chức lãnh đạo chuẩn bị cho các trí thức, cán bộ kỹ thuật đi kháng chiến, chuẩn bị cho cơ quan Nhà nước, các kho tàng, xí nghiệp như bưư điện, nhà in giấy bạc, kho kinh tế Bắc Bộ, Viện bào chế trung ương, v.v... bí mật lần lượt rút ra ngoài để tránh bị địch bất ngờ phá hoại. Công binh xưởng về Vạn Phúc, Hà Đông để chế tạo bom ba càng, lựu đạn và sửa chữa vũ khí. Các bệnh viện, quân y viện được đưa về Văn Điển, Cự Đà, Phúc Thủy và Vân Đình. Việc cung cấp lương thực cho bộ đội và tự vệ do nhân dân các nơi tự nguyện náo nức xung phong đi tiếp tế và ủng hộ. Các xã, các huyện đều có ủy ban tiếp tế. Các kho lương thực đặt ở các khu vực xung quanh Hà Nội, chủ yếu là miển Thanh Liệt, Mễ Trì và vùng sông Nhuệ. Tổ chức thông tin liên lạc, do đồng chí Soạn phụ trách, có hai mạng điện thoại, một của mặt trận, một của cơ quan chính quyền, làm thành hai vòng đai quanh Hà Nội. Mọi việc chuẩn bị, tuy là để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của mình, nhưng vẫn phải tiến hành lặng lẽ, vì nếu ta chuẩn bị lộ liễu, giặc Pháp mượn cớ đó nổ súng tấn công ta sớm thì cuộc chiến đấu tự vệ của ta sẽ không có lợi trong lúc mọi việc chuẩn bị còn bề bộn. Ngược lại, nếu ta không chuẩn bị sấn sàng chiến đấu tự vệ, bất ngờ bị giặc Pháp đánh úp, thì ta không chống cự được lâu, chiến tranh sẽ lan rộng nhanh chóng. Vì trên thực tế, hành động gây chiến của giặc Pháp ngày càng trắng trợn, nên ngày 9 tháng 12, Bộ Tổng tham mưu buộc lòng phải ra lệnh chuẩn bị phá hoại cầu cống, đường sá1 (Phụ lục - Chỉ thị về việc chuẩn bị phá hoại cầu cống, đường sá của Bộ Tổng tham mưu, (trang 220)), sắp đặt kế hoạch rõ ràng, phân công khu vực cụ thể giữa nhân dân và bộ đội, khi cần thiết mới bắt tay thực hiện. Phía bộ đội do đồng chí Trần Quốc Cư phụ trách cùng một tiểu đoàn công binh do đồng chí Hoàng Đạo Thúy chỉ huy làm nòng cốt. Ngoài công tác chuẩn bị chiến đấu, bộ đội và dân quân tự vệ còn tham gia công tác tuyên truyền vận động quần chúng tin tưởng vào đường lối sách lược của Đảng và Chính phủ. Hầu hết nhân dân, nhất là nhân dân lao động, vô cùng phẫn uất, kiên trì đấu tranh, tích cực chuẩn bị kháng chiến. Nhưng có một số người nóng vội lại muốn đánh đuổi giặc Pháp đi ngay. Số ít thuộc tầng lớp trên muốn thỏa hiệp với Pháp, thực chất cũng là đầu hàng, làm tôi tớ cho giặc, hoặc có người còn lừng chừng không tin là ta kháng chiến thắng lợi. Số nhỏ khác thì tiếc của, không muốn rời khỏi Hà Nội. Nhưng đến khi tình hình đã quá rõ ràng, nguy cơ giặc Pháp xâm lược hàng ngày, hàng giờ đe dọa, thì đa số trong những người lừng chừng cũng tỉnh ngộ. Còn nhân dân Thủ đô thì ngày càng đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu. Các cụ già và trẻ em chuẩn bị lánh ra vùng nông thôn theo kế hoạch của Ủy ban tản cư, di cư. Hà Nội rầm rập chuẩn bị kháng chiến. Anh em công nhân chuẩn bị sẵn những toa xe hỏa, xe điện để lúc khởi sự đánh đổ ngang đường chặn chiến xa của giặc. Các nhà máy, công xưởng đều chuẩn bị biến thành ổ tác chiến cố thủ. Đêm đêm, nhân dân thành phố đem từng đoàn xe bò, xe xích lô bí mật chuyên chở đất cát về các khu phố để sẵn sàng đắp ụ làm chướng ngại vật chắn ngang đường. Những ban công lịch sự, những cửa sổ, những mái nhà bằng đều trở thành vị trí bắn. Trong gia đình, người đục tường, khoét vách làm lỗ châu mai, người đào nền nhà làm hố chiến đấu. Nhà nọ đục thông luôn sang nhà kia làm thành những con đường bí mật lưu thông khắp thành phố. Các cửa hiệu, các gia đình thu dọn đồ đạc chuẩn bị sẵn bàn ghế, giường tủ, quầy hàng, bao cát để lúc cần thiết sẽ tung ra đường tạo thành hàng cây số chướng ngại vật và xây đắp thêm ụ súng mới. Nhiều cụ già nhất định không chịu tản cư. Các cụ ở lại, thành lập đội lão tự vệ, suốt đêm này qua đêm khác cùng con cháu chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

          Giặc Pháp ngày càng hành động ngang ngược. Chúng cho xe tăng, xe bọc sắt chạy khiêu khích ta trên các phố và húc bừa vào các nhà đồng bào. Nhân dân ta vô cùng căm ghét chúng. Có một cụ ở phố Hàng Bông uất ức quá, tay cầm dao, tay cầm lựu đạn, xông thẳng vào xe tăng của chúng. Bọn chúng phải bỏ chạy. Nhiều em thiếu nhi cũng xin ở lại cùng các anh chị tham gia chiến đấu bảo vệ thành phố. Các em đã luồn lỏi vào trong trại lính Pháp lấy tin tức về kế hoạch chuẩn bị tấn công của chúng, báo cho bộ đội ta. Nhiều em đã xung phong vào các đơn vị quyết tử. Em Tâm 13 tuổi không được vào đội quyết tử, đã khóc mấy buổi liền và không ăn cơm. Các anh lớn giải thích:

- Em còn bé, không vác nổi bom ba càng đâu.

Tâm cãi lại:

- Các anh lớn mang bom lớn. Em bé vác bom bé. Nếu không, thiếu niên chúng em thành lập đội quyết tử riêng vậy.

Cuối cùng, rất nhiều em được nhận vào làm liên lạc, trinh sát cho đội quyết tử.

          Lúc ấy, chị em phụ nữ thủ đô cũng là một lực lượng tham gia chuẩn bị kháng chiến đông đảo và hăng hái không kém gì nam giới. Từ những sóng tóc dài duyên dáng, chị em đã búi tó, quấn đuôi sam, có chị cắt ngắn như nam giới. Từ những tà áo màu tha thướt, chị em đã thay bằng áo nâu, áo xanh, có chị mặc quân phục, âu phục như nam giới. Một bên sườn đeo kiếm, một bên đeo lựu đạn hiên ngang đứng gác bên ụ chướng ngại giữa đường phố.

          Suốt ngày đêm, các đội nữ cứu thương, các đội hỏa thực1 (Đội nấu cơm), đội tuyên truyền, úy lạo... làm việc, rộn ràng tíu tít. Có chị vừa làm vừa hát để động viên anh em. Các chị đem nước, đem bánh đi tới từng ụ súng, chiến hào suốt ngày không biết mệt mỏi. Nhân dân Hà Nội náo nhiệt, nô nức chuẩn bị, chỉ vài ngày trước khi giặc Pháp nổ súng tấn công đánh úp ta thì thủ đô Hà Nội đã trở thành chiến lũy, sẵn sàng kháng chiến. Nhân dân tự tay viết lên tường nhà những khẩu hiệu: "Thà chết không làm nô lệ!", "Chết vinh còn hơn sống nhục!".

          Tính từ ngày 21 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đã gây ra 47 vụ khiêu khích làm chết 15 người, bị thương 41 người và nhiều nhà bị phá hủy. Ngày 16 tháng 12 năm 1946, ở Hải Phòng, bọn trùm thực dân Pháp ở Đông Dương là Đắcgiăngliơ, Valuy, Moóclie, Xanhtơni họp lần cuối cùng bàn kế hoạch cụ thể để đánh úp Hà Nội và tỏa ra xâm chiếm các vùng khác. Cũng ngày đó, tại Ngã Tư Sở, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Văn Thái nghe Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội báo cáo toàn bộ công tác chuẩn bị lần cuối cùng.

Sau khi duyệt kế hoạch, đồng chí Võ Nguyên Giáp với thái độ thận trọng và kiên quyết, căn dặn Bộ chỉ huy mật trận Hà Nội:

"- Phải hết sức tỉnh táo, hết sức kỷ luật đề phòng sự khiêu khích. Nếu quân Pháp trở mặt đánh ta thì chiến đấu phải hết sức ngoan cường.

- Vận dụng chiến thuật phải hết sức linh hoạt, nhưng phải bảo tồn lực lượng".

          Sau khi nhận chỉ thị của cấp trên, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận lại tiếp tục đi động viên nhân dân, các đơn vị dân quân tự vệ và bộ đội. Các đồng chí đảng ủy viên trực tiếp tới chi bộ cơ sở để truyền đạt quyết tâm. Đồng chí Trần Độ cho biết: chi bộ đầu tiên của bộ đội ở thủ đô Hà Nội có hơn mười đảng viên. Cuộc họp lần thứ nhất được đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng trực tiếp tới dự. Đến khi chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Hà Nội thì số lượng đảng viên mỗi khu có một chi bộ, nhiều nhất là 32 đồng chí, ít nhất là 6. Lúc đó, các đảng viên đều biểu lộ đạo đức cộng sản cao quý của mình, tận tụy, gương mẫu, dũng cảm làm đầu tầu lôi cuốn quần chúng. Quần chúng kính yêu Đảng và tin tưởng vô bờ bến vào sự lãnh đạo của Đảng.

 

          Tại đình làng Mọc Quan Nhân, các chiến sĩ quyết tử đứng trước bàn thờ Tổ quốc, trước cờ đỏ sao vàng chói lọi, trước chân dung Bác Hồ, nắm chắc tay giơ lên xin thề: "Quyết sống chết với thủ đô!", "Quyết tử để bảo vệ Tổ quốc!", "Thà chết quyết không chịu làm nô lệ!". Tiếng hát quốc ca hùng tráng và lời thề đanh thép của những chiến sĩ quyết tử trẻ tuổi đã vang mãi mãi trong tâm trí mọi người và đã củng cố quyết tâm, tăng thêm niềm tin sắt đá cho Bộ chỉ huy mặt trận, ở Bắc Bộ phủ, sau khi đội Quyết tử làm lễ tuyên thệ, một số công chức cũ và nhân dân đã thì thầm rằng: "Quyết tử quân làm lễ tế sống, những người như thế không bao giờ họ chết".

          Bộ chỉ huy mặt trận cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp tới pháo đài Láng thăm các khẩu đội. Đồng chí Đôn, chỉ huy pháo binh cho biết là không có phương tiện đo đạc tính toán, anh em khắc phục bằng cách vẽ một vòng tròn chia độ vào một tấm bia rồi đặt vào bản đồ lấy hướng bắn. Đồng chí Võ Nguyên Giáp tươi cười căn dặn: "Các đồng chí cố gắng nghiên cứu sáng tạo nhiều hơn nữa và khi cần thiết phải hạ nòng pháo xuống bắn thẳng vào quân địch. Nhưng phải luôn luôn chú ý giữ gìn bảo vệ vũ khí".

Trước lúc đồng chí Tổng chỉ huy về, Bộ chỉ huy mặt trận hứa hẹn quyết tâm thực hiện ba điều:

- Kiên quyết chiến đấu giam chân địch tại Hà Nội một thời gian.

- Vừa chiến đấu, vừa tổ chức xây dựng lực lượng.

- Bền bỉ hoạt động nhỏ, tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận địch.

Đồng chí Tổng chỉ huy siết chặt tay từng người và nhấn mạnh:

- Luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống bất ngờ xảy ra.

 

KHẮC SÂU CĂM THÙ

          Ngày nay, tại ngã ba đường phố Yên Ninh và Hàng Bún, có một tấm bia cao mang những dòng chữ: "Khắc sâu căm thù thực dân xâm lược Pháp đã tàn sát đồng bào ta tại nơi đây ngày 17 tháng 12 năm 1946 mở đầu cuộc gây hấn của chúng ở thủ đô Hà Nội".

          Chập tối ngày 16 tháng 12 năm 1946, một chiếc xe ô tô nhà binh Pháp sầm sầm chạy tới Hàng Bún rồi dừng lại chĩa súng bắn chết một tự vệ đang đứng gác. Mấy tên lính mũ đỏ nhảy xuống bắt cóc một chiến sĩ tự vệ khác quăng lên xe. Tất nhiên chiến sĩ tự vệ không chịu ngoan ngoãn đầu hàng như chúng tưởng. Lập tức đồng chí chống cự lại quyết liệt, quật văng mấy tên lính mũ đỏ ra, rồi hô hoán để nhân dân đến cứu. Nhân dân kéo đến, mấy tên lính Pháp nhảy lên xe chạy vào thành. Sáng sớm hôm sau, ngày 17 tháng 12, giặc Pháp cho máy bay thám thính bay lượn khắp bầu trời Hà Nội. Dưới đường phố, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt, lính mũ đỏ mang tiểu liên vây chặt phố Yên Ninh và Hàng Bún. Chúng bắt hơn 40 người tập trung ở ngã ba hai phố trên. Những khẩu súng trên xe tăng nhằm nhằm chĩa vào đồng bào. Một tên quan năm và một tên quan ba người Pháp vênh vênh cái mặt. Ngồi trên xe bọc sắt, tên quan năm sai tên Việt gian đứng ra hỏi:

- Trong đám này, có thằng nào, con nào là Việt Minh không?

Mọi người im lặng. Nó hỏi lần thứ hai, lần thứ ba mọi người vẫn im lặng. Sau đó tên Việt gian dẫn lính đi sục từng nhà. Một tên Pháp nói chọ chọe:

- Có ai biết tiếng Pháp không?

Một thanh niên trong số người bị bắt vừa đứng lên trả lời: "Có!", lập tức chúng lôi anh ra đánh đập túi bụi rồi bắt anh làm thông ngôn cho chúng.

Tên quan năm hỏi:

- Ở đây có bao nhiêu Việt Minh?

Mọi người vẫn im lặng, hắn quát tháo ầm ĩ rồi lại hỏi:

- Ai muốn theo chúng tao thì đứng sang một bên.

Hắn hỏi gặng hai, ba lần, chẳng ai thèm nhúc nhích. Thấy không dụ được đồng bào, bọn chúng giở trò khám xét lục túi từng người, cướp đoạt tiền bạc, đồng hồ, bút máy. Sau chúng bắt 15 phụ nữ đưa lên ô tô vận tải. Lập tức đồng bào xô lên đấu tranh đòi chúng phải trả con em mình. Xe tăng, xe bọc sắt gầm rú lên như hổ đói, lùi ra xa và không một chút ngần ngại, giặc Pháp đã quạt súng máy lia lịa nhả đạn tàn sát đồng bào ta. Tiếng nguyền rủa, tiếng kêu uất ức của các cụ già, tiếng trẻ em kinh hoảng hét thất thanh, người còn sống sót chạy tán loạn. Trong nháy mắt, đầu phố Yên Ninh máu tràn lênh láng, hơn 20 người vừa chết vừa bị thương nằm ngổn ngang giữa đường, trên vỉa hè. Giặc Pháp lại cho lính lê dương ùa vào đường phố, vào từng nhà để tàn sát đồng bào ta và đập phá đồ đạc. Có em bé 3 tuổi bị chúng xọc lưỡi lê xuyên qua bụng vất xác giữa nhà. Có cụ già bị chúng bắn vỡ đầu chết gục dưới bếp. Chúng châm lửa vào quần áo, chăn màn làm mồi để đốt nhà. Đứng trước cảnh tang tóc đau thương của cha mẹ, vợ con bị giặc tàn sát, của cải bị giặc cướp, đồ đạc nhà cửa bốc cháy ngùn ngụt, anh em tự vệ lòng tràn ngập căm thù, kẻ tay dao, người tay kiếm xông vào đuổi giặc để cứu gia đình.

          Bọn chúng hoảng sợ trước lòng căm hờn sôi sục của nhân dân, kéo nhau rút chạy vào thành. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Trân trực tiếp tới phố Hàng Bún để xem xét tình hình và thăm hỏi đồng bào bị nạn. Giữa lúc nhân dân trở về dọn dẹp, chôn cất người bị nạn, thì pháo binh, súng cối của giặc Pháp ở trong thành bắn liên tiếp từng loạt vào phố Yên Ninh và Hàng Bún làm sụp đổ hàng dãy nhà, làm cho một số người nữa bị chết và bị thương. Cũng trong ngày 17 tháng 12, hồi 10 giờ, 3 xe bọc sắt, xe húc đất và xe cần trục của giặc Pháp tới phá ụ đất và công sự của nhân dân phố Lò Đúc, dỡ gỗ bốc lên xe. Đồng thời một toán lính Pháp đi bắn phá lung tung ở phố Hàng Bột. Hàng trăm lính Pháp có xe tăng yểm hộ bao vây đồn công an quận 2, v.v...

             Không khí ngột ngạt của ngày 17 tháng 12 chưa tan thì ngày 18 tháng 12, giặc Pháp lại nã súng bắn vào nhân dân phố Hàng Khoai, chợ Đồng Xuân, 6 giờ 40 phút sáng, lính lê dương lại đến bao vây trụ sở Công an Hàng Đậu. Hai giờ chiều, quân Pháp chiếm đóng Nha Tài chính và trụ sở Bộ Giao thông. Đến 21 giờ 15 phút ngày 18 tháng 12, quân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí Vệ Quốc Đoàn, tự vệ, công an và đội kiểm soát trật tự an ninh trong thành phố. Nếu sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, những điều kiện đó không được chấp thuận thì quân đội Pháp chuyển sang hành động(!).

          Thật rõ như ban ngày, thực dân Pháp đã mở đầu cuộc gây hấn ở thủ đô Hà Nội. Chúng dùng vũ lực định bóp chết một chính quyền còn trứng nước, một quân đội mới sinh, hòng đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta một lần nữa. Ngày 18 tháng 12, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội ra mệnh lệnh chuẩn bị (Phụ lục - Mệnh lệnh chuẩn bị1 (trang 224)). Trong mệnh lệnh có nói:

"Những sự chuẩn bị ráo riết và hành động khiêu khích ấy là một triệu chứng chúng sắp đánh úp ta thực sự.

Vì danh dự của Tổ quốc, vì quyền lợi của dân tộc, chúng ta quyết không chịu lùi bước".

Khoảng 2 giờ chiểu ngày 19 tháng 12 năm 1946, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội về Thái Hà Ấp (lăng Hoàng Cao Khải) để nghe Bộ Tổng chỉ huy phổ biến tình hình và nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu tự vệ. Các đồng chí cấp trên phân tích tình hình, vạch rõ âm mưu bội ước và hành động tàn ác của giặc. Mọi người đều vô cùng phẫn uất trước thái độ hống hách, kẻ cả của bọn thực dân xâm lược. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nói:

- Chúng đưa tối hậu thư cho ta, bắt ta nộp vũ khí, giao quyền trị an cho chúng. Ta muốn tranh thủ hòa bình để xây dựng đất nước. Nhưng nếu giao quyền cho chúng thì Chính phủ ta nằm trong tay giặc, nó muốn diệt lúc nào thì diệt và nếu không thì sáng ngày 20 tháng 12, chúng sẽ mở rộng những hành động quân sự với quy mô lớn, đánh úp, bắt toàn bộ cơ quan Chính phủ ta. Tất nhiên, chúng ta không thể để như vậy được.

Đồng chí Trần Quốc Hoàn nói thêm:

- Vừa qua Trung ương có họp, Bác (Hồ Chủ tịch) phân tích tình hình Mỹ, Pháp và khả năng của ta. Bác giải thích rõ ràng và tỉ mỉ là cuộc kháng chiến lâu dài của ta nhất định thắng lợi. Cuối cùng Bác còn hỏi kỹ thêm về tình hình mùa màng và sinh hoạt của nhân dân. Khi biết chắc chắn năm nay được mùa, nhân dân no đủ, Bác mới an tâm.

          Ngay sau đó, Bộ chỉ huy mặt trận cấp tốc triệu tập hội nghị để phổ biến tình hình nhiệm vụ cho các tiểu đoàn trưởng và cán bộ của các liên khu. Cuộc họp tiến hành tại tầng gác hai của một ngôi nhà ở sát đường cái, phía đông bắc cầu xi măng gần sân bay Bạch Mai. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ bàn bạc, mọi người đều sôi sục căm hờn, đều một lòng một dạ: "sẵn sàng kháng chiến đến thắng lợi, kiên quyết chiến đấu bảo vệ Thủ đô".

          Khoảng 6 giờ chiều, cuộc họp bế mạc. Các cán bộ, người đi xe đạp, người đi bộ tỏa về đơn vị. Ở các khu phố vẫn có lác đác tiếng súng khiêu khích của giặc. Trong những giờ phút vô cùng quyết liệt này, hàng vạn đồng bào đủ các giới nam, phụ, lão, ấu, người cầm dao, kẻ cầm súng, rầm rập trên các đường phố tình nguyện ở lại cùng với các lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ thủ đô, bảo vệ Hà Nội yêu dấu.

Hà Nội sẵn sàng kháng chiến!

 

GIỜ CỨU NƯỚC ĐÃ ĐẾN!

Khoảng 8 giờ tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, cả thành phố Hà Nội đèn điện phụt tắt. Giặc Pháp nổ súng tấn công đánh úp ta ở trụ sở liên lạc Việt - Pháp, ga Hàng Cỏ, cầu Long Biên, v.v... để mở đầu cho mưu toan tấn công toàn diện vào cơ quan Chính phủ và quân đội ta ở thủ đô Hà Nội vào sớm ngày 20 tháng 12.

Tổ quốc lâm nguy! Giờ cứu nước đã đến!

          Không còn con đường nào khác, chúng ta phải vùng dậy kháng chiến chống xâm lăng. Bản mệnh lệnh lịch sử của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp được nhanh chóng truyền đi khắp mặt trận1 (Phụ lục - Mệnh lệnh của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, (trang 224)). Pháo của ta ở pháo đài Láng và Xuân Tảo... gầm thét trút căm hờn bắn vào đầu giặc trong thành Hà Nội.

          Tiếng súng lớn, súng nhỏ ầm vang. Từng đám lửa bùng cháy đỏ rực thành phố. Các tổ tuyên truyền sục sôi phát đi những lời kêu gọi cứu nước.

          "- A lô! Alô! Giặc Pháp nổ súng tấn công chúng ta. Thưa toàn thể đồng bào! Giờ cứu nước đã đến..." Tiếng loa vang đi, khắp nơi đồng bào vùng dậy sát cánh với quân đội tham gia chiến đấu, như được trút tất cả những căm hờn, uất hận chịu nén lại từ bao lâu nay lên đầu quân xâm lược. Khắp nơi nhân dân khẩn trương khuân bàn ghế, tủ chè, sập gụ, quầy hàng, hương án, hòm xiểng và hàng trăm đồ đạc quý giá khác quăng ra đường. Anh em tự vệ nổ mìn, chặt cây, ngả cột đèn chắn ngang đường phố làm chướng ngại hàng cây số để cản trở cơ giới của giặc. Công nhân xe lửa, xe điện đánh đổ đầu tầu, toa tầu để ngăn các ngả đường Cửa Nam, Khâm Thiên, phố Huế. Ở nhiều nơi, nhân dân đã cùng các chiến sĩ tự vệ khu phố tiếp tục đào hào, xếp bao cát thành các ụ súng. Tại chỉ huy sở tiền phương1 (Nhà gạch hai tầng, đông bắc cầu xi măng, phía trường bay Bạch Mai) của Bộ chỉ huy mặt trận, chuông điện thoại réo liên hồi. Đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn luôn theo dõi sát sao tình hình, ra chỉ thị và động viên các cán bộ, chiến sĩ đang ngoan cường anh dũng chiến đấu trên toàn mặt trận. Đồng chí Nguyễn Văn Trân ở chỉ huy sở cơ bản, qua đường dây điện thoại, luôn luôn nhắc nhở, củng cố quyết tâm cho cán bộ chỉ huy mặt trận: Kiên quyết chấp hành sáng tạo quyết tâm của Đảng ủy. Sau đó đồng chí trực tiếp đi kiểm tra, động viên bộ đội ở pháo đài Láng. Tin chiến sự từ các liên khu được báo cáo tới tấp về chỉ huy sở. Ngay từ phút đầu, cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt. Tại trụ sở liên lạc Việt - Pháp, ta có tiểu đội gác chung với địch. Trừ người đang làm nhiệm vụ, còn các chiến sĩ vẫn vui chơi ca hát, đọc báo, xem truyện. Bỗng xe bọc sắt và bộ binh địch ập đến khép chặt vòng vây. Chúng xả súng máy, ném lựu đạn liên hồi vào các chiến sĩ. Đồng chí chỉ huy hy sinh ngay từ phút đầu. Một chiến sĩ lập tức rút chốt lựu đạn lăn xả vào chúng. Chiến sĩ khác tay không lao tới giằng súng, tiểu liên của một tên lính lê dương, bắn lia lịa vào những tên giặc khát máu và xe bọc sắt của chúng. Lưỡi lê xốc tới, các chiến sĩ hét vang: "Giết! giết!". Trong khoảng đất nhỏ hẹp và trong căn nhà tối om xảy ra cuộc vật lộn vô cùng ác liệt! Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ rất dai dẳng. Sau này một số lính Pháp bị ta bắt được kể lại rằng: "Các chiến sĩ ở đây chỉ còn một người họ cũng chống cự, vừa bắn súng, vừa luôn mồm chửi rủa bọn thực dân và họ đã chống cự đến viên đạn cuối cùng".

          Ở nhà dầu Sen (Shell) Khâm Thiên1 (Số 1, phố Khâm Thiên), giặc Pháp cũng bất ngờ bao vây nổ súng đánh úp một đơn vị bộ đội ta. Nằm trong tình thế bất lợi, để bảo toàn lực lượng, các chiến sĩ đã phá vây rút lui an toàn về phía Thổ Quan, Mỹ Đức. Ở ga Hàng Cỏ, giặc Pháp bất ngờ nổ súng vào các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn. Bọn địch ở phía nhà dầu Sen phối hợp đánh ngược lên, bọn ở nhà Sitaga2 (Nay là một cơ sở của xưởng sửa chữa ô tô Chiến Thắng) phía trước cũng đánh tạt sang. Bị bất ngờ, đại đội tự vệ nhà ga không tiếp ứng kịp. Ở vào thế bất lợi, các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn phải rút lui về phía nam phố Quốc Tử Giám. Ở đầu cầu Long Biên về phía Gia Lâm, trung đội Vệ Quốc Đoàn đang phân tán sinh hoạt, vui chơi, đột nhiên súng nổ, lựu đạn rơi tới tấp vào doanh trại làm 6 chiến sĩ hy sinh, 2 bị thương. Các chiến sĩ lao ra ngoài đâm lê, ném lựu đạn vật lộn với giặc, phá vây rút về phía Gia Lâm sáp nhập với đơn vị bạn tấn công trường bay.

Giặc Pháp còn tiến quân phối hợp với lính gác ở nhà máy điện, máy nước Yên Phụ, nhà in IDEO hòng tiêu diệt công nhân và bộ đội ta.

          Tướng tá thực dân Pháp ở Hà Nội hí hửng cho rằng chúng đánh úp Chính phủ ta, xâm chiếm Thủ đô dễ như trở bàn tay, chỉ 24 tiếng đồng hồ là nuốt chửng Hà Nội! Nhưng tiếng súng xâm lược của chúng vừa nổ, nhân dân Hà Nội vạn người như một đã nhất tề đứng lên kháng chiến. Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội ra lệnh cho các đơn vị Vệ Quốc Đoàn, công an, dân quân tự vệ lập tức đánh trả lại quân xâm lược trên toàn mặt trận. Khu vực Bắc Bộ phủ đã diễn ra những đợt chiến đấu vô cùng ác liệt kéo dài suốt một đêm, một ngày. Khi quân địch bắt đầu nổ súng, chiến sĩ ta nhanh chóng bấm điện trái bom 250kg theo đường ngầm đã đặt sẵn ở dưới nền nhà khách sạn Mêtơrôpôn1 (Ngay từ khi giặc Pháp ráo riết hành động mở đầu cuộc gây hấn xâm chiếm thủ đô thì tự vệ và Vệ Quốc Đoàn đã đào đường ngầm chôn bom sẵn sàng đánh lại khi bị chúng tấn công), nhưng rất tiếc là bom cũ, hỏng kíp nên không nổ. Quân địch dùng súng máy bắn sang Bắc Bộ phủ rất dữ dội. Ta cũng dùng súng máy bắn trả lại và cho bộ binh xung phong sang khách sạn...

          Ngay khi đó, ở nhà máy điện Bờ Hồ, trong chớp nhoáng, công nhân nhà máy đã cùng Vệ Quốc Đoàn quật cho bọn gây chiến ở đây không sống sót một tên. Bộ chỉ huy Pháp ở trong thành tung lực lượng cơ động đi các hướng hòng đè bẹp các lực lượng của ta trong chốc lát. Cánh quân thứ nhất chừng 300 lính lê dương, 8 xe tăng, 10 xe bọc sắt có pháo binh súng cối yểm hộ, từ trong thành tiến ra khu vực Bờ Hồ, hy vọng nhanh chóng bao vây, bắt sống, tiêu diệt toàn bộ cơ quan đầu não của ta. Đoàn xe của địch tới ngã năm Cửa Nam, ta giật trái bom chôn ngầm dưới đất nhưng bom không nổ. Bộ binh cơ giới địch vượt qua được Cửa Nam. Chúng hùng hổ tiến đến đầu phố Tràng Thi thì phải dừng lại, vì bị tủ chè, sập gụ, quầy hàng của nhân dân vất chồng chất như núi ở giữa đường. Tự vệ từ trên mái nhà, trên tầng gác lao bom, ném lựu đạn, nã súng máy như đổ lửa xuống đầu địch. Bom nổ, một xe thiết giáp của địch bị tan tành. Quân địch chạy tán loạn lùi trở lại bắn phá, đồng thời chúng tách một bộ phận theo đường phố Hàng Bông, Thợ Nhuộm để đánh vòng sau lưng ta. Nhưng toán quân này cũng bị chặn lại. Pháo binh, súng cối của chúng bắn phá rầm rầm vào hai dãy nhà bên đường phố. Hơn một giờ sau, quân địch tới Bắc Bộ phủ. Một xe tăng án ngữ ở cửa nhà băng1 (Nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), một xe tăng trước cửa nhà Gôđa2 (Nay là Trung tâm thương mại Plaza Tràng Tiền), một xe tăng ở phía trước cửa Nhà Hát Lớn, còn một số xe tăng và xe bọc sắt khác yểm hộ cho bộ binh tiến. Một xe bọc sắt đến vườn hoa Chí Linh dừng lại, 3 tên lính Pháp nhảy xuống đặt súng máy trên nền đất cao định bắn vào Tòa thị chính3 (Nay là trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố), bị bộ đội ta trên gác bắn ra, 1 tên địch chết ngay tại chỗ, 2 tên khác rút chạy lên xe. Trong đêm 19 tháng 12, ở Bắc Bộ phủ, quân ta chiến đấu vô cùng anh dũng, quân địch không thể nào tiến vào được. Một quyết tử quân là cán bộ tiểu đội sắp được Bộ chỉ huy quyết định đề bạt lên trung đội trưởng đã ôm bom ba càng lao tới phá hủy ngay tức khắc chiếc xe tăng địch đi đầu. Chiếc xe khác đi vòng sang bên sườn bắn yểm hộ, đồng chí đã trở vào xin thêm bom. Nhanh như cắt, đồng chí lao cả người, cả bom vào xe tăng địch. Nhưng bom không nổ, đồng chí đã hy sinh. Tinh thần chiến đấu anh dũng ấy đã động viên các chiến sĩ ở Bắc Bộ phủ ngoan cường giữ từng cửa sổ, từng bức tường, quyết không cho địch đánh chiếm dễ dàng. Quân địch đành phải tập trung quân tấn công đánh chiếm Tòa thị chính, tạo thành thế bao vây phía tây bắc đối với Bắc Bộ phủ, chờ quân tiếp viện và chờ trời sáng sẽ tiếp tục tấn công ta.

           8 giờ sáng ngày 20 tháng 12, địch lại nã trọng pháo, súng cối vào Bắc Bộ phủ, yểm hộ cho một cánh quân đánh thẳng chính diện, một cánh quân từ vườn hoa Chí Linh đánh tạt sang, một cánh quân khác tiến đánh nhà Bưu điện hình thành mũi bao vây phía sau Bắc Bộ phủ, xe tăng địch lồng lên, gầm rú nhằm vào cửa sổ, góc tường, ụ đất bắn phá hòng uy hiếp tinh thần chiến sĩ ta. Các chiến sĩ vẫn giữ bí mật, không hò reo, không bắn trả lại. Chúng tưởng quân ta đã bị tê liệt. Nhưng vừa tới tầm lựu đạn, từ các góc tường, cửa sổ, hàng loạt bom, chai cháy, lựu đạn ném ra; súng trường, tiểu liên bắn xả vào bộ binh địch. Bọn sống sót lại xô đẩy nhau rút chạy. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ 30. Đạn dược gần hết, lựu đạn, chai cháy, bom ba càng cũng không còn nữa.

          Các chiến sĩ đề nghị chiến đấu đến người cuối cùng. Lê Gia Định, chính trị viên đại đội ra lệnh cho tất cả các chiến sĩ còn lại dìu thương binh theo giao thông hào rút về nhà Bưu điện. Các chiến sĩ nói: "Sống cùng sống, chết cùng chết, cho chúng tôi ở lại đây chiến đấu với anh". Lê Gia Định giải thích: "Kháng chiến còn lâu dài, chúng ta không chủ trương cố thủ mấy ngôi nhà này. Chiến đấu như vậy là các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ. Các đồng chí phải rút để bảo toàn lực lượng, nhiệm vụ các đồng chí còn nặng nề. Các đồng chí hãy xứng đáng là những người chiến sĩ bảo vệ dinh Hồ Chủ tịch."

         Giặc Pháp thấy quân ta bắn ra lẻ tẻ, chúng dùng xe tăng húc đổ hàng rào sắt, bộ binh ào ạt xung phong, chúng tiến vào cầu thang, đánh lên gác. Lê Gia Định xông ra đập kíp quả bom lớn...1 (Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, quân ta rút ra khỏi Bắc Bộ phủ. Quân địch ập vào. Để giữ trọn lời thề trước khi nổ súng: "không cho địch nghênh ngang chiếm nhà Cha Hồ", Lê Gia Định đã nhanh nhẹn xông ra đập kíp làm nổ quả bom lớn nhưng bom không nổ và anh đã hy sinh vì trúng đạn địch). Những tên giặc đi đầu hoa mắt, chạy tóe trở ra vô cùng khiếp đảm, run sợ trước tinh thần chiến đấu quật cường của chiến sĩ ta, những người con của một dân tộc anh hùng "quyết không chịu làm nô lệ"... Bắc Bộ phủ lúc này chỉ còn là những căn phòng đổ nát, không người. Vì Bác và cơ quan Chính phủ đã rời khỏi đây từ lâu, làm việc bí mật ở nơi khác và đã về căn cứ chỉ đạo ngay từ khi quân địch sắp gây hấn. Giặc Pháp vừa run sợ trước tinh thần chiến đấu của quân dân ta, vừa thất vọng vì phải trả một giá rất đắt mà cuối cùng vẫn không thực hiện được cuồng vọng là đánh úp cơ quan lãnh đạo và lãnh tụ của ta. Chúng dè dặt, tiếp tục tấn công sang Bưu điện, ở đây có hơn 20 nam nữ công nhân viên, một tiểu đội Vệ Quốc Đoàn và một số chiến sĩ ở Bắc Bộ phủ rút về thành một lực lượng phòng thủ tương đối mạnh. Quân địch tấn công đến chiều tối vẫn không chiếm được, đành phải rút về nhà băng Đông Dương để củng cố. Sau một đêm, ngày giao chiến, giặc Pháp đã phải bỏ xác tại khu vực này 122 tên (số bị thương chúng chuyển đi nên không rõ), 2 xe tăng, 1 xe gíp, 2 xe vận tải bị phá hủy và 2 xe tăng khác bị đứt xích; bên ta gần một trung đội Vệ Quốc Đoàn thuộc tiểu đoàn 101 đã anh dũng hy sinh. Các chiến sĩ Bắc Bộ phủ đã làm cho kẻ địch bắt đầu dè chừng chùn bước.

          Ngay giờ phút chiến đấu đầu tiên, những tên cáo già xâm lược đã lộ rõ bản chất yếu hèn đáng hổ thẹn và nhục nhã, Xanhtơni và Moóclie đã từng hùng hổ và kiêu ngạo, nhưng khi bị một lực lượng nhỏ của ta đánh trả lại thì hai "vị tướng cướp" kia đã cuống quít xô đẩy nhau, lôi kéo nhau, rút chạy trước tiên, rời bỏ "biệt thự" mát mẻ và lịch sự ở sát bờ hồ Hoàn Kiếm1 (Nay là trụ sở báo Nhân dân). Súng máy của ta nhằm bắn chúng, nhưng súng máy bị tắc. Ta ném tiếp 4 quả lựu đạn, lựu đạn không nổ. Một chiến sĩ chạy lao theo ném tiếp quả lựu đạn thứ 5. Một tiếng nổ như sét đánh bên ria đường. Xanhtơni bị thương, rên la ầm ĩ. Mấy chiếc xe tăng, xe bọc sắt hối hả đến cứu chúng cũng vừa tới, tức tốc đưa hai tên "trùm thực dân" chạy vào thành, để mặc những tên lính đánh thuê nằm lại đợi giờ chết.

          Xanhtơni và Moóclie vừa chết hụt ở bờ hồ Hoàn Kiếm cầm đầu tháo chạy, vừa lọt vào thành tưởng đã yên thân, ngờ đâu, thình lình có tiếng lựu đạn, tiểu liên, rồi đến tiếng súng trường, súng máy nổ ran, lửa cháy nghi ngút ngay trong thành. Lính Pháp bị chết, bị thương, có tiếng kêu rống lên như bò bị chọc tiết. Những tên chỉ huy xâm lược kia lại một phen kinh hoảng: "Việt Minh đã tấn công được vào tận đây ư? Ôi! Ghê sợ thật!". Một tên lính Pháp sau này bị ta bắt được đã thuật lại câu nói và sự luống cuống run sợ của Xanhtơni và Moóclie như vậy.

          Sự thật thì hôm đó chỉ có ba đội viên tự vệ khu Đông thành thuộc Liên khu I đã bất ngờ giết lính gác, lọt vào thành, dùng lựu đạn, chai cháy, đốt phá kho tàng của địch. Súng nổ, lửa cháy, bọn chúng chạy tán loạn bắn lẫn vào nhau. Đó là một cách đánh kỳ lạ mà bọn quân sự đế quốc không thể nào nghĩ tới.

          Trong thành phố, khắp nơi đang diễn ra những trận kịch chiến quyết liệt giằng co từng tấc đất. Bộ phận của ta tiến vào phá hoại sân bay Gia Lâm bị lộ, phải rút. Bộ phận phá hoại cầu Long Biên cho bộc phá nổ ở chân cầu nhưng cầu không đổ. Các chiến sĩ nhanh chóng lật một số tấm ván ở mặt cầu, vừa lúc đó một đoàn cơ giới của địch từ Gia Lâm tiến sang tiếp viện cho Hà Nội đã rọi đèn pha rực sáng cả mặt cầu. Đồng thời, một cánh quân Pháp có chừng hơn 30 xe cơ giới từ trong thành tiến ra Cửa Bắc tiếp viện cho bọn ở cầu Long Biên và định bắt liên lạc với bọn ở Gia Lâm tiến sang. Các chiến sĩ phá cầu rút về Phúc Xá. Ngay lúc đó, ở đầu cầu Long Biên về phía Hà Nội súng nổ dữ dội, lửa cháy rực trời. Toán địch ở Gia Lâm tiến sang đến giữa cầu, thấy vậy dừng lại, mặc cho đồng đội của chúng đang bị quân la chặn đánh ở phố Hàng Đậu. Như một con rắn độc khổng lồ, đoàn xe của địch từ trong thành chạy vội vã về phía đầu cầu Long Biên. Nhưng chiếc xe tăng đầu tiên vừa tới đầu phố Hồng Phúc thì bị tự vệ giật bom phá tan. Chiếc xe thứ hai bị đứt xích khựng lại. Các xe sau đang đà phóng nhanh không hãm kịp, trong đêm tối mù mịt, súng nổ dữ dội, bọn chúng càng thêm hốt hoảng, xe sau xô vào xe trước, đổ liểng xiểng. Bộ binh địch nhảy xuống, núp vào gầm xe, vào vỉa hè chống cự. Ngay lúc đó, Vệ quốc quân, tự vệ và nhân dân đã bố trí sẵn ở hai bên đường phố, nhảy ra đánh giáp lá cà với quân địch, đốt phá cơ giới làm chúng hoang mang quay đầu chạy về thành, bỏ lại trên 70 xác chết, 2 xe tăng bị phá hủy, 2 xe tăng khác và 2 ô tô vận tải bị hư hỏng. Bên ta chỉ có 5 tự vệ bị thương.

          Cánh quân cơ động thứ ba của địch từ trong thành qua Cửa Bắc tiến ra định phối hợp với lính gác ở nhà máy điện, máy nước Yên Phụ, nhà in IDEO tiêu diệt công nhân và bộ đội ta đang chiến đấu ở những nơi trên, nhưng dọc đường bị bàn ghế, cây cối ngổn ngang chắn lối, mặt khác lại bị tự vệ luôn luôn nổ súng ngăn chặn từng bước, nên hơn một giờ sau chúng mới tới. Và ở đây, công nhân đã phá hủy máy móc xong, cùng bộ đội rút về tổ chức ổ đề kháng cố thủ tại nhà in IDEO. Trong khi đó ở Yên Phụ phía tây bắc nhà máy điện chừng 800 mét, một trung đội Vệ Quốc Đoàn, có công an, tự vệ phối hợp, xung phong giết được 5 tên địch ở nhà tắm cuối đường Cổ Ngư, phá hủy một xe gíp làm cho bọn địch ở phía bắc Hà Nội càng thêm lúng túng. Bên ta có 2 vệ quốc quân và 1 công an hy sinh.

          Cánh quân cơ động thứ tư của địch từ trong thành, qua Cửa Nam, với ý định nhanh chóng tiến ra chiếm ga Hàng Cỏ, bao vây tiêu diệt toàn bộ đại đội tự vệ của ta ở nhà Đấu Xảo1 (Nay là Cung vãn hóa Hữu nghị). Nhưng từ đầu phố Hàng Lọng, cơ giới của địch bị toa xe lửa đổ chắn ngang, không tiến được. Đội tự vệ ga Hàng Cỏ cùng tự vệ phố Hàng Lọng xuất kích đánh tạt sườn địch, tiêu diệt 15 tên lính Pháp, phá hủy 1 xe tăng, 2 ô tô vận tải và làm hư hỏng 1 xe tăng khác. Quân địch phải tìm đường vòng, mở một mũi tấn công đánh chiếm tòa án, định tiêu diệt bộ đội ta bố trí ở Hỏa Lò. Nhưng các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn ở Hỏa Lò đã phối hợp với một tiểu đội ở quân y viện2 (Nay là Bệnh viện C) tấn công tiêu diệt quân địch ở viện Rađiom3 (Nay là Viện ung thư phố Quán Sứ), tránh được đòn tập kích bất ngờ của toán địch tấn công sau lưng. Cuộc chiến đấu ở khu vực này diễn ra giằng co, xen kẽ, phức tạp. Đến nửa đêm về sáng, quân địch mới đánh chiếm được những khu nhà xung quanh Đấu Xảo, hình thành ba mặt bao vây. Một mũi từ phố Trần Quốc Toản đánh quặt phía sau, một mũi từ ga Hàng Cỏ đánh thẳng vào phía trước, một mũi từ phố Quán Sứ chiếm khu nhà Tổng liên đoàn lao động đánh chéo sang. Mặc dầu đã hy sinh gần 20 người, đại đội tự vệ và một số công an vẫn bám chắc ụ súng, bờ tường đánh bật các đợt xung phong của địch, tiêu diệt hơn 30 tên. Đến 4 giờ sáng, anh em tự vệ khéo léo nghi binh rồi bí mật rút về phố Nguyễn Du. Mờ sáng, quân địch xung phong vào Đấu Xảo, ở đây chỉ còn lại những vỏ đạn, gạch ngói đổ vỡ trong những căn phòng trống rỗng.

          Tiếng súng vẫn nổ ran. Các chị trong đội thông tin tuyên truyền, các em liên lạc vẫn truyền tin chiến thắng tới khắp các khu phố Hà Nội. Có những nơi, chiến sĩ ta vừa chiến đấu phòng thủ vừa hát bài quốc ca, bài "Diệt phát xít", bài "Chiến sĩ Việt Nam"... Tiếng hát hòa theo tiếng đàn của đội tuyên truyền, gần như át tiếng súng. Lúc đầu có những cụ già, trẻ em đột nhiên thấy súng nổ dữ dội, giật mình tìm chỗ ẩn nấp tránh đạn. Sau thấy anh chị em tự vệ gọi loa báo tin chiến thắng, thấy nam nữ tự vệ rầm rập tiếp tục đào hào, đắp ụ, chặt cây làm chướng ngại vật ngoài đường phố, các cụ và một số em cũng vùng dậy, chạy ra tham gia mọi việc. Mỗi người, dù chỉ ném ra đường một kiện hàng, một chiếc ghế hoặc chặt được một cành cây ngả ra đường làm chướng ngại vật ngăn bước tiến của giặc Pháp, đều cảm thấy tự hào, sung sướng. Không khí kháng chiến bừng bừng khắp các đường phố thủ đô Hà Nội.

          Các đơn vị Vệ Quốc Đoàn, dân quân tự vệ ở Liên khu II cũng liên tiếp đánh lại quân địch ở các vị trí hãng Pho (Ford), Đồn Thủy, Phà Đen. Đến 7 giờ sáng ngày 20 tháng 12, chừng 200 bộ binh địch cùng một số ô tô vận tải từ Đồn Thủy, theo phố Nguyễn Công Trứ tiến về phố Huế, tới khu nghĩa địa bị quân ta chặn đánh tiêu diệt 15 tên, phá hủy 1 ô tô vận tải. Đoàn xe của địch phải quay trở lại Đồn Thủy. Quân ta không một ai việc gì. Ở phố Hàng Bài, hàng loạt ổ chiến đấu bí mật của giặc Pháp trong các nhà Pháp kiểu cũng bị tự vệ cùng nhân dân khu phố tiêu diệt. Trung đội bộ đội đóng ở trại Vệ Quốc Đoàn trung ương1 (40 Hàng Bài), cử đồng chí Lưu (hoặc Liệu), là một chiến sĩ quê ở miền núi, làm nhiệm vụ giật bom ngầm dưới nền nhà của rạp chiếu bóng Magiéttích (Majestic)2 (Nay là rạp chiếu bóng tháng Tám), nhưng bom không nổ. Bực mình, đồng chí Lưu chui vào đường hầm, lấy súng trường gí sát vào tận kíp bom để bắn, mặc dầu đồng chí cũng biết rằng, nếu bom nổ thì mình cũng tan tành. Nhưng bom vẫn không nổ. Lập tức, một tiểu đội Vệ Quốc Đoàn vượt qua đường phố, xung phong tạt sườn rạp Magiéttích, tiêu diệt địch, thu nhiều vũ khí đạn dược.

          Ở Liên khu III, quân ta chiến đấu quyết liệt với địch tại trường Bưởi, đánh bật địch ở nhà bia Omen (Bière Hommel)1 (Nay là nhà máy bia Hà Nội), tập kích cơ quan tình báo của địch ở phố Ông Ích Khiêm, bắt sống tên trung úy tình báo. Đặc biệt, nhân dân phố Hàng Bột nô nức xung phong đi theo anh em tự vệ phố, phối hợp với một đơn vị Vệ Quốc Đoàn, tiến đến bao vây quân địch chiếm đóng nhà Đềlêvô (Déléveaux)2 (Từ số 3 đến số 9 phố Cát Linh). Quân ta vừa nổ súng tấn công uy hiếp, vừa gọi địch vận. Quân địch ngoan cố không chịu hàng, chờ tiếp viện. Nhưng quân tiếp viện suốt đêm bị ta chặn đứng ở Văn Miếu, đầu phố Hàng Bột. Bọn địch ở nhà Đềlêvô hoàn toàn bị cô lập, tiếng súng chống cự của chúng mỗi lúc một thoi thóp...

          Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội vừa nổ, Hà Nội lửa rực cháy thì nhân dân ngoại thành và các vùng cách xa Hà Nội hàng chục cây số cũng xô ra sân, ra đầu làng hướng về Thủ đô. Các cấp lãnh đạo và chính quyển các địa phương đã cùng nhân dân rầm rập chuẩn bị suốt đêm để chi viện cho Hà Nội. Các đội dân quân tự vệ tập trung ở các đình, chùa, điểm canh đầu làng sẵn sàng giáo mác, chờ lệnh tiến vào chiến đấu để bảo vệ Thủ đô yêu quý. Các đội nữ hỏa đầu quân chuẩn bị gạo nước, giết lợn, giết gà, sẵn sàng tiếp tế lương thực cho tiền tuyến. Các đội úy lạo mặt trận gồm các chị và các cụ bà cũng tập trung chờ sáng để đem quà tặng bộ đội, thăm hỏi thương binh. Mọi người thao thức suốt đêm chờ tin chiến thắng. Hà Nội bị xâm lăng, Hà Nội đứng lên và cả nước cũng đứng lên bảo vệ Hà Nội.

          Giặc Pháp định dùng áp lực bắt ta phải nộp vũ khí, trao quyền trị an cho chúng. Nếu không, sau hành động khiêu khích quân sự thăm dò ta đêm 19 tháng 12, chúng sẽ bất ngờ tổng công kích, thực hiện kế hoạch chiếm xong Hà Nội trong vòng 24 giờ đồng hồ ngày 20 tháng 12, quân đội và cơ quan Chính phủ ta sẽ nằm gọn trong tay chúng. Chúng cho rằng, một Nhà nước vừa mới ra đời, một lực lượng quân đội còn non trẻ không thể nào chống cự nổi với một đội quân xâm lược thiện chiến, trang bị tối tân.

          Nhưng mọi việc đều xảy ra ngược lại, tình hình đã không cho phép bọn thực dân Pháp muốn sao được vậy. Nhân dân ta đã vùng dậy kháng chiến, giáng cho kẻ địch những đòn chí mạng, khiến chúng mất thế chủ động ban đầu. Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội từ chỗ chủ quan, khinh thường ta đi đến hoang mang lúng túng, điều quân cơ động đi tiếp viện, phá vây. Âm mưu bắt sống, tiêu diệt lãnh tụ và Trung ương Đảng ta hoàn toàn thất bại. Tinh thần binh lính địch thì hoang mang, không hiểu tình thế ra sao. Sĩ khí của quân dân ta thì bừng bừng sôi sục, tin tưởng thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ về tay. Đêm kháng chiến đầu tiên ở Hà Nội, quân và dân ta đã tiêu diệt trên 300 tên địch (chưa kể số bị thương và chưa kể một số trận của tự vệ khu phố, của nhân dân đã tự động tiêu diệt các ổ chiến đấu bí mật của giặc Pháp ở nhà bọn phản động), phá hủy 5 xe tăng, 2 xe gíp, 7 xe vận tải, làm hư hỏng 5 xe tăng và xe bọc sắt khác. Ta thu được một số vũ khí, quân trang, quân dụng. Hồi ấy, nếu những loại vũ khí như bom, mìn, lựu đạn của ta tốt hơn (tức là đảm bảo nổ) và chúng ta biết sử dụng tập trung ưu thế binh lực có trọng điểm hơn nữa thì những trận chiến đấu đầu tiên của ta còn làm cho giặc Pháp phải thiệt hại nặng nề hơn nhiều. Thắng lợi đêm kháng chiến đầu tiên ở thủ đô Hà Nội không những là ở chỗ tiêu hao sinh lực địch, phá hủy được một số cơ giới làm cho giặc Pháp từ chủ động chuyển thành bị động, mà thắng lợi to lớn hơn nữa là làm cho giặc Pháp bắt đầu dè chừng trước ý chí bất khuất của một dân tộc anh hùng ở thủ đô anh hùng, không cam tâm chịu khuất phục trước kẻ thù có sức mạnh hơn mình gấp bội. Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội mở đầu cho cuộc kháng chiến lâu dài trên toàn quốc là thắng lợi đầu tiên của nhân dân ta.

Phát huy thắng lợi đầu tiên, quân và dân thủ đô Hà Nội sẵn sàng đương đầu với các đợt tấn công mới ở quy mô lớn hơn của giặc Pháp.

 

QUÂN THÙ BẮT ĐẦU CHÙN BƯỚC...

Tiếng súng chiến đấu tự vệ của quân và dân Hà Nội bắt đầu nổ. Ủy ban bảo vệ Hà Nội đổi tên thành Ủy ban kháng chiến để lãnh đạo và chỉ huy cuộc kháng chiến ở Thủ đô.

Cuộc chiến đấu vừa qua một đêm thì ngay ngày hôm sau 20 tháng 12, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch được truyền đi khắp thành phố, đến từng chiến sĩ trong các chiến hào. Những lời kêu gọi của Người thật sự cảm động, thống thiết:

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông - đàn bà, bất kỳ người già - người trẻ, không chia tôn giáo, đáng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Ngày 20 tháng 12 năm 1946

HỒ CHÍ MINH

 

          Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã truyền sức mạnh, lòng tha thiết yêu Tổ quốc tới nhân dân và các chiến sĩ thủ đô. Chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn, tự vệ, đồng bào đọc đi đọc lại cho nhau nghe từng lời, từng chữ trong từng chiến hào, giao thông hào, góc tường, cửa sổ... Nhiều chiến sĩ và đồng bào vừa đọc, vừa rơi nước mắt vì cảm động.

          Buổi sáng hôm ấy, khi bình minh vừa rạng, không khí giá lạnh tan dần, cả Hà Nội vẫn còn thưa thớt tiếng súng nổ, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận đã chia nhau mỗi người đi một nơi để truyền đạt lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, động viên các chiến sĩ và đồng bào, đồng thời xem xét mặt trận.

         Các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn và một đồng chí trong Bộ chỉ huy mặt trận vào Ô Chợ Dừa, tới thăm một đại đội công nhân bố trí ở phố Khâm Thiên. Sở dĩ gọi là đại đội công nhân, vì các chiến sĩ của đại đội này hầu hết là anh em công nhân xe lửa. Sau khi thăm hỏi tình hình chiến đấu và sức khỏe của các chiến sĩ, đồng chí Hoàn tươi cười nói: "Các đồng chí ra đây, tôi đã đề nghị với đồng chí Tổng chỉ huy cùng tôi với anh Vương Thừa Vũ chụp chung với các đồng chí một kiểu ảnh làm kỷ niệm". Đồng chí Trần Độ, Hoàng Văn Thái đi động viên các chiến sĩ ở pháo đài Láng. Trong lúc các đồng chí đang nói chuyện với các pháo thủ thì vài chiếc máy bay của giặc Pháp bay đến lượn mấy vòng rồi bắt đầu bắn phá, ném bom, khói lửa mù mịt cả cánh đồng. Cũng từ hôm đó, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận ngày đêm đi sát tuyến chiến đấu, chỉ huy sở tiền phương trở thành lưu động. Do đó, Bộ chỉ huy mặt trận làm thêm một vị trí chỉ huy có hầm ẩn nấp ở phía tây làng Trung Phụng (tây bắc Kim Liên).

          Sau một đêm thử lửa, nhiều người vẫn cho rằng sáng ngày 20 tháng 12, giặc Pháp có thể mở những đợt tấn công quy mô lớn để lấy lại tinh thần binh lính của chúng và tiếp tục kế hoạch 24 giờ đồng hồ đánh chiếm Hà Nội.

          Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị sẵn sàng đánh lại địch. Thực hiện thuật "cang chiến" tức là đánh chẹn địch ở các đường phố, bố trí các trận địa phục kích tiêu diệt địch ở những địa hình hiểm yếu. Nhưng cả ngày 20 tháng 12, ngoài hai mũi tấn công hết sức dè dặt ra đường Hoàng Hoa Thám và phố Ngọc Hà, giặc Pháp không có một cuộc tấn công nào đáng kể. Cánh quân của địch tiến ra đường Hoàng Hoa Thám, gần một ngày rập rình ở vườn Bách Thảo rồi rút lui. Còn bọn địch tiến ra phố Ngọc Hà thấy tiếng súng của tự vệ bắn lẻ tẻ, chúng chủ quan dốc quân đuổi theo... Bất ngờ, chủ lực ta ở phố Đội Cấn xuất kích đánh thốc vào sau lưng chúng ở trại Ngọc Hà. Địch trở tay không kịp, hàng ngũ rối loạn, chạy tán loạn khắp ngả, một số không chạy thoát bị ta tiêu diệt. Sau trận thất bại này, giặc Pháp càng thêm dè chừng và thận trọng. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ đã qua. Bọn tướng tá xâm lược bắt đầu vò đầu, bóp trán.

          Về phía ta, sau ngày chiến đấu thắng lợi đầu tiên, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái trực tiếp tới gặp Bộ chỉ huy mặt trận để phổ biến nhận định và chỉ thị mới của Bộ Tổng chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đặc biệt nhấn mạnh: "Phải kiên quyết giam chân quàn địch ở Hà Nội, tiêu hao thật nhiều sinh lực địch, bảo toàn lực lượng ta để tạo điều kiện cho nhân dân ta chuẩn bị kháng chiến lâu dài". Trong khi đó ở bên ngoài, toàn mặt trận hầu như lắng xuống, chỉ lác đác nơi này nơi kia có tiếng súng nổ của quân ta bắn tỉa quân giặc. Quân địch sau một ngày thất bại đang chấn chỉnh lực lượng để mở những cuộc tấn công mới. Quân dân thủ đô với không khí bừng bừng chiến thắng, đang tích cực chuẩn bị để ngay đêm hôm ấy mở những đợt tập kích quân địch trên toàn mặt trận. Sau đó sẽ thực hiện đúng như kế hoạch đã định: Bốn tiểu đoàn thu gọn lực lượng ra các cửa ô, tiểu đoàn 101 vào Liên khu I; hình thành thuật "trùng độc chiến", để thực hiện tiêu hao và giam chân địch. Đồng chí Võ Nguyên Giáp còn căn dặn thêm: "Cần nhắc nhở các đơn vị, tuyệt đối không vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, phải sẵn sàng chiến đấu trong điều kiện quyết liệt hơn, vì rằng sau khi thăm dò lực lượng ta, giặc Pháp có thể tấn công với quy mô lớn hơn".

          Quả nhiên ngày 21 tháng 12, từ sáng sớm, giặc Pháp đã cho máy bay đến ném bom, bắn phá vào khu vực nhà Bộ Quốc phòng1 (Nay là số 28 phố Hàng Bài), trại Vệ Quốc Đoàn trung ương2 (Nay là số 40 phố Hàng Bài). Khói lửa bốc cháy mù mịt ở phố Hàng Bài. Xe tăng, xe bọc sắt của chúng từ phía nhà Gôđa tiến đến bắn pháo vào phía trước Bộ Quốc phòng. Một mũi từ trụ sở cơ quan liên lạc Việt - Pháp3 (Nay là số 21 phố Bà Triệu) đánh thúc sau lưng nhà Bộ Quốc phòng. Có thời gian chuẩn bị trước, quân ta đã đào hầm, đục lỗ châu mai đủ các hướng, nên quân địch đánh phía nào cũng bị chặn lại. Chúng phải lui ra xa, dùng máy bay, pháo binh, súng cối bắn phá. Nhà cửa đổ sập. Hầm hố bị phá hủy một số. Đến 10 giờ 15 phút, quân ta rút sang trại Vệ Quốc Đoàn lúc vượt qua đại lộ Lý Thường Kiệt bị một khẩu đại liên của địch ở đầu phố bất ngờ bắn quét mặt đường làm một số chiến sĩ bị thương vong. Nhân lúc đó, xe tăng địch tiến thẳng đến trước trại Vệ Quốc Đoàn và một mũi khác cũng có xe tăng yểm hộ đánh chiếm các nhà Pháp kiểu phía tây, hình thành thế bao vây trại Vệ Quốc Đoàn. Phía trước, một xe tăng địch tiến sát vào vỉa hè giơ sườn về phía ta. Nhưng ta không có vũ khí bắn xe tăng. Các chiến sĩ ném hàng loạt lựu đạn, nhưng lưu đạn quả nổ quả không. Xe tăng địch húc qua cửa trước tiến vào sân bên trái. Quân ta cầm cự đến 12 giờ thì theo đường ngầm dưới đất qua đại lộ Trần Hưng Đạo bí mật rút sang nhà cố vấn Vĩnh Thụy1 (Nay là số nhà 51, phố Trần Hưng Đạo. Năm 1925, ngày 6 tháng 1, Khải Định chết. Ngày 18 tháng 1 năm 1926, con trai là Vĩnh Thụy từ Pháp về nối ngôi lấy hiệu là Bảo Đại, rồi lại sang Paris tiếp tục theo học. Năm 1932, Bảo Đại về nước chính thức làm tên vua bù nhìn tay sai cho đế quốc Pháp, Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Bảo Đại nhận làm tay sai cho Nhật. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhân dân Việt Nam vùng dậy cướp chính quyền. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Sau do chính sách liên hiệp của Chính phủ nước Việt Nam Dân chù Cộng hòa, Bảo Đại được giữ chức "Cố vấn Chính phủ". Ngày 16 tháng 3 nãm 1946, Bảo Đại được cử đi giao thiệp với chính phù Tưởng Giới Thạch. Tới Côn Minh, y đáp máy bay đi Trùng Khánh rồi chuồn thẳng... Cho đến 16 tháng 12 năm 1947, Bảo Đại lại trở về vịnh Hạ Long gặp Bôlae (Bollaert), mặc cả với nhau để y trở về tiếp tục làm tay sai cho bọn thực dân Pháp. Năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, Bảo Đại, cùng số phận với đế quốc Pháp, bị đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm gạt ra khỏi miền Nam năm 1955) nổ súng chống cự. Quân địch tiếp tục tấn công theo. Quân ta bí mật theo đường ngầm luồn trở lại trại Vệ Quốc Đoàn, bất ngờ nổ súng đánh quặt vào sau lưng địch. Bị một đòn hiểm đột nhiên giáng vào sau gáy, giặc Pháp không tài nào chống đỡ nổi. Quân ta đốt cháy 3 ô tô vận tải. Xác giặc chết ngổn ngang trên đống gạch ngói đổ vỡ.

         Bài học kinh nghiệm trận đánh Ngọc Hà còn nóng hổi. Nhưng giặc Pháp vẫn mù quáng chủ quan ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí, nhắm mắt lao đầu vào cạm bẫy của ta. Quân và dân đường Yên Phụ bắn lẻ tẻ dụ địch tiến vào sâu rồi lợi dụng chướng ngại vật chặn chúng lại. Hai trung đội Vệ Quốc Đoàn và hàng trăm dân quân tự vệ bố trí sẵn ở gần đó, bất ngờ xuất hiện đánh quặt sau lưng địch, đốt phá cơ giới, tiêu diệt hàng chục tên giặc. Bên ta, 2 chiến sĩ bị thương.

          Hiệp đấu thử sức, quân ta chiến thắng giòn giã. Bộ đội phòng không ở ngoại thành bắn rơi 2 máy bay của địch. Các chiến sĩ trong Liên khu I chặn đánh địch ở Bộ Giao thông công chính1 (Số 164 phố Trần Quang Khải), Nha Thủy Lâm2 (Số 47 phố Hàng Dầu), phố Bắc Ninh, phố Hàng Vôi... làm cho quân địch thiệt hại nặng nề.

          Lối đánh du kích của toàn dân ta tham gia kháng chiến cứu nước đã diễn ra muôn hình muôn vẻ, làm cho quân xâm lược không những phải chùn bước mà còn nơm nớp lo sợ.

          Quân ta phát huy thắng lợi bước đầu, đồng thời làm lạc hướng phán đoán của địch trước khi thu gọn lực lượng chuyển sang hình thế mới, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị tập kích 8 mục tiêu và quấy rối địch trên toàn mặt trận. Ngay trong đêm 21 tháng 12, quân và dân phố Hàng Bột đã tiêu diệt một số địch và chiếm nhà Đềlêvô.

          Một trung đội Vệ Quốc Đoàn tập kích đầu ô Yên Phụ, giết 1 lính Pháp, bắt sống 2 tên Việt gian. Một trung đội tập kích nhà in IDEO, gây tiếng nổ dữ dội, và nhiều đám cháy. Quân địch phải huy động xe cơ giới từ trong thành và từ cầu Long Biên tiếp viện tới. Cũng 12 giờ đêm, một trung đội tự vệ do trung đội phó Hoàng Dũng chỉ huy đã đột nhập thành phía Cửa Bắc, bất ngờ nổ súng trong lòng địch, giết chết 5 lính Pháp, thiêu hủy 1 xe tăng, 1 xe gíp, thu 2 súng máy. Một tiểu đội Vệ Quốc Đoàn ở phố Đội Cấn đột nhập trại Ngọc Hà, ném lựu đạn giết một số lính Pháp. Ngoài ra, quân và dân Hà Nội còn tập kích ở Tòa Thị chính, nhà dầu Sen... và quấy rối nhiều nơi khác gây náo động cả Hà Nội. Lửa cháy, súng nổ từ chập tối đến sáng.

         Ngày 22 tháng 12, giặc Pháp cho một toán quân tiến vào thăm dò phố Hàng Da, Hàng Điếu, Hà Trung thì bị tự vệ khu Đông Thành và một bộ phận nhỏ của tiểu đoàn 101 chặn đánh diệt 10 tên (trong đó có 1 thiếu úy), phá hủy 1 ô tô vận tải. Giặc Pháp vội vã rút chạy vào thành. Sau đó, suốt ngày, toàn mặt trận im tiếng súng. Giặc Pháp củng cố lực lượng, Bộ chỉ huy quân đội thực dân Pháp ở Hà Nội họp bàn kế hoạch, chuẩn bị những đợt tấn công mới, với hy vọng gia hạn một tuần lễ chiếm xong Hà Nội.

Phía ta, Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy luôn luôn ở sát mặt trận, truyền đạt nhận định và ra lệnh kịp thời cho Bộ chỉ huy mặt trận.

          Để tăng thêm sức chiến đấu cho mặt trận Hà Nội và có thêm lực lượng tung vào hoạt động du kích trong lòng địch, giảm nhẹ sự o ép đối với Liên khu I, cũng sáng sớm ngày 22 tháng 12, Bộ chỉ huy mặt trận nhận được mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu điều thêm lực lượng mới bổ sung cho Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Anh Đệ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 56, thuộc trung đoàn 13 dẫn 2 đại đội và tiểu đoàn bộ cấp tốc tiến về Thủ đô. Bộ Tổng chỉ huy còn ra lệnh cho các mặt trận khác tích cực hoạt động để phối hợp chiến đấu với Hà Nội. Một đơn vị Vệ Quốc Đoàn và dân quân khép chặt vòng vây, uy hiếp thị xã Bắc Ninh. Giặc Pháp phải đem quân từ Gia Lâm lên tiếp viện, tới ga Yên Viên bị quân ta chặn đánh kịch liệt. Bắc Ninh hoàn toàn bị cô lập. ở Lạng Sơn, từng tốp du kích liên tiếp đột nhập thành phố, đốt các kho tàng lương thực, phá các nguồn nước ăn, làm cho địch gặp nhiều khó khăn. Nhân lúc đó, một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đã cùng dân quân tấn công chiếm lại Bản Thi làm cho Bộ chỉ huy Pháp ở Bắc Bộ phải tính đến việc tăng cường lực lượng cho Lạng Sơn. Ở Hải Dương, 8 giờ sáng ngày 22 tháng 12, địch huy động pháo binh, xe tăng, máy bay, tàu chiến yểm hộ cho trên một ngàn quân đổ bộ lên ga Phú Thái. Nhưng dân quân du kích vùng này đã chặn địch quyết liệt, bắt sống được nhiều lính Pháp và thổ phỉ, đánh lui mũi tấn công của địch. Trong khi đó, hàng ngàn Hoa kiều từ các nơi tập trung ở Hà Đông biểu tình phản đối quân đội thực dân Pháp gây chiến xâm lược nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Sau cuộc biểu tình, Hoa kiều tự động đem hàng tấn gạo, hàng trăm thước vải đến ủng hộ quân dân Hà Nội để làm quỹ kháng chiến. Cũng ngày 22 tháng 12, số đầu tiên của báo "Thủ đô", cơ quan tuyên truyền của ủy ban kháng chiến khu XI ra đời, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội. Mục kinh nghiệm chiến đấu đã đăng bài chỉ đạo các đơn vị tiết kiệm đạn dược và kiên quyết chiến đấu. Nhiều bài khác ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân, dân thủ đô.

          Đêm 22 tháng 12, quân và dân Hà Nội lại tập kích 6 mục tiêu. Từ chập tối tới nửa đêm, tiếng súng nổ khắp thành phố Hà Nội. Tám giờ tối, một trung đội Vệ Quốc Đoàn cùng công an và tự vệ khu phố tập kích vào trụ sở công an quận 2, giết chết 7 lính Pháp, số còn lại hoảng sợ chạy tán loạn. Các chiến sĩ dũng cảm của ta đã đột nhập nhiều vị trí địch, treo cờ đỏ sao vàng, ném lựu đạn để nâng cao ý chí bất khuất của quân và dân thủ đô Hà Nội. Cùng giờ trên, một lực lượng tự vệ ở phía đông nam Liên khu I đột nhập đánh địch ở Bộ Giao thông công chính. Chúng bỏ chạy. Quân ta thiêu hủy toàn bộ. Khoảng 10 giờ đêm, quân ta tập kích nhà dầu Sen Khâm Thiên lần thứ 2, nhà Diêm1 (Nay là Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo) và một số mục tiêu khác.

          Cứ thêm một ngày một đêm chiến đấu, giặc Pháp càng thấy rõ tinh thần kháng chiến chống xâm lăng của quân, dân thủ đô Hà Nội ngày một dâng cao. Chúng bắt đầu ăn không ngon, ngủ không yên. Khắp Hà Nội, không một chỗ nào chúng được yên ổn. Ngày 23 tháng 12, giặc Pháp tiến công xuống chợ Hôm. Chúng tiến rất chậm. Mỗi khi gặp ụ đất, chướng ngại vật của ta, xe tăng của chúng dừng lại từ xa bắn phá dữ dội, rồi đi vòng đường khác. Nhưng các chiến sĩ quyết tử đã len lỏi theo đường đục sẵn từ nhà nọ sang nhà kia. Nhằm khi xe tăng của giặc Pháp dừng lại, lập tức đồng chí Thành lao ra trước phóng bom ba càng phá hủy một chiếc ở ngã năm Hàng Kèn, một chiếc ở cửa chợ Hôm. Anh em tự vệ phố Huế và phố Bà Triệu luồn về phía sau bắn vào bộ binh địch giết chết hơn 30 tên. Lính Pháp bị bắt sống trong trận này nói rằng: "Sĩ quan Pháp đã phải xích chân lính vào ghế xe tăng, thiết giáp vì họ quá sợ hãi bom ba càng và chai cháy của Việt Minh".

         Ở phố Hàng Mành, 2 xe thiết giáp của Pháp bị sa hố. Tự vệ xông ra đốt cháy. Sau, chúng phải cho xe tăng đến kéo về. Một toán giặc khác từ phố Phủ Doãn tiến sang phố Hàng Bông đến 12 giờ 10 phút lại một xe tăng khác bị sa hố, các đội viên tự vệ xông ra ném lựu đạn, chai cháy phá đứt xích.

         Các cuộc tấn công bắt đầu từ sáng sớm của giặc Pháp đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt. Chúng đổi lối đánh, tấn công vào buổi chiều, với hy vọng ập đến giữa lúc quân ta chủ quan, phân tán không đề phòng để bất ngờ tiêu diệt chủ lực của ta. Khoảng 5 giờ chiều ngày hôm đó, giặc Pháp cho một toán quân từ Đồn Thủy lặng lẽ tiến về phía Lò Lợn. Một số đồng bào, còn ở lại phố Nguyễn Lai Thạch, Lê Quý Đôn, trèo lên tầng gác tìm cách báo hiệu cho bộ đội biết. Khi quân địch tới Lò Lợn, các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn ở đây bắn lẻ tẻ rồi rút lui. Giặc Pháp sục vào chiếm Lò Lợn, không gặp một ai. Chúng hùng hục tiến thẳng xuống Thanh Nhàn. Quân ta vẫn rút. Quân địch vẫn đuổi. Đồng bào thấy bộ đội không bắn lại phát súng nào mà cứ xách súng chạy, có cụ già phát cáu, văng tục; có người giằng lấy súng của bộ đội và nói:

          - Chúng tôi già rồi, lại không có súng ống gì cả, chúng tôi mới phải tạm lánh đi nơi khác. Các anh là trai tráng. Các anh có súng. Các anh lại chạy như thế ư? Không đánh được thì đưa súng đây cho chúng tôi đánh.

          Nhiều bà con còn nói tục thậm tệ hơn nữa. Lúc đó, chiến sĩ ta dù có giải thích thế nào chăng nữa thì đồng bào vẫn giận dữ, bực dọc. Quân địch vẫn tiến ào ạt một mạch đến bờ đê Thanh Nhàn. Bất ngờ quân ta từ bờ đê xuất kích đánh ập vào cạnh sườn địch. Quân địch rối loạn hàng ngũ, đứa giơ tay hàng, đứa nhảy xuống hồ, những tên khác xô đẩy nhau rút chạy. Địch phải bỏ xác tại trận 15 tên. Trời nhập nhoạng tối, quân giặc chạy miết. Súng đạn và xác những tên bị thương không chạy được rải rác dọc đường. Quân ta tiếp tục đuổi và chiếm lại vị trí Lò Lợn. Bên ta 2 vệ quốc quân và 1 tự vệ hy sinh. Lúc này nhân dân lại xô cả ra đường cùng bộ đội đuổi giặc. Tiếng hò la quát tháo ầm ĩ. Đồng bào vui sướng cười nói khen ngợi không hết lời: "Quân ta vũ khí kém nhưng lại có mưu cao", "Giỏi thật! Bộ đội Cụ Hồ giỏi quá!".

          Đêm 23 tháng 12, đêm cuối cùng các đơn vị hoàn thành thu gọn lực lượng và hình thành thuật "trùng độc chiến". Để đánh lại quân địch, một số đơn vị Vệ Quốc Đoàn và tự vệ tiếp tục tập kích vào các vị trí địch. Tại Nhà Tiền, khi đơn vị xung phong, chị L. nữ cứu thương thoăn thoắt lao lên trước, nhảy qua tường và hô lớn: "Anh em, theo tôi!". Các chiến sĩ vừa lao theo, vừa hô vang: "Xung phong, giết!". Bọn giặc hoảng hốt chạy tán loạn. Chị cùng anh em xông thẳng vào trại, vác ra một khẩu liên thanh F.M và 2 khẩu súng trường. Một bộ phận tự vệ đột nhập chùa Quán Sứ, đốt cháy 1 xe tăng địch. Ở nhiều nơi khác trong thành phố, súng nổ suốt đêm. Ở một số vị trí, lửa bốc cháy nghi ngút. Lợi dụng lúc đó, các đơn vị thuộc tiểu đoàn 101 từ các hướng lặng lẽ bí mật rút vào Liên khu I. Tiểu đoàn 77 về khu vực ô Cầu Diễn. Tiểu đoàn 523 về khu vực Ô Chợ Dừa. Tiểu đoàn 145 về Kim Mã, Yên Phụ. Tiểu đoàn 212 làm đội dự bị của mặt trận đóng ở khu vực trại Hàn Lân, Quỳnh Mai. Tiểu đoàn 56 (thiếu 1 đại đội) theo lệnh mới về bố trí tại Việt Nam học xá, sau chuyển sang ô Đống Mác, Thanh Nhàn.

               Khi về các làng mạc ngoại thành để bám sát các cửa ô Hà Nội, tới đâu các chiến sĩ ta cũng thấy không khí kháng chiến bừng bừng sồi sục, tới đâu nhân dân cũng tổ chức đến thăm hỏi sức khỏe và chúc mừng quân ta chiến thắng. Các chiến sĩ rất tự hào sung sướng vì họ đã cùng nhân dân Hà Nội chiến đấu quyết liệt làm cho kẻ địch phải dè chừng, hoảng sợ. Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ (D’Argenlieu) - tên cáo già thực dân - là một trong những tên đầu sỏ chủ mưu gây ra cuộc chiến tranh xâm lược nước ta đã bị chính phủ Pháp gọi về nước. Trước khi rời Sài Gòn, y đã phải thốt lên: "Tôi rất buồn vì những sự đã xảy ra ở Hà Nội và rất lấy làm tiếc không có mặt tại Đông Dương nữa(!). Tình hình tuy nghiêm trọng thật nhưng không đến nỗi tuyệt vọng(!)"1 (Lời tuyên bố của Đácgiăngliơ tại Sài Gòn sáng 23 tháng 12 năm 1946).

          Từ ngày 20 đến 23 tháng 12, địch tấn công 12 trận nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng ta. Nhưng chúng ta đã chiến đấu quyết liệt bẻ gãy các mũi tấn công của chúng và còn quật trả lại chúng 15 trận tập kích và nhiều trận phục kích, bắn tỉa, quấy rối, làm chết, bị thương và bắt sống gần 200 tên địch, phá hủy 3 xe tăng, 1 xe gíp, 4 ô tô vận tải của chúng. Suốt mấy ngày giặc Pháp không những không tiêu diệt được lực lượng của ta mà còn bị tiêu hao sinh lực, loay hoay lúng túng trong nội thành. Quân ta giành chủ động chuyển sang giai đoạn chiến đấu giam chân địch.

          Đó là những thắng lợi bước đầu nhưng rất lớn lao. Nó càng chứng tỏ sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch là vô cùng sáng suốt. Các lực lượng vũ trang, Vệ Quốc Đoàn, tự vệ, công an đã đoàn kết nhất trí dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận. Tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đã khắc phục phần lớn nhược điểm của ta về trang bị và kỹ thuật. Tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ trai gái đều lao vào cuộc chiến đấu "sinh tử" quyết bảo vệ thủ đô, bảo vệ Tổ quốc. Ngoài 2.000 Vệ Quốc quân, 8.000 dân quân tự vệ đang trực tiếp chiến đấu với giặc Pháp ở Hà Nội còn hàng chục vạn nhân dân xung quanh thủ đô Hà Nội sẵn sàng tiến ra mặt trận chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Các đơn vị Vệ Quốc Đoàn ngày một đông. Đại đội, trung đội cũng có quyển nhận nam nữ thanh niên, thiếu niên nhập ngũ. Ngoài lực lượng bảo vệ địa phương, nhân dân huyện Thanh Trì còn tự động tổ chức được thêm một tiểu đoàn dân quân tự vệ sẵn sàng ra đi bổ sung cho mặt trận. Khu Tả Thanh Oai trong ba ngày tổ chức được một đại đội tự vệ chiến đấu tự trang bị súng máy, súng bắn chim, dao găm mã tấu sẵn sàng tiến về Hà Nội. Riêng ngày 20 và 21 tháng 12, nhân dân vùng này đã tự động góp được 150 tấn thóc, ủng hộ bộ đội. Nhân dân các vùng xung quanh Hà Nội tự động đào hàng chục cây số giao thông hào, hàng ngàn hố chiến đấu giúp đỡ bộ đội và dân quân tự vệ. Bà con Hà Nội tản cư về Cự Đà, Phúc Thủy, làng Tó v.v... cũng nô nức cùng bà con nông dân địa phương giúp đỡ đại đội đồng chí Vũ Công Định đào trận địa phòng ngự. Các vùng xung quanh Hà Nội nơi nào giặc có thể đến, ta đều thực hiện "tiêu thổ kháng chiến". Quân giặc có chân, có phương tiện cơ giới, nhưng không có đường đi. Tới chiếm đóng, giặc không cướp được lương thực, không có nhà ở. Nhân dân thực hiện khẩu hiệu "Vườn không, nhà trống". Xung quanh Hà Nội, nhiều nhà gạch, nhà ngói kiên cố, đẹp mắt, đã được tự tay chủ nhân và nhân dân đập phá thiêu hủy thành đống gạch vụn. Hai khu nhà rượu và trường học Văn Điển thật to lớn, nhưng chỉ trong hai ngày, nhân dân đã san thành đất bằng. Khi tản cư đi, nhân dân cất giấu hoặc mang theo thóc lúa, lợn gà và tất cả những thứ gì có thể ăn được. Nếu không đem đi được thì phá hủy, có nơi đồng bào đã đổ lòng lợn, ruột bò, phân rác bẩn thỉu cho ngập giếng nước ăn, đã chặt trụi các cây cỏ hoa quả. Nếu giặc Pháp kéo tới thì đó chỉ là những khu đất hoang tàn, gạch ngói đổ vỡ. Các trục đường xung quanh Hà Nội, nhân dân cùng bộ đội ngày đêm nhộn nhịp phá cầu, xẻ đường, đắp ụ.

          Cầu Tó, Cầu Đơ (Hà Đông) sau một đêm phá hủy đã hoàn toàn gãy gục. Nhân dân địa phương còn rải hàng cây số rơm rạ trên mặt đường để ngăn cản bước tiến của cơ giới địch. Mấy chục cây số, dọc hai bờ đê sông Hồng, cứ trên dưới 20 mét lại có rơm, rạ hoặc cây ngô khô chất thành đống gần kín mặt đường, cao to, gấp hai, gấp ba chiếc ô tô vận tải. Nhân dân phá hủy hầu hết đường xe hỏa từ Hà Nội đi các nơi, lật những thanh đường ray, thanh "tà vẹt" cắm chi chít ngăn kín từng đoạn đường hiểm, kết hợp với ụ đất, hoặc hào sâu đào cắt ngang mặt đường để ngăn chặn cơ giới của giặc. Trong ba ngày, những đường giao thông lớn đều bị đào nham nhở, ngổn ngang và phần còn lại chỉ là những con đường mòn khúc khuỷu, vòng vèo bề ngang chỉ vừa đủ cho người đi bộ lách qua những ụ đất và những chướng ngại vật khác.

          Các tỉnh xung quanh Hà Nội đều sục sôi căm hờn và tất cả mọi việc chuẩn bị đều hướng về chi viện cho Hà Nội, phối hợp với quân dân Hà Nội. Có hai em bé quê hương cách xa Hà Nội gần 30 cây số. Một em lên là Dân 12 tuổi, một em tên là Thanh 13 tuổi. Tiếng súng kháng chiến vừa bùng nổ, hai em gặp nhau bàn bạc: "Giặc Pháp nó lại cướp nước mình lần nữa. Ở Hà Nội đánh nhau to lắm. Chúng mình cứ ngồi yên ở đây ư?". Sau đó, hai em viết thư để lại cho cha mẹ rồi trốn nhà ra đi. Lá thư ấy đã được anh Tuyên, hồi đó phụ trách tuyên truyền xã, phát thanh khắp quê hương hai em cho mọi người cùng nghe. Trong thư có đoạn viết: "Thưa cha mẹ! chúng con biết rằng chúng con còn bé lắm, chúng con đi ra trận, cha mẹ nhớ thương chúng con lắm. Nhưng chúng con không thể ở nhà được. Giặc Pháp lại cướp nước ta rồi! Chúng con sẽ ra mặt trận đánh nhau với bọn Pháp. Thà chết còn hơn chịu làm nô lệ!".

          Chập tối, hai em lặng lẽ sang đò sông Hồng, băng qua đồng ruộng, tha ma, gò đồng tìm đường tắt về Hà Nội. Trong người hai em không có một tấc sắt làm vũ khí mà chỉ có một chiếc bánh chưng để ăn bữa tối. Hai em đi suốt đêm, mờ sáng tới Hà Đông, rồi ra Hà Nội. Tới một đơn vị tự vệ, các em xin nhập ngũ. Một anh tự vệ nói vui:

- Em bé thế này thì làm được việc gì?

Một em đỏ mặt trả lời rắn rỏi:

- Các anh lớn, làm việc lớn. Chúng em bé, làm việc bé. Các anh cứ nhận chúng em vào đơn vị, xem chúng em có làm được việc gì không.

          Lúc ấy, các chị cũng nô nức xin vào bộ đội, cũng với "lý lẽ" tương tự như thế. Quân số các đơn vị mỗi ngày một đông, có tiểu đội tới 16 hoặc 20 người. Nhưng cũng không phải lo lắng gì đến ăn uống. Hàng ngày các chị ở các đội tiếp tế, đội hỏa đầu quân và bà con dân làng phục vụ các đơn vị cứ áng chừng đầu người mà nấu cơm. Ví dụ khoảng 100 người thì cứ nấu thành một trăm mốt, trăm hai do dư dật. Gạo, thịt, rau... đều do đồng bào làng này, xóm khác kĩu kịt gánh đến. Có gia đình thấy bộ đội về làng lập tức làm thịt ngay một con lợn khênh đến làm "tặng phẩm". Trên đường làng, người đi lại, vận chuyển rầm rập suốt đêm ngày. Anh em thương binh từ Hà Nội được chuyển về chữa chạy tại nhà thươna, Văn Điển, Thanh Liệt... Hàng ngày từng đoàn phụ lão, phụ nữ đem quà đến tận nơi thăm hỏi. Có nhiều cụ xin được đem thương binh về nhà nuôi. Tại các nhà thương, trạm xá, việc cung cấp lương thực, phục vụ nấu nướng ăn uống đều do nhân dân địa phương đảm nhiệm. Trong những ngày đó, tù hàng binh Pháp được đưa về tạm trú ở đình làng Đại Từ, Thanh Liệt. Nhân dân căm phẫn đổ xô vào, định đánh bọn chúng cho hả giận. Bộ đội phải can ngăn, giải thích mãi đồng bào mới chịu. Có cụ nói: "80 năm mất nước, làm thân trâu ngựa nay được Đảng và Hồ Chủ tịch lãnh đạo nhân dân đứng lên chặt xích, phá xiềng, phá kho chia thóc chia gạo cho đồng bào, chống bắt phu bắt lính, chống sưu cao thuế nặng, mất bao nhiêu xương máu, mới giành lại được chính quyền... thế mà giặc Pháp lại định cướp nước ta một lần nữa. Ai mà chịu được!". Đó cũng là lời nói của hàng triệu quần chúng cần lao thiết tha với Đảng, với chính quyền cách mạng, kiên quyết đứng lên đánh giặc cứu nước. Nhân dân ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh bất khuất. Truyền thống đó đã ngày một bền vững qua mấy ngàn năm lịch sử. Từ khi được Đảng và Hồ Chủ tịch dẫn đường, truyền thống quý báu ấy đã được phát huy tới mức độ chưa từng có, đã biến thành sức mạnh vĩ đại để có thể với hai bàn tay trắng làm nên sự nghiệp phi thường. Với truyền thống đó, với sức mạnh đó, nhân dân ta, triệu người như một, đã anh dũng đứng lên kháng chiến quyết giành thắng lợi cuối cùng khi kẻ thù quay lại xâm lược nước ta, định đè đầu cưỡi cổ dân ta lần nữa. Đảng và Hồ Chủ tịch đã đoàn kết được toàn dân, tranh thủ được sự ủng hộ và dư luận của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, cô lập kẻ thù cao độ. Mặc dầu về lực lượng quân đội, về trang bị vũ khí và trình độ kỹ thuật chiến thuật của quân đội ta còn yếu, nhưng bất cứ một ai đã tham gia kháng chiến, từ già đến trẻ đều sẵn sàng hy sinh tất cả cho thắng lợi của Tổ quốc và đều tin tưởng mãnh liệt rằng: "Kháng chiến nhất định thắng lợi!".

... VÀ ĐI ĐẾN SA LẦY

         Từ sáng sớm ngày 24 tháng 12, từng tốp máy bay khu trục của giặc Pháp bay lượn lồng lộn khắp bầu trời ngoại thành Hà Nội, xả từng tràng liên thanh, trút hàng loạt bom xuống các làng mạc. Tiếng nổ rung đất. Khói lửa ngút trời. Chúng muốn phá hủy các kho tàng căn cứ hậu phương của mặt trận và uy hiếp tinh thần nhân dân ta. Pháo binh, súng cối của giặc bắn rải rác về hướng Bạch Mai, Ngã Tư Sở. Nhưng sớm hôm đó, bầu trời Hà Nội vẫn trong sáng. Nắng vàng óng ả trên đường nhựa, lấp lánh hai bên đường phố. Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận trực tiếp tới các đơn vị cơ sở nắm tình hình, động viên bộ đội và nhân dân. Đồng chí Võ Nguyên Giáp tới thăm một số đơn vị ở phía Ngã Tư Sở và Ô Chợ Dừa. Vừa tới Ngã Tư Sở thì 2 máy bay phóng pháo của địch bay đến, đồng chí chỉ vào một hố chiến đấu ở gần đó và nói: "Đồng chí Vũ! Ta nấp vào đây một tí xem chúng nó làm gì nào". Máy bay của địch sà xuống thấp. Tiếng rú, tiếng nổ inh tai. Tiếp theo là hàng tràng đạn súng máy cày bụi mặt đường. Hai chiếc máy bay bắn thêm vài loạt nữa rồi tếch đi hướng khác. Trên đường đi Ô Chợ Dừa, thỉnh thoảng có những viên đạn pháo lạc lõng của giặc Pháp, khi thì nổ trên mặt đường, khi thì nổ dưới ruộng rau muống.

         Ngay buổi chiều hôm đó, tại Vạn Phúc, Hà Đông, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội trực tiếp nhận chỉ thị mới của Bộ Tổng chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp phân tích sâu sắc tình hình địch và dự kiến những điều có thể sẽ xảy ra. Do đó, Bộ Tổng chỉ huy quyết định sáp nhập khu XI với khu II1 (Khu II gồm 8 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Sau khi sáp nhập với khu XI thì khu II thêm thành phố Hà Nội và quy định Sơn Tây - Hà Đông, Hà Nội là khu vực tiền phương của khu II mới), lấy tên chung là khu II. Và quyết định thành lập Bộ chỉ huy tiền phương, đồng chí Vương Thừa Vũ làm khu phó khu II, đồng thời trực tiếp chỉ huy khu vực tiền phương gồm: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây. Đồng chí Trần Độ làm chính trị ủy viên phó khu II và tăng cường thêm đồng chí Đỗ Đức Kiên làm chính trị ủy viên tiền phương.

Sau đó, đồng chí Hoàng Văn Thái với thái độ niềm nở, nói:

         - Tổ chức mới như vậy thì các đồng chí Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội thấy thế nào?

Bộ chỉ huy mặt trận đều nhất trí tán thành. Đồng chí Nguyễn Văn Trân cũng hoàn toàn đồng ý. Đồng chí Trần Độ nói vui:

         - Phấn khởi quá! Tôi xin giơ cả hai tay.

         Sở dĩ cả ba người đều nhanh chóng nhất trí, vì tổ chức như vậy thì địa bàn hoạt động sẽ có nhiều hơn. Và chính vì có những nhận định tình hình chính xác, những quyết định kịp thời của Bộ Tổng chỉ huy, phù hợp với tình hình phát triển, quân dân thủ đô Hà Nội càng tăng thêm quyết tâm chiến đấu, càng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.

         Từ khi mặt trận Hà Nội đã bố trí hình thành thuật "trùng độc chiến", quân địch càng lâm vào thế bị động lúng túng. Chúng tập trung lực lượng đánh ra các cửa ô thì bị quân ta ở Liên khu I đánh thúc sau lưng. Chúng quay vào đánh Liên khu I thì bị lực lượng của ta ở các cửa ô đánh kẹp lại. Nếu địch vừa đánh trở vào, vừa đánh trở ra thì lực lượng phân tán mỏng yếu. Giặc Pháp hy vọng trong chớp nhoáng tiêu diệt xong lực lượng của ta, nếu không cũng đánh bật được hết quân ta ra khỏi Hà Nội. Nhưng, mộng ấy đã hoàn toàn bị tan vỡ. Tinh thần chiến đấu dũng cảm với chiến thuật độc đáo đầy sáng tạo của quân đội cách mạng, của đường lối chiến tranh nhân dân đã chiến thắng những bộ óc ỷ lại vào sức mạnh vũ khí của Bộ tham mưu quân đội xâm lược Pháp. Ở Hà Nội, quân ta lại được bổ sung thêm lực lượng, như vậy khả năng giam chân địch có thể kéo dài thêm nữa. Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị tăng cường củng cố hầm hố, chướng ngại vật, tổ chức lực lượng tiếp tục tập kích, phục kích, quấy rối tiêu hao địch, làm cho chúng đứng ngồi không yên. Bộ chỉ huy còn ra lệnh cho đại đội 134 thuộc tiểu đoàn 56 bí mật lọt vào hoạt động du kích ở khu vực phố Mai Hắc Đế, Triệu Việt Vương và dọc đường phố Huế tới phía nam hồ Hoàn Kiếm. Tiểu đoàn 145 cho một bộ phận nhỏ phân tán vào hoạt động du kích ở khu vực phố Chùa Một Cột và phía Tây thành Hà Nội.

         Đúng như ta dự đoán, 5 giờ sáng ngày 24 tháng 12, bộ binh cơ giới địch từ trong thành tấn công vào Liên khu I. Quân ta chặn địch từng bước, suốt 5 tiếng đồng hồ, địch mới tiến được vài trăm thước đến phố Hàng Hòm, chiếm được nhà Adia (Asia) đầu phố Phủ Doãn. Sáu giờ chiều, địch cho một bộ phận từ nhà Gianđa1 (Nay là số 66 phố Nguyền Thái Học) tấn công thúc ra ngoài Liên khu III. Tiểu đội tuyên truyền cùng tự vệ phố Hàng Bột đã anh dũng chặn địch. Bốn chiến sĩ bố trí ở một nhà gác hai tầng chiến đấu cho đến khi cả 4 người cùng bị trọng thương. Có người bị thương hai ba lần nhưng vẫn không rời trận địa. Họ chiến đấu đến viên đạn và quả lựu đạn cuối cùng rồi khoác chặt tay nhau hát vang bài "Tiến quân ca" cho đến khi nhắm mắt. Một tiểu đội khác đã chiến đấu đến khi chỉ còn 2 người, nhưng quân địch vẫn không thể nào tiến được và phải rút lui về vị trí cũ. Nhằm lúc địch đối phó lúng túng, đại đội 134 bắt đầu làm nhiệm vụ vào hoạt động sau lưng địch. Tử chiến, các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn cùng tự vệ Hà Nội đã chuẩn bị xong mọi việc. Chú bé liên lạc đeo lủng lẳng bên hông những chiếc pháo hiệu làm bằng thuốc đen nhồi trong ống nửa tép dài hơn hai gang tay, bên ngoài có quấn giấy đỏ, giấy vàng. Tám giờ tối, đại đội 134 vượt qua nghĩa địa phía bắc Đông Dương học xá, tiến vào chùa Liên rồi chia làm hai toán. Một trung đội đánh vào nhà Diêm. Hai trung đội đánh vào nhà quét vôi đỏ ở ngã tư ô Cầu Dền do đại đội trưởng Vũ Công Định trực tiếp chỉ huy. Các đơn vị len lỏi tiến sát vị trí địch, sẵn sàng chờ lệnh. Nhưng đến giờ phát hỏa, đại đội trưởng ra lệnh thì chú liên lạc đã đánh rơi mất pháo hiệu. Trong đêm tối các chiến sĩ bố trí rải rác khuất sau các góc tường, ngõ hẻm nóng lòng chờ pháo hiệu. Các chiến sĩ, chạy đi chạy lại. Phương tiện chỉ huy khác không có, đại đội trưởng Vũ Công Định đang lúng túng băn khoăn thì quân địch mở máy cơ giới soi đèn pha sáng rực chiếu vào phía bộ đội bố trí. Lập tức các chiến sĩ ta nổ súng bắn vào vị trí địch. Một số chiến sĩ hô xung phong thay cho pháo hiệu. Thấy vậy, xung kích lao lên phá cửa xung phong vào vị trí địch, giết được 11 tên. Bên ta bị thương 3, trong đó có 1 chính trị Liên trung đội.

         Sáng hôm sau, 25 tháng 12, giặc Pháp đem quân xuống đánh trả thù hòng tiêu diệt đại đội 134. Nhưng chúng đã bị tự vệ đường Ngô Đại Hành và Đại Cồ Việt chặn đánh từng bước, bắn tỉa tiêu hao, còn đại đội 134 ngay từ ban đêm đã chuyển sang làng Thanh Nhàn, về phía Đông, cách nơi giặc Pháp tấn công gần một cây số. Đại đội tấp nập chuẩn bị đợi lệnh lần thứ hai xuất phát vào hoạt động sau lưng địch ở các khu vực cũ. Theo hướng dẫn của cấp trên, vào phố, tới đâu thấy có khẩu hiệu: Hồ Chí Minh muôn thuở (tránh nhầm lẫn với khẩu hiệu của nhân dân thường viết: Hồ Chí Minh muôn năm) và trên tường vẽ một khoanh tròn nhỏ, giữa có chữ thập, từ khoanh tròn đó chiếu thẳng xuống đất, lật viên gạch lên sẽ nhận được lá thư mật để bắt liên lạc với tự vệ bí mật ở lại trong lòng địch. Đại đội 134 có nhiệm vụ cùng tự vệ bí mật hoạt động du kích quấy rối sau lưng địch, cố gắng bắt liên lạc với Liên khu I.

          Để thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các liên khu tiếp tục tập kích tiêu bao quấy rối địch. Đêm hôm ấy, bầu trời Hà Nội lại rực lên ánh lửa. Súng nổ giòn giã suốt năm canh. Các toán nhỏ của tiểu đoàn 101 đánh thúc trở ra làm cho quân địch càng thêm nhức nhối, lo âu. Một tiểu đội Vệ Quốc quân cùng anh em tự vệ khu phố chia làm hai toán biệt kích vào nhà Moóclie. Khoảng 11 giờ 30 đêm, bất ngờ tiếng lựu đạn nổ giòn tan, tiếng hét xung phong vang dậy phía bờ hồ Hoàn Kiếm. Quân địch hốt hoảng rút xuống hầm cố thủ. Quân ta hoàn toàn làm chủ mặt đất nhà Moóclie, treo cờ đỏ sao vàng lên, đốt phá kho tàng và xe gíp của địch. Tiếng nổ lốp bốp, lửa cháy sáng rực, đến 6 giờ sáng hôm sau mới tắt. Lúc đó trên đỉnh Tháp Rùa, giữa hồ Hoàn Kiếm cũng có một lá quốc kỳ Việt Nam phấp phới tung bay. Phía cửa Đông, cửa Bắc, cầu Long Biên, tiếng súng của Liên khu I vẫn giòn giã thúc vào sau lưng địch, làm chúng phải bận tâm lo lắng, bối rối. Thuật "trùng độc chiến" lúc đó càng tăng thêm nguy hiểm đối với kẻ địch. Trong khi đó tiểu đoàn 145 phái các tổ nhỏ biệt kích vào các vị trí phía tây và tây bắc Hà Nội. Một tổ "du kích tự động"1 (Tên đặt hồi ấy cho các tổ du kích vào hoạt động sau lưng địch) 12 giờ đêm đột nhập phố Chùa Một Cột phá hủy một xe gíp của địch, nổ súng gây rối loạn các đường phố. Một bộ phận đột nhập tiêu hao địch ở nhà Đúc Tiền. Tiểu đoàn 523 cho một trung đội cùng với tự vệ phố Hàng Bột tập kích nhà Gianđa. Quân ta bí mật lọt vào giữa vị trí, từ trong đánh ra phá hủy 2 xe tăng, giết chết 8 lính Pháp, làm bị thương hơn 20 tên. Địch ở nhà dầu Sen Khâm Thiên cũng bị tự vệ tập kích gây thiệt hại nặng. Các cuộc biệt kích, tập kích từ bên ngoài ép vào, từ trong thúc ra như ngàn vạn con ong vàng nay châm ngòi vào nơi này, mai đốt chỗ khác vào một xác thịt nặng nề, đã làm cho kẻ địch đau đớn, nhức nhối, chúng đã hoang mang càng thêm hoang mang. Tướng tá Pháp ở Hà Nội phải vắt óc suy nghĩ: Đánh trở ra, hay đánh trở vào? Nhưng có lẽ trận tấn công xuống đường Đại Cồ Việt ngày 25 tháng 12 thất bại đã làm cho chúng càng thêm cay cú. Ngày 26 tháng 12, chúng mở một cuộc tấn công khác xuống ô Cầu Dền để lấy lại tinh thần binh lính địch, đồng thời cũng nhằm quét sạch các lực lượng tự vệ bí mật của ta trên đường phố Huế và khu vực nhà Diêm.

          Hôm ấy, đồng chí Trần Độ và đồng chí Nguyễn Văn Trân lên úy lạo các đơn vị chiến đấu ở đây. Đồng chí Trân thay mặt Đảng ủy mặt trận tới từng ụ súng, từng chiến hào... thăm hỏi các chiến sĩ. Đồng chí Trần Độ bất ngờ gặp lại Minh, chiến sĩ phục vụ đồng chí trước kia. Minh reo lên:

- Ô! Cậu ơi! Thế cậu vẫn sống à?

Đồng chí Trần Độ kể lại, lúc đó đồng chí vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, chưa kịp trả lời, Minh đã nói:

- Cậu ạ, bây giờ cậu không phải lo cho cháu nữa, cháu đã đi chiến đấu, đã đích mắt trông thấy Tây chết và cắm đầu chạy khi bị quân ta đánh lại...

          Hai người chưa kịp nói gì thêm thì một đoàn máy bay địch bay tới trút bom xuống đường phố. Minh trở về vị trí chiến đấu. Xe tăng, xe bọc sắt của địch vừa tiến vừa bắn phá, phá hủy ụ đất, bờ tường phía ta bố trí. Tiến gần tới ô Cầu Dền, trước mặt địch, trên đường bày la liệt những nổi đất úp, có "trang điểm" thêm những lớp rơm rạ giải mỏng, rồi đến những ụ đất khổng lồ chắn ngang giữa đường.

          - Mìn! Mìn! - Bọn Pháp kêu to rồi dừng lại. Chúng chúc mũi súng bắn bừa bãi vào nồi đất. Bắn chán không thấy mìn nổ, chúng sai bọn Việt gian, thổ phỉ tiến lên lật nồi đất ra xem, lúc đó các chiến sĩ tự vệ của ta bố trí ở hai bên đường phố và ở các ụ đất trước mặt mới nổ súng tỉa từng tên. Mấy tên giặc chết gục đầu ngay xuống nồi đất. Chúng cho xe tăng tiến lên gầm rú ra oai. Chiến sĩ bắn badôca của ta vẫn yên lặng chờ địch đến gần. Toàn mặt trận chỉ có một khẩu badôca với 5 viên đạn. Trước lúc bắn vì sợ mất súng, chiến sĩ ta buộc dây vào súng dòng về cho một chiến sĩ khác nằm sau người bắn hơn 100 thước, để phòng nếu người bắn bị hy sinh thì người sau kéo dây thừng lấy súng để giặc khỏi cướp mất.

          Xe tăng địch vẫn lùi lũi tiến lên. Lập tức một phát đạn badôca của ta lao tới. Nhưng viên đạn thứ nhất ấy đã lao vút qua xe tăng địch và nổ ở một chỗ khác. Xe tăng địch rú ga định chạy lùi. Bất ngờ viên đạn badôca thứ hai lao ra nổ xé trời, chuyển đất. Giữa đường tóe lên một khối lửa khổng lồ. Chiếc xe tăng thứ nhất của địch bốc cháy. Quân địch lộn xộn, nhớn nhác. Phát đạn badôca thứ ba bắn tiếp theo làm đứt xích một xe bọc sắt nữa. Giặc Pháp xô nhau rút chạy về phía Chùa Vua để lại hơn 10 xác chết. Như vậy, một khẩu badôca với 5 viên đạn đã bắn 3, hạ 1 xe tăng và 1 xe bọc sắt của địch. Đây cũng là những phát đạn badôca đầu tiên của mặt trận Hà Nội.

          Từ đó, giặc Pháp cứ khiếp sợ mãi những nồi đất, ụ đất, tiếng súng bắn tỉa và tiếng nổ rầm trời ở ô Cầu Dền. Hàng tháng sau, quân địch vẫn không dám tiến xuống đó nữa. Mãi đến ngày 15-16 tháng 1 năm 1947, khi địch tấn công xuống Bạch Mai (Ngã tư Trung Hiền), chúng phải tiến vòng đường Vĩnh Tuy và Ngã Tư Vọng đánh quặt vào.

Cũng ngày 26 tháng 12, tại Ngọc Hà, 3 em bé nấp ở hố, không chịu lui. Khi xe thiết giáp của địch chạy qua, 3 em bé đã ném từng chùm lựu đạn, chai cháy đánh hỏng 2 xe thiết giáp của địch. Tại phố Hàng Bột, 2 tên Pháp phóng xe gíp gặp 2 em nhỏ, chúng hãm xe lại, ra hiệu gọi. Biết chúng tưởng lầm mình là tay sai của chúng, 2 em vẫn thản nhiên như thường và tươi cười chạy đến. Chúng chưa kịp hỏi han câu nào, một em đã ném ngay quả lựu đạn trúng giữa xe. Hai tên giặc chết tươi và xe bị hư hỏng. Hai em đoạt súng mang về cho bộ đội. Cũng ngày ấy đã để lại trong lòng mọi người một hình ảnh không bao giờ phai nhạt: "Một em bé bị giặc bắt đêm trước trong khi em bí mật leo lên cắm lá quốc kỳ Việt Nam trên nóc Bắc Bộ phủ. Em bị giặc Pháp xẻo thịt tra hỏi nhưng nhất định không cung khai. Em chết đi khi đang ở tuổi 14. "Những đội viên tuyên truyền xung phong Hà Nội không bao giờ lùi bước. Họ vững lòng tin vào thắng lợi ngày mai. Họ sẽ mãi mãi là thiếu niên Hà Nội anh hùng..."1 (Báo Thủ đô, số 11, ngày 14-1-1947).

Đêm hôm ấy, quân ta lại tập kích, biệt kích vào các vị trí địch ở Phà Đen, Bách Thảo và phố Mai Hắc Đế,v.v...

          Ở phía nam Hà Nội, đại đội 134 được lệnh bắt đầu xuất phát vào hoạt động sau lưng địch... Chập tối, các chiến sĩ vượt qua đê Bình Lao, đi thấp thoáng qua bãi tha ma, tiến sang phố Huế, phố Lê Bình. Do ham tiêu diệt sinh lực địch, đại đội lại phái một trung đội biệt kích vào trường học Duy Tân2 (Khu vực số nhà 364, phố Huế) định cướp súng máy của địch. Bị lộ, trận biệt kích của ta không kết quả. Súng máy, súng cối và pháo binh của địch bắn từng loạt vào bãi tha ma, đường phố Huế, phố Lê Bình. Đêm tối nhập nhoạng, các chiến sĩ phải len lỏi qua các ngõ hẻm đi theo đường đục từ nhà nọ sang nhà kia. Mặc dầu có nhiều chiến sĩ là người Hà Nội nhưng họ đã bị lạc quanh co ở phố Lê Bình, tìm bắt liên lạc với tự vệ bí mật, đến gần sáng vẫn không gặp. Đại đội bắt đầu bố trí phân tán thành từng tổ vào các nhà gác, một mặt chuẩn bị đề phòng địch bao vây tấn công, mặt khác chuẩn bị kế hoạch hoạt động du kích trong mấy ngày tới. Suốt đêm, súng cối của địch vẫn bắn rải rác vào các phố Lê Bình, Minh Khai. "Có lẽ đã bị lộ", mọi người đều nghĩ vậy và chuẩn bị đối phó một trận tấn công lớn của địch vào sáng hôm sau. Nhưng, sự thật thì giặc Pháp vẫn chưa gỡ khỏi nước cờ bí: "Đánh trở vào, hay đánh trở ra?". Trước mặt, sau lưng đều bị tấn công, quấy rối như kim châm, kiến đốt. Nay có một lực lượng tiếp tục tiến sâu vào nội thành hoạt động du kích như vậy không khác gì để đàn ong vàng bay đuổi theo khắp chốn, khắp nơi bất ngờ châm đốt lúc nào không biết. Giặc Pháp quyết định tung lực lượng đánh thúc ra ngoài, hòng tiêu diệt hoặc xua đuổi đại đội 134. Nhưng vẫn chưa yên tâm, giặc Pháp lại mở một cuộc tấn công vào Liên khu I để sau lưng được an toàn. Như vậy rõ ràng chúng vẫn bị phân tán lực lượng. Cánh quân của địch tấn công vào Liên khu I phải dừng lại phía bắc bờ hồ Hoàn Kiếm, 2 ô tô vận tải bị phá hủy, 1 xe tăng bị đánh hỏng, hơn 50 tên địch bỏ xác tại trận. Cuối cùng chúng phải rút lui, và từ đó giặc Pháp bắt đầu khiếp sợ chiến lũy phía nam Liên khu I, không khác gì chúng khiếp sợ nồi đất, ụ đất ở ô Cầu Đền. Giặc Pháp còn hy vọng vào cánh quân đánh thúc ra ngoài. Từ 6 giờ sáng, máy bay thám thính của địch đã bay lượn trên các phố Lê Bình, Minh Khai. Tiếp đó, 2 máy bay khu trục đến bắn phá từng mục tiêu chúng khả nghi. Khói lửa bốc lên ngùn ngụt tràn ngập phố Lê Bình. Xe tăng, xe bọc sắt của địch bố trí chẹn các đường phố, đồng thời bắn phá yểm hộ cho bộ binh đi sục sạo từng cãn nhà. Bầy chó "béc-giê" xông xáo đánh hơi mọi ngõ ngách, xó xỉnh. Đợi địch tiến sát cửa, các chiến sĩ ném ra hàng loạt lựu đạn hất bọn chúng bật lùi trở lại. Hai anh Nguyễn Đình Nhôi và Dục đã luồn về sau, xông ra phá hủy 1 xe tăng của chúng. Giặc Pháp tăng thêm quân tấn công từ nhiều hướng tới khép chặt vòng vây hơn nữa. Đến 12 giờ trưa, địch đánh chiếm được tầng dưới và một số nhà thấp xung quanh bao vây trung đội do đồng chí Nhâm chỉ huy. Hơn 20 tên lính lê dương xung phong vào sân, bếp, nhà dưới. Một tên lê dương mặt đầy râu, kẹp khẩu tôm sơn, tiến lên cầu thang gác. Đồng chí Nhâm ném xuống một quả lựu đạn, nhưng không nổ. Tiểu đội trưởng H. đã nhanh tay ném tiếp một quả "bảo toàn"1 (Đầu đạn pháo 57 ly, bộ đội ta lấy được của địch đem về làm thêm mỗi quả một cái cán tre dài chừng 2 mét làm tay cầm để lao, phóng cho dễ) xuống nền nhà dưới. Một tiếng nổ dậy đất. Quân địch chết ngổn ngang. Ở những ổ đề kháng bên cạnh, các chiến sĩ cũng dùng quả "bảo toàn" phóng xuống đánh lui các đợt xung phong của địch. Một toán lính lê dương khác mon men đến gần cửa, định phun étxăng đốt nhà, lập tức một quả "bảo toàn" nữa lại được ném xuống, nổ như sét đánh. Mấy tên giặc tan thây. Chúng dùng xe tăng húc đổ tường nhà nhỏ phía sau, định bất ngờ thúc vào sườn quân ta. Từ trên tầng gác, từng chùm lựu đạn, chai cháy rơi xuống. Chiếc xe tăng phải lui ra xa. Giặc Pháp giở trò dã man quỷ quyệt hơn, chúng chiếm gác hai của một nhà đối diện, phun étxăng cơrếp qua cửa sổ vào tầng gác của quân ta bố trí. Lửa cháy lem lém, khói đen đặc nghịt ùn ùn xông vào nhà. Một mặt do ngạt không chịu nổi, nhưng mặt khác cũng là để bảo toàn lực lượng, các chiến sĩ đã ra phía sau, lợi dụng khói đen mù mịt nhảy qua cửa sổ từ trên nhà gác hai tầng xuống một giàn nho của nhà bên cạnh, thoăn thoắt luồn qua phố Bà Triệu. Đến 2 giờ chiều, quân địch xung phong vào các ổ đề kháng của ta thì ở đó không có một bóng dáng chiến sĩ nào nữa. Quân giặc bực tức, đập phá lung tung rồi rút lui. Chập tối, đại đội 134 luồn trở lại phố Lê Bình. Ngay trong đêm, đại đội cử một trung đội tập kích quân địch đóng ở trường học Duy Tân (phố Huế), đốt cháy 1 xe gíp, phá hủy kho tàng của địch, gây nhiều tiếng nổ và đám cháy trong thành phố. Quân địch vô cùng bực tức nhưng đành chịu.

          Để hỗ trợ cho toán quân chiến đấu với ta ở phố Lê Bình, giặc Pháp cho hơn trăm bộ binh, có 3 xe bọc sắt yểm hộ, từ Đồn Thủy theo đường bờ sông tiến đánh xuống Vĩnh Tuy. Cũng như lần trước, quân ta xuất kích đánh ngang sườn giặc Pháp, xung phong đuổi địch về Đồn Thủy, tiêu diệt một số bộ binh, bắt sống 3 tên thổ phỉ, Việt gian.

         Thật là kỳ diệu, quân và dân Hà Nội đã dồn giặc Pháp vào thế lúng túng, sa lầy và phân tán lực lượng chúng: đánh vào Liên khu I, bị Liên khu I chặn đứng ở phía bắc hồ Hoàn Kiếm; đánh ra Liên khu II, bị Liên khu II giáng cho những đòn chí tử ở ô Cầu Dền, phố Lê Bình và Vĩnh Tuy... Những tấm gương anh hùng của các chiến sĩ Vệ Quốc quân, tự vệ và phụ nữ, thiếu niên... đã làm cho kẻ địch khiếp sợ, chùn bước. Ngày 28 và 29 tháng 12, giặc Pháp hoàn toàn khống có một đợt tấn công nào.

Để tiếp tục giáo dục bộ đội và nhân dân, báo "Tin tức"1 (Cơ quan tuyên truyền kháng chiến của Ủy ban kháng chiến Liên khu II, Hoàng Diệu) đã đăng bài xã luận:

"Phải kháng chiến ở ngay sau lưng địch.

Với chiến thuật du kích, chúng ta thanh đông kích tây, nhằm đúng chỗ tim óc quân địch mà bất thình lình đánh những đòn chí tử làm cho quân địch không biết chỗ nào mà phòng. Chúng ta không cần nhiều người, chỉ cần những tiểu tổ du kích cảm tử. Ban đêm luôn luôn hoạt động để quấy rối địch, ban ngày có thể lén lút ở những nơi hầm bí mật, ở góc máng, hay ở trên mái nhà.. ."2 (Báo "Tin tức" số 5, ra ngày thứ bảy 28-12-1946).

Báo "Thủ đô", báo "Tin tức"... còn đăng những bài: "Kinh nghiệm tránh đạn, kinh nghiệm phòng thủ máy bay oanh tạc, kinh nghiệm đánh chiến xa" v.v... Hàng ngày, báo chí được đưa tới tận tay chiến sĩ đang bố trí chiến đấu ở các bờ tường, ụ súng, chiến hào. Có chiến sĩ làm thơ ngay tại trận tuyến gửi lên cho báo "77/7 tức" nói lên ý chí sắt đá của mình:

"Ầm súng nổ

Âm vang nổ! Bốn phương trời máu sắt!

Trai thủ đô, vùng dậy tới sa trường.

...

...

Ầm súng nổ! Giục hy sinh chiến đấu

Đây hiện thân của trai trẻ thời Trần,

Vung cánh tay "Sát Thát" giữ giang sơn,

Thề quét sạch quân thù ra khỏi cõi.

...

Đây dân tộc Việt Nam bừng quật khởi.

...

Khiến quân thù đến táng đởm, vong thân,

Ôi chiến sĩ - đây linh hồn đất nước.

Quyết kháng chiến

(Viết trong tiếng súng nổ)1

(Báo "Tin lúc" số 5, ra ngày thứ bảy 28-12-1946)

          Đêm 28 tháng 12, đồng chí An Giao, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 523 trực tiếp chỉ huy một bộ phận Vệ Quốc Đoàn cùng công nhân xe lửa tập kích nhà dầu Sen Khâm Thiên lần thứ 3. Quân ta hì hục đẩy một khẩu pháo 75 ly vào gần sát vị trí địch, bất ngờ phát hỏa. Vọng gác của địch sụp đổ. Vệ Quốc quân và công nhân vun vút lao vào vị trí giặc. Đồng chí Quảng, công nhân xe lửa chiếm được chiếc xe ô tô mang đại liên ở sân nhà dầu, dùng ngay súng lắp trên xe, bắn yểm hộ cho quân ta xung phong. Bọn giặc ở đây hoảng hốt, lên xe rút chạy về phía nhà ga. Cùng lúc đó, các tốp khác của ta cũng xung phong vào nhà Ngựa trắng2 (Số 213 đến 215 đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn)) và hiệu chè Phú Xuân3 (Số 205 đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn)) đánh giáp lá cà với quân địch. Bọn giặc ở ga Hàng Cỏ cho bộ binh và cơ giới hối hả xuống tiếp viện. Chúng vừa tiến vừa bắn đạn lửa bay chằng chịt trên đầu bộ đội ta. Hai công nhân vẫn tìm cách tháo khẩu súng máy trên chiếc xe vừa chiếm được. Đồng chí Quảng núp vào xe, khi dùng súng, khi dùng lựu đạn của địch đánh lui quân địch phản kích. Đồng chí Triệu hì hục tháo khẩu súng máy trên xe bọc sắt. Trên xe còn một hòm lựu đạn ta chưa chuyển đi kịp bị đạn lửa của địch bắn trúng. Lựu đạn nổ tung. Một công nhân hy sinh, một bị thương. Trận này, quân địch vừa chết vừa bị thương gần 20 tên. Một xe bọc sắt

          Phối hợp với các trận chiến đấu từ bên ngoài đánh vào, trong Liên khu I, tự vệ phố Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật luôn luôn đánh phục kích xe vận tải của địch từ nhà Bác Cổ1 (Nay là Viện bảo tàng lịch sử) chạy lên cầu Long Biên.

          Giữa trưa ngày 29 tháng 12, một xe gíp chở 4 tên Pháp đi qua phố Hàng Da. Đột nhiên có tiếng súng từ trong rạp chiếu bóng Olanhpia2 (Nay là rạp hát Hồng Hà) bắn ra. Tên cầm lái bị trúng đạn. Xe đâm nhào vào vỉa hè. Mấy tên giặc còn lại ngã văng xuống đường. Các chiến sĩ du kích của Liên khu I xuất hiện, nhảy lao ra bắt sống địch. Bọn giặc vùng dậy chui ngay vào nhà thờ đạo Tin lành ở cạnh đấy, trốn thoát. Các chiến sĩ du kích ném lựu đạn phá hủy xe gíp rồi rút lui.

          Cũng trong thời gian này, các chiến sĩ ở Liên khu I đã cùng đội du kích Hồng Hà3 (Du kích Hồng Hà gồm tự vệ các làng Tân Lập, Nghĩa An, Nghĩa Dũng và Phúc Xá) tìm đường bí mật qua cầu Long Biên hướng dẫn số nhân dân còn lại ở trong thành phố tiếp tục tản cư. Để bảo đảm an toàn cho nhân dân, ngay từ khi giặc Pháp bộc lộ rõ rệt triệu chứng xâm lược Thủ đô, cho đến suốt quá trình chiến đấu, Đảng ủy mặt trận đã luôn luôn lo lắng chuẩn bị kế hoạch, bố trí, tổ chức tìm mọi biện pháp đưa đồng bào ra khỏi trung tâm Hà Nội. Đêm đầu tiên, khi tiếng súng xâm lược của giặc Pháp vừa nổ thì các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn, tự vệ cùng cơ quan chính quyền các khu phố đã tổ chức hướng dẫn hàng nghìn đồng bào vượt qua lửa đạn để tản cư. Sau vì địch kiểm soát chặt chẽ đường Yên Phụ và gầm cầu Long Biên, một đơn vị Vệ Quốc Đoàn phải quấy rối để cho địch bắn về hướng mình bố trí. Lợi dụng lúc đó, du kích dẫn đồng bào đi luồn dưới gầm cầu, men theo bờ sông đi ra ngoài thành phố. Sau này thường thường mỗi đêm chỉ đưa ra được một, hai trăm người. Đêm nào cũng có người chết hoặc bị thương. Nhiều lần địch chiếu đèn pha, bắn rải rác suốt đêm, đồng bào phải quay lại. Nhưng dần dần, hàng vạn đồng bào đã vượt qua được vòng vây của giặc. Một thành phố trên 30 vạn dân, trong hoàn cảnh chiến sự nổ ra bất ngờ - giặc Pháp đánh úp Thủ đô của chúng ta, - hàng chục vạn đồng bào đã được đưa ra khỏi thảm họa bị quân cướp nước tàn sát dã man. Trong lòng Hà Nội chỉ còn chưa đầy 4 vạn người, mà hầu hết là những người đã tìm mọi cách trốn ở lại để được trực tiếp đánh giặc cứu nước, bảo vệ Thủ đô. Ngoài ra còn có đa số Hoa kiều và các ngoại kiều khác chuyên nghề buôn bán không thể dễ dàng tản cư về nông thôn, lên rừng núi như nhân dân ta được. Như vậy công tác lãnh đạo nhân dân tản cư, sơ tán của Đảng ủy Hà Nội dưới sự giúp đỡ, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương là một thắng lợi lớn trong thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại của chúng ta. Đó cũng là để bảo vệ nguồn tiềm lực to lớn của cuộc kháng chiến lâu dài. Đảng ủy mặt trận lãnh đạo các Liên khu II, III và các xã ngoại thành Hà Nội huy động nhân lực, vật lực tiếp tế cho tiền tuyến. Hàng ngày từng đoàn xe bò, xe đạp, gồng gánh vận chuyển lương thực, thực phẩm vào các kho, các trạm ở xung quanh Hà Nội, chủ yếu là hướng Hà Đông. Từ việc lớn đến việc nhỏ Đảng ủy đều trực tiếp lo lắng, mỗi người một việc, lăn lộn ngày đêm: Một hôm, đồng chí Nguyễn Văn Trân tới động viên và tổ chức quần chúng ở vùng Thanh Nhàn, Lương Yên, sau đó lên tiền tuyến thăm bộ đội, tới đê Bình Lao, giặc Pháp bố trí ở nhà gác hai tầng gần đó trông thấy. Chúng bắn súng máy cày bụi mù mặt đê. Lúc ấy một tốp các thiếu nữ đem cơm, nước, quà bánh tiếp tế lên tiền tuyến cũng vừa tới. Các cô đầu búi tó, nai nịt gọn gàng, lần bò qua mặt đê thoăn thoắt. Hình ảnh đó đã làm cho đồng chí vô cùng xúc động và càng tăng thêm tin tưởng vào cuộc chiến đấu tự vệ của quân dân Hà Nội. Niềm tin tưởng ấy ngày một tăng lên khi có nhiều thực tế chứng minh: mọi chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy đưa tới cơ sở đều được quần chúng khắp nơi tích cực thực hiện triệt để và sáng tạo. Chính vì uy tín của Đảng rất sâu sắc trong quần chúng, nên khi có một chỉ thị, mệnh lệnh của trên đưa xuống thì từ tiền tuyến đến hậu phương, từ các tầng lớp nhân dân đến các lực lượng vũ trang Vệ Quốc Đoàn, tự vệ, công an, dân quân du kích, đều nhất nhất chấp hành. Riêng lực lượng vũ trang thì:

   "- Bộ đội có kỷ luật, tinh thần chiến đấu rất cao.

   - Các cấp dưới có tinh thần phục tùng cấp trên.

   - Toàn thể đều cố gắng nhẫn nại"1 (Trích: trang 89, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng).

          Ưu điểm trên phản ánh bản chất của những lực lượng vũ trang cách mạng, có chính đảng vô sản lãnh đạo, đồng thời cũng nói lên uy tín sâu sắc của Đảng trong lực lượng vũ trang.

          Với tinh thần tự giác chấp hành mệnh lệnh, sĩ khí chiến đấu của nhân dân và bộ đội rất cao như thế, nếu chúng ta có vũ khí đầy đủ, hoặc cũng những thứ đó, nhưng bảo đảm chất lượng tốt thì giặc Pháp còn phải chôn xác ở Hà Nội nhiều hơn. Nhưng hồi đó, trong nhiều trận chiến đấu, bom, mìn, lựu đạn không nổ, súng máy tắc hoặc bắn được vài phát đã hết đạn. Có khi quân giặc xung phong tới, chiến sĩ ta vừa đập kíp lựu đạn, lựu đạn nổ trên tay, giặc không chết mà mình hy sinh. Đánh vào vị trí giặc, giặc rút lên gác như ở trường Bưởi và một số nơi khác, ta không có bom mìn để phá đổ nhà, phải tạm rút lui. Xe tăng địch tới, ta lao bom, bom không nổ. Có chiến sĩ xách súng trường đuổi theo xe tăng giặc, loay hoay không có phương tiện gì khác để phá hủy, chiến sĩ phát khóc quay trở về vắt óc suy nghĩ tìm cách diệt xe tăng địch. Họ thề với nhau quyết không để cho những con "hổ đói" ấy thoát chết. Do thiếu thốn vũ khí đạn dược, nên cứ mỗi lần đi tập kích hoặc quấy rối, các đại đội lại phân phát cho các tiểu đội nào pháo ném, pháo bánh và pháo quả để làm tăng thêm tiếng nổ, làm giả ta có nhiều vũ khí. Trước giờ xuất kích, một em liên lạc đến đại đội nhận pháo. Người phát chỉ đưa cho em mấy quả pháo ném. Em phụng phịu hờn dỗi, rồi khóc.

Đồng chí phát pháo nói:

- Em giữ pháo bánh, lỡ trời mưa thì ướt hết cả pháo lẫn diêm hỏng kế hoạch chiến đấu của đại đội.

Em vừa khóc vừa trả lời:

- Em đã chuẩn bị đem theo một cái thùng sắt tây rồi cơ mà. Bỏ pháo vào đây không sợ ướt, lúc đốt lại kêu to.

Để tiêu hao đạn dược của giặc, chiến sĩ lấy pháo buộc ngòi của từng chiếc vào từ đầu đến chân nén hương đem cắm ở một vài nơi xung quanh vị trí giặc. Đốt hương, hương cháy đến đâu, pháo nổ đến đấy. Suốt đêm, giặc bắn ra không biết bao nhiêu là đạn. Suốt 10 ngày chiến đấu, các chiến sĩ vẫn ở liên miên ngoài mặt trận, lúc ngừng nổ súng thì nghỉ ngay tại chiến hào, ụ súng, góc tường, cửa sổ. Thế nhưng mọi người vẫn lạc quan yêu đời. Cách một con đường, bên kia là giặc, bên này là ta, các chiến sĩ vẫn đánh đàn, ca hát. Những bài "Diệt phát xít", "Quốc ca", "Chiến sĩ ca", v.v. được chiến sĩ ưa thích nhất. Lời ca hùng tráng như thúc giục lòng người đi chiến đấu se sẽ ngân trong chiến hào và trên các vị trí tạm ngừng tiếng súng. Các chị cứu thương, tiếp tế cũng ra tận ụ súng, bờ tường hát động viên chiến sĩ. Nhân dân và bộ đội còn viết rất nhiều khẩu hiệu lên tường nhà, ngay tại chiến lũy: "Hà Nội - Thăng Long xưa bất diệt!", "Hà Nội - Mồ chôn giặc Pháp", "Hà Nội - Xtalingơrát". Các chiến sĩ dạy nhau học mấy câu địch vận bằng tiếng Pháp: "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc!", "Chiến đấu cho ai?", "Các bạn hãy đòi hồi hương!..

          Khói lửa kháng chiến đã rèn luyện quân và dân ta ngày một lớn mạnh. Các tiểu đoàn thu gọn lực lượng hình thành thuật "trùng độc chiến", trong đánh ra, ngoài đánh vào, ban ngày quân ta phục kích, đánh tỉa, ngăn chặn địch tấn công, ban đêm biệt kích, tập kích, tấn công, quấy rối tiêu hao tiêu diệt địch, khiến chúng ăn không ngon, ngủ không yên, đi lại thì lo sợ, chiếm đóng cũng không an toàn, tiến tới đâu, ở đó chỉ còn "vườn không nhà trống". Quân số vũ khí ngày càng hao hụt, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Hà Nội lúng túng sa lầy. Binh lính Pháp tinh thần dần dần sa sút. Trong khi đó, các mặt trận khác đều được Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo, tích cực hoạt động để trợ lực cho mặt trận Hà Nội. Tại thị xã Bắc Giang phía đông bắc Hà Nội 50 cây số, sau nhiều ngày đêm bị bao vây, lại bị quân dân ta luôn luôn đột phá tập kích, quân Pháp bị thiệt hại nặng, tan rã, nhất là từ khi viên quan ba chỉ huy tử trận ngày 19 tháng 12. Ngày 29 tháng 12, chúng cố mở một đường rút. Ngày 30 tháng 12, tàn quân Pháp đã rút khỏi Bắc Giang 7 cây số, lại bị quân ta chặn đánh làm chúng thiệt hại nặng. Tại Bắc Ninh cách Hà Nội hơn 30 cây số vẻ phía đông bắc, quân Pháp định tiếp viện tới Bắc Giang bị ta chặn đứng lại ở Đáp Cầu. Quân ta bao vây và đã làm chúng bị thiệt hại nặng. Ngày 30 tháng 12, tàn quân Pháp đã thế cô. Chúng phải mở đường máu rút chạy khỏi Đáp Cầu. Phía Gia Lâm, quân du kích của ta luôn luôn quấy rối chặn đánh, giữ chân địch, cản trở không cho chúng lan rộng ra các nơi hoặc đưa quân sang Hà Nội. Báo "Nước Pháp buổi chiều" đưa tin: Ở Nam Bộ, chiến tranh du kích lại bắt đầu tái diễn và nhiều đồn canh của Pháp bị đột kích. Các cuộc phá hoại lại dữ dội hơn trước.

          Sự phối hợp chặt chẽ của các chiến trường đã giúp cho mặt trận Hà Nội giành nhiều thắng lợi bước đầu, làm cho bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ờ Đông Dương ngày càng lúng túng. Kế hoạch 24 tiếng đồng hồ, rồi kế hoạch một tuần lễ nuốt chửng thủ đô Hà Nội của giặc Pháp đều hoàn toàn tan vỡ. Quân và dân Hà Nội đã kháng chiến được 10 ngày. Từ 19 đến 29 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đã bị tiêu diệt trên 500 tên, 7 xe tăng bị phá hủy, 9 xe tăng khác và 6 xe thiết giáp bị hư hỏng trong đó có 3 xe bị hỏng nặng, 14 xe vận tải và 6 xe gíp bị đốt cháy hoặc bị phá hoại không thể dùng được. Ta thu được rất nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng. Hồi đó, nếu quân ta biết tập trung lực lượng đánh địch có trọng điểm hoặc khi tấn công biết tập trung ưu thế hơn địch để tiêu diệt sinh lực chúng ở những nơi có thể hoặc ở những vị trí mấu chốt thì quân địch ở Hà Nội còn phải thiệt hại nhiều hơn nữa và các tướng tá cầm đầu quân xâm lược Pháp còn phải đau đầu, nhức óc hơn nữa. Suốt 10 ngày, giặc Pháp vẫn loanh quanh trong thành phố Hà Nội, chưa một tên giặc nào đặt chân ra được đến cửa ô. Quân và dân thủ đô Hà Nội không những không bị tiêu diệt mà nhân dân từ khắp bốn phương đã đổ về chi viện cho Hà Nội, nên lực lượng ở Hà Nội mỗi ngày một đông, kinh nghiệm kháng chiến ngày một nhiều, tinh thần chiến đấu ngày càng dày dạn. Cơ quan lãnh đạo và Chính phủ ta không những không bị "cất vó" như chúng tưởng, mà Trung ương Đáng và Chính phủ đã trở về căn cứ chỉ đạo kháng chiến một cách an toàn, đã lãnh đạo và huy động toàn dân đứng lên kháng chiến, với khẩu hiệu "Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến", "Quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng!". Bọn thực dân xâm lược Pháp ở Hà Nội cũng như trên toàn quốc không những không thực hiện được mưu đồ đánh nhanh giải quyết nhanh, mà ngay từ đầu chúng đã vấp phải sức đề kháng hết sức mãnh liệt, lòng tự cường dân tộc, ý chí sắt đá, tinh thần quật khởi của nhân dân thủ đô Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng đã làm chúng phải đứng ngồi không yên, ngày càng sa lầy lúng túng.

Mười ngày đầu kháng chiến ở thủ đô Hà Nội và trên toàn quốc, không những ở Việt Nam giặc Pháp bị thua đau, mà ngay ở nước Pháp, Đảng Cộng sản Pháp đã lãnh đạo nhân dân Pháp lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu ở Việt Nam, đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc xâm lược tàn bạo ở Việt Nam. Trên thế giới, đế quốc Pháp ngày càng bị cô lập, nhân dân tiến bộ trên thế giới đã lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

          Sau 10 ngày chiến đấu thắng lợi, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội được lệnh về Bộ Tổng chỉ huy dự hội nghị sơ kết tình hình và nhận chỉ thị mới. Sau cuộc họp, đồng chí Võ Nguyên Giáp siết chặt tay từng người, căn dặn thêm những điều cần thiết, đồng chí nói:

          - Trong khi chờ quân tăng viện, để bao vây khống chế Liên khu I có hiệu quả hơn, có nhiều khả năng địch sẽ mở những đợt tấn công lớn ra ngoại ô Hà Nội.

Với thái độ bình tĩnh, khoan thai nhưng rất kiên quyết, đồng chí nhấn mạnh:

          - Phải tiêu hao địch, nhưng phải luôn luôn chú ý bảo toàn lực lượng để kháng chiến lâu dài, phải chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để mở rộng mặt trận.

          Ngày 29 tháng 12, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận cũng tiến hành hội nghị kiểm điểm tình hình và truyền đạt nhiệm vụ mới, sau đó chuẩn bị kế hoạch chấn chỉnh to chức chỉ huy, điều động lực lượng và phổ biến kinh nghiệm chiến đấu. Tờ báo Thủ đô vẫn tiếp tục đăng mục "Rút kinh nghiệm kháng chiến", vói những nội dung: "Đánh du kích trong lòng địch, cách giải quyết vấn đề nước, vấn đề ăn, V.V.". Chỉ huy sở cơ bản (bộ phận nặng) của mặt trận di chuyển về Mễ Trì. Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận phân công nhau mỗi người đi một hướng để quán triệt nghị quyết của Đảng ủy xuống dưới, đồng thời trực tiếp động viên kiểm tra đôn đốc các đơn vị. Đồng chí Trần Độ, chính trị ủy viên, đi phía Thụy Khuê, Quần Ngựa. Chỉ huy trưởng cùng các đồng chí ở trên Bộ Tổng chỉ huy đi Bạch Mai, Ngã Tư Sở, Hàng Bột. Đồng chí Nguyễn Văn Trân và một số đồng chí khác đi Yên Duyên, ô Cầu Dền, v.v.

Mọi người đều chuẩn bị bước vào một giai đoạn chiến đấu mới quyết liệt hơn nhiều.

 

GIỮ TỪNG TẤC ĐẤT CỬA Ô

          Vào một ngày cuối năm, 30 tháng 12 năm 1946, mặt trời lên muộn. Gió nhẹ đưa hơi sương lành lạnh lan tràn khắp đường phố. Chỉ huy sở tiền phương nhận được tin tiểu đoàn 523 báo cáo về: "Địch tấn công trên hai hướng: Hàng Bột và Khâm Thiên". Máy bay trinh sát của địch bay lượn làm vẩn đục thêm bầu trời Hà Nội. Máy bay khu trục vút lên, sà xuống trút bom, đổ đạn xuống đường phố. Một màn khói đen dày đặc trùm lên xóm làng, phố xá phía Tây Nam Hà Nội. Từng loạt đạn pháo, súng cối của địch nổ tung tóe trên ụ đất, bờ tường, chiến hào nơi quân ta bố trí. Khoảng 600 bộ binh, 50 xe cơ giới các loại của địch chia làm hai mũi tấn công quân ta. Đây là một trận chiến đấu vô cùng ác liệt. Mấy con quạ sắt hung ác, man rợ xả từng tràng liên thanh xuống trúng vào cả quân của chúng, lẫn quân ta. Nhà cửa đổ ầm ầm, gạch ngói rơi lả tả xuống hầm hố. Trong những hầm không nắp, có một số chiến sĩ bị thương. Ở Khâm Thiên, tiểu đội Vệ Quốc Đoàn phòng ngự ở đầu phố, 5 giờ 15 phút sáng đã chạm trán với địch. Ngay lúc đó, toán địch từ nhà dầu Sen tiến đánh xóm Mỹ Đức phía nam phố Khâm Thiên, phối hợp với cánh quân ở Sinh Từ, Văn Chương từ phía bắc đánh xuống. Từ ba mặt, quân địch tiến đánh phố Khâm Thiên. Hai trung đội Vệ Quốc Đoàn và một số công nhân xe lửa nằm trong vòng vây của giặc. Khâm Thiên bị bao vây. Hàng Bột bị cô lập. Nhưng quân và dân Hàng Bột đã ngoan cường giữ từng tấc đất. Suốt 5 tiếng đồng hồ, giặc Pháp chưa tới được ụ đất thứ hai. Chúng bèn tung thêm hai cánh quân hình thành thế bao vây Hàng Bột. Một cánh từ nhà Đúc Tiền đánh xuống Thịnh Hào, phía Tây Hà Nội chừng nửa cây số. Trung đội Vệ Quốc Đoàn ở Thịnh Hào bất ngờ bị địch đánh úp sau lưng. Sau 20 phút cầm cự, trung đội này rút về bố trí ở ngã ba đường Giảng Võ, quân địch đánh thẳng xuống Ô Chợ Dừa, rồi từ cuối phố Hàng Bột đánh ngược lên. Toán quân từ Sinh Từ xuống Văn Chương, cắt ngang phố Khâm Thiên cũng đánh về Ô Chợ Dừa. Hàng Bột bắt đầu nằm trong vòng vây của giặc. Đường phố vẫn chìm trong khói lửa. Hai chiếc máy bay khu trục của địch vẫn lồng lộn ngược xuôi, trút bom xuống làm từng dãy nhà sụp đổ; ụ đất, chiến hào, tường gạch vỡ lở tung tóe, ngổn ngang. Xe tăng địch vừa tiến vừa bắn, dẫn bộ binh theo sau. Từ hai đầu phố, quân địch khép dần vòng vây. Nhưng quân ta quyết không ngồi yên, đã nhảy lên miệng hổ, vật lộn với giặc, phá vòng vây vượt qua Thổ Quan rút về Nam Đồng. Trong phố Khâm Thiên, các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn, cùng anh em công nhân xe lửa chia nhau giữ từng căn nhà, từng ụ đất. Họ luôn nhắc nhở nhau: "Mỗi viên đạn là một quân thù", "Ngắm trúng mới bắn". Có nhiều chiến sĩ thấy địch tới nhưng nhất định không bắn, mà bí mật đợi chúng đến gần mới nhảy xổ ra cho chúng "xơi" mấy nhát lê, hoặc ăn vài lưỡi kiếm. Địch lùi ra cho pháo binh, súng cối, máy bay bắn phá, ném bom uy hiếp ta rồi lại tiếp tục xung phong. Nhưng vẫn không hiệu quả. Đến 2 giờ chiều, chúng lại giội bom, đốt phá gần hết hai dãy phố, rồi cùng với toán quân phía Hàng Bột lục tục rút lui.

          Trong cuộc chiến đấu giam chân địch ở Hà Nội, lần đầu tiên quân ta chống cự với một cuộc tấn công mạnh mẽ của địch và đông quân hơn hàng chục lần ở đường phố độc đạo, xung quanh trống trải. Lúc đó cán bộ và chiến sĩ của ta cho rằng: xe tăng và bộ binh địch không dám tiến vào làng, vì có thể bị rơm rạ, ao chuôm, ruộng nước cản trở. Mặt khác tính chất vững chắc, thế ỷ tựa, đứng chân của địa hình làng mạc, có phần nào không bằng trong thành phố, và cũng lần đầu tiên quân ta bố trí chiến đấu ở làng mạc, nên đều dàn mành mành và chỉ hướng về một phía. Lợi dụng sơ hở đó, quân địch đánh vòng bên sườn và sau lưng phá vỡ trận địa của ta, bao vây đường phố. Hồi đó, cán bộ ta chưa biết bố trí tác chiến liên hoàn, nên nơi nào bị tấn công, nơi ấy đơn độc chống cự. Phương tiện thông tin không có, chưa có kinh nghiệm đặt ra những ám, tín hiệu đơn giản, nên khi bị vây, hoặc rút lui, ít báo được cho nhau biết. Tuy vậy, các chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn, dân quân tự vệ và anh em công nhân đã chiến đấu vô cùng anh dũng, tiêu diệt gần 50 tên địch.

          Ngay buổi chiều hôm đó, đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp cùng Bộ chỉ huy mặt trận trực tiếp tới tiểu đoàn 523, khu vực Khâm Thiên, Hàng Bột, nghiên cứu tình hình để phố biến ngay những kinh nghiệm nóng hổi cho các đơn vị. Khi trở về phía Kim Liên, bọn địch ở phía bắc hồ Bảy Mẫu trông thấy. Chúng bắn trọng liên nổ đôm đốp trên đỉnh đầu đoàn cán bộ ta. Đồng chí Tổng chỉ huy tránh sát vào chân tường gạch, vôi trên tường rơi lả tả xuống lưng. Giữa lúc tình hình căng thẳng như thế, sự có mặt đồng chí Tổng chỉ huy đã làm tăng thêm quyết tâm và niềm tin sắt đá của cán bộ cấp dưới. Mọi người tự nhú:

          - Cấp trên sâu sát, tỉ mỉ như thế thì bản thân mình phải sâu sát, tỉ mỉ hơn nữa.

          Bài học ngày 30 tháng 12 được phổ biến kịp thời. Hôm sau địch tấn công Kim Liên, trung đội Vệ Quốc Đoàn ở đây đã dựa vào giao thông hào, hầm hố và nhà cửa, ven đường, khéo léo cơ động ngăn chặn địch suốt 11 tiếng đồng hồ, giết chết hơn 20 tên, phía ta có 4 chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn, 2 tự vệ bị hy sinh. Các chiến sĩ lại có thêm kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự ở địa hình đường phố độc đạo, xung quanh trống trải dễ cho địch bao vây, vu hồi. Bộ đội đã biết dựa vào chiến hào, giao thông hào để cơ động đánh địch từ nhiều hướng tới, tập trung hướng chính và có lực lượng dự bị.

          Hai hôm sau, quân địch không mở cuộc tấn công nào nữa. Trong khi địch dừng lại, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho Liên khu I tăng cường tấn công vào sau lưng địch ở các cửa ô, các tổ du kích luồn sâu vào nội thành, hoạt động quấy rối không cho địch nghỉ ngơi. Mặt khác, các đơn vị bên ngoài nghiên cứu rút kinh nghiệm hai trận đánh vừa qua, học tập chiến đấu phòng ngự cơ động ở địa hình làng mạc, trên cánh đồng ngoại thành. Trong khi học tập và chiến đấu sôi nổi, các chiến sĩ hân hoan truyền tay nhau đọc thư của Bộ chỉ huy mặt trận chúc mừng năm mới:

...

"- Giết được nhiều giặc

- Cướp được nhiều vũ khí.

- Phá được nhiều chiến xa.

- Luôn luôn khỏe mạnh, hăng hái không lùi nửa bước để đoạt được thắng lợi cuối cùng trong cuộc Trường kỳ kháng chiến".

           Chiến sự phát triển, quân và dân thủ đô tiếp tục nhiệm vụ ngăn chặn địch đánh ra vùng ngoại thành trên một phạm vi rộng từ Vĩnh Tuy đến ô Cầu Dền, Kim Liên, Ô Chợ Dừa, Kim Mã, Ngọc Hà, Thụy Khuê và Yên Phụ hình thành đường vòng cung dài hơn 10 cây số. Đó là một khó khăn, quân và dân Hà Nội làm thế nào để tiếp tục giam chân địch một thời gian nữa, mà vẫn bảo toàn được lực lượng để chiến đấu lâu dài. Nhưng địch cũng có khó khăn. Nếu chúng tập trung quân để đánh ra một hướng thì không có quân giữ các cửa ô. Quân ta ở ngoài sẽ đánh ép vào, ở Liên khu I đánh thúc ra. Địch bắt đầu gặp mâu thuẫn giữa chiếm đóng và tấn công. Cùng một thời gian trong một ngày, địch không thể mở nhiều mũi, nhiều đợt tấn công về nhiều hướng được. Do đó, có thể hôm nay địch tập trung quân tấn công hướng này, ngày mai tập trung quân tấn công hướng khác hoặc nếu một ngày tấn công hai hướng thì lực lượng bị phân tán. Nhưng dù sao, hình thái bố trí phòng ngự bên ngoài của quân ta cũng không thể rải mành, mà phải tập trung giữ các trục đường giao thông. Từng tiểu đoàn phải có lực lượng cơ động để bảo đảm kịp thời tung ra khi cần thiết, tránh tư tưởng "dốc túi đánh một canh" phô trương lực lượng. Vì vậy, ngày 2 tháng 1 năm 1947, Bộ chỉ huy ra thông tri: "Vì cần phải trường kỳ kháng chiến, nên ta phải bảo tồn lực lượng không nên tung ra quá nhiều mà hao tổn binh lực.

Vậy binh lực mỗi tiểu đoàn phải chia làm ba phần:

          1. Một phần làm bộ đội phòng ngự

          2. Một phần làm bộ đội tấn công

          3. Một phần làm bộ đội dự bị"1 (Trích trang 96. Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ. Vàn phòng Bộ Quốc phòng). Các đơn vị đã chuẩn bị sẵn sàng đánh lại các cuộc tấn công quy mô lớn của địch.

          Ngày 2 tháng 1 năm 1947, sau khi phát hiện xe cộ, pháo binh của địch lục tục chuyền về phía Tây Bắc Hà Nội, máy bay thám thính bay lượn suốt ngày quan sát trên trục đường Hà Nội - Cầu Giấy, Hà Nội - Bưởi, từng tốp bộ binh địch thậm thà, thậm thụt có tính chất thăm dò lực lượng ta, Bộ chỉ huy mặt trận đã chỉ thị cho tiểu đoàn 145 sẵn sàng chiến đấu và cử cán bộ trực tiếp xuống cùng cán bộ tiểu đoàn bố trí kế hoạch tác chiến, động viên bộ đội. Nhân lúc địch tấn công, ta còn lợi dụng sự oanh tạc của máy bay, pháo binh chúng để phá hoại một số nơi mà ta chưa có điều kiện phá hủy. Bộ chỉ huy chỉ thị thêm cho tiểu đoàn 145:

          "1. Cho một tổ du kích ba người chiến đấu nghi binh ở nhà bia Ô-men để địch bắn pháo, ném bom vào phá hủy nhà máy.

          2. Mỗi người mang theo 2 quả lựu đạn và 15 ngày lương thực, nước uống và có thêm cả bom 25 cân"1 (Trích trang 96, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng).

Tiểu đoàn 145, ở hướng Tây Bắc Hà Nội, có 8 trung đội, bố trí ở đường Thụy Khuê, Hoàng Hoa Thám, Đội Cấn, còn 2 trung đội làm dự bị bố trí ở Đại Yên và Quần Ngựa. Trong đêm mồng 2 tháng 1 năm 1947, các chiến sĩ ra sức đào công sự ẩn nấp có nắp, đào từng đoạn chiến hào, giao thông hào dể cơ động với khẩu hiệu: "Bám sát từng căn nhà, ngăn chặn địch từng bước. Tiêu hao địch, bảo toàn mình". Rút kinh nghiệm trận đánh chặn đường ở phố Hàng Bột, Bộ chỉ huy mặt trận còn căn dặn tỉ mỉ: "Nếu bộ binh địch tiến trước thì ta bố trí từng tổ súng trường để tiêu diệt. Nếu xe tăng địch tiến trước, ta bố trí từng tổ dùng lựu đạn chùm, chai cháy, bom từ gác hai ném xuống. Quyết tử quân mang bom ba càng mai phục phá xe tăng. Bộ binh ta đánh quặt phía sau tiêu diệt bộ binh địch".

Ngày 3 tháng 1 năm 1947, địch huy động trên 700 quân, 7 xe tăng, 10 xe bọc sắt, 70 ô tô vận tải và xe gíp, 2 máy bay khu trục, 1 máy bay thám thính, chia làm nhiều mũi tấn công ta ở hướng tây bắc Hà Nội như ta đã phán đoán.

          Cánh quân thứ nhất có xe tăng và xe bọc sắt yểm hộ tiến theo đường Thụy Khuê. Từ 6 giờ sáng, chúng đã tiến đánh nhà máy xe điện. Bộ binh địch men theo hè phố tiến trước. Các tổ súng trường của ta bất ngờ nổ súng, bọn địch gục ngay tại chỗ. Cơ giới địch dừng lại, không dám tiến. Một lát sau, bộ binh địch lại vọt lên. Quân ta lại nổ súng. Giằng co suốt 4 tiếng đồng hồ, chúng vẫn chưa chiếm được nhà máy xe điện. Giặc Pháp bắt đầu thay đổi đội hình, cho xe tăng tiến trước, bộ binh tiến theo sau. Khi xe tăng tới gần chiến hào của ta, một chiến sĩ ôm bom ba càng lao cả người, cả bom vào xe tăng địch. Bom không nổ, đồng chí đã anh dũng hy sinh. Các chiến sĩ khác vẫn không hề nao núng. Lập tức một chiến sĩ quyết tử khác ôm bom lao tiếp lên, quả bom này cũng không nổ. Xe tăng địch vượt qua chiến hào. Bộ binh địch sục đến. Các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng xông lên vật lộn với giặc. Nhưng hết vũ khí đánh xe tăng, quân ta ngăn chặn địch từng bước tới nhà máy thuộc da.

          Cánh quân thứ hai tiến theo đường Hoàng Hoa Thám bị các tổ súng trường của ta bắn tỉa tiêu diệt hơn một chục tên. Bọn chúng tiến hết sức dè dặt.

          Cánh quân thứ ba ỷ vào máy bay đã oanh tạc 2 dãy phố; 4 xe tăng, 2 xe bọc sắt dẫn 2 đại đội bộ binh của chúng hùng hổ tiến vào đường Đội Cấn. Đột nhiên, từng chùm lựu đạn, chai cháy, bom của quân ta từ trên tầng gác ném xuống. Cơ giới địch dừng lại, lập tức các chiến sĩ quyết tử ở các ngõ hẻm, cầu nhà xông ra lao bom ba càng vào xe tăng địch. Bộ binh ta xuất kích đánh ngang sườn bộ binh địch. Trận địa ran tiếng súng. Trong chớp nhoáng, 1 xe tăng địch bị đứt xích, 2 xe vận tải bị phá hủy, 1 trung đội bộ binh địch bị tiêu diệt. Quân địch hỗn loạn xô đẩy nhau chạy lui, chúng gọi máy bay, pháo binh oanh tạc, khói lửa mù mịt nơi quân ta bố trí. Sau khi chấn chỉnh lực lượng, quân địch đổi đội hình cho bộ binh sục sạo trước. Các chiến sĩ ta bình tĩnh bắn tỉa, ném lựu đạn. Những tên giặc "xấu số" này gục ngay tại chỗ. Cuộc chiến đấu kéo dài 7 tiếng đồng hổ, quân địch không tiến thêm được một bước. Quá 12 giờ trưa, máy bay, pháo binh địch lại tiếp tục bắn phá. Nhà cửa hai dãy phố đổ vỡ ngổn ngang. Sau đó, ta phát hiện địch cho một toán quân theo phố Sơn Tây đánh vu hồi vào Vạn Phúc, quặt vào phía nam nhà thờ Liễu Giai, hình thành thế bao vây phía cuối phố Đội Cấn, nên ta tiếp tục chặn địch hơn 2 tiếng đồng hồ nữa rồi rút về phòng ngự tại một địa điểm cách nhà thờ Liễu Giai 500 thước về phía tây bắc. Như vậy, suốt trong ngày 3 tháng 1, quân địch phải huy động gần một ngàn quân, chật vật lắm mới tiến được hơn một cây số, trên 100 tên địch chết và bị thương, 1 xe tăng bị phá hủy, 1 xe bọc sắt bị hư hỏng nặng, 2 xe vận tải bị đốt cháy. Ta thu được 2 súng ngắn, 7 súng trường và một số tiểu liên.

Buổi sáng, quân ta chiến đấu quyết liệt, thu nhiều thắng lợi ở phía tây bắc Hà Nội. Quân địch cho rằng ta sẽ chủ quan.

          Ngay buổi chiều ngày 3 tháng 1, chúng cho khoảng 150 tên, có 2 xe tăng, 2 xe bọc sắt, và 10 ô tô vận tải bất ngờ từ Lò Lợn đánh xuống Thanh Nhàn, Vĩnh Tuy hòng tiêu diệt đơn vị Vệ Quốc Đoàn ở đây, bắt đồng bào, và cướp thóc lúa, lợn gà của dân. Được nhân dân báo tin có địch tấn công, trung đội Vệ Quốc Đoàn ở đây cấp tốc đi bố trí làm hai cánh, bọc con đường từ Lò Lợn xuống và chặn đường hướng Phà Đen lên. Trong một cái miếu ở chân đê, đồng chí trung đội trưởng đang báo cáo tình hình với chỉ huy trưởng mặt trận và nghe kinh nghiệm của các trận đánh vừa qua thì tiếng cơ giới của địch mỗi lúc một gần. Mọi người vẫn bình tĩnh chờ địch lọt hẳn vào trận địa mới nổ súng. Không thấy gì khả nghi, cơ giới của địch tiến rất nhanh ập ngay tới nơi. Đồng chí trung đội trưởng bắn súng lệnh, hô "xung phong!". Súng máy của ta bắn rập vào toán đi đầu. Đồng chí quân giới nói tiếng khu 4 gọi to: "Đồng chí Vũ, sao lại cùng xung phong với các chiến sĩ như thế. Đồng chí hãy ở lại đây". Trong phút chốc, cuộc chiến đấu giáp lá cà đã diễn ra rất ác liệt. Một cán bộ đại đội bắn súng ngắn "Côn bát" giết được 8 tên. Quân địch bị đánh lại bất ngờ, đội ngũ rối loạn, quay đầu rút chạy. Một xe tăng địch dừng lại. Chiến sĩ ta tưởng xe tăng địch hỏng xông đến định bắt sống tên lái xe. Đột nhiên chúng bắn tiểu liên, ném lựu đạn ra mặt đường rồi phóng chạy. Quân ta lại đuổi. Xe tăng địch chạy sau bắn yểm hộ cho bộ binh chạy trước, vì chúng thấy từ khi nổ súng, đơn vị này hoàn toàn không có vũ khí chống tăng. Chiến sĩ ta vô cùng căm uất, đuổi sát xe tăng địch mà đành chịu. Suốt dọc đường, xác định chết rải rác hàng chục tên. Ta truy kích tới gần vị trí Lò Lợn. Một ngày ta thắng hai trận lớn. Từ cán bộ đến chiến sĩ vui mừng quên cả ăn, đến khuya mới thấy đói.

          Chiến thắng giòn giã này đã làm quân ta tăng thêm sĩ khí và củng cố lòng tin tưởng vào khả năng của mình hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu tiêu hao địch ở các cửa ô và làm cho mọi người thấy rằng: mặc dầu ở địa hình không có lợi cho ta bố trí phòng thủ, tiện cho địch dùng cơ giới bao vây vu hồi, nhưng ta vẫn có khả năng đánh lại các cuộc tấn công của địch. Trận phía tây bắc Hà Nội, nếu ta biết tổ chức phòng ngự có trọng điểm, tập trung lực lượng, cơ động mạnh hơn để phản kích, biết chấn chỉnh tổ chức lực lượng sau mỗi đợt chiến đấu để đánh liên tục thì quân địch còn tổn thất nhiều hơn nữa.

Sau trận này, đồng chí Trần Độ tới động viên tiểu đoàn 145. Đồng chí ra tận chiến hào thăm hỏi chiến sĩ. Một chiến sĩ kéo đồng chí vào góc tường chỉ ngón tay qua lỗ châu mai và nói:

          - Chỗ kia là ụ súng của địch! Tôi có một mẹo làm tiêu hao đạn dược của nó, mà tôi không tốn một viên đạn.

          Nói xong, chiến sĩ đó thực hành luôn. Trước tiên, anh để một cái thùng to ở mép đường. Phía xa quân địch nhìn thấy, chúng bắn súng máy bụi tung mặt đường. Khi chúng ngừng bắn, anh chạy vút sang bên kia. Quân địch lại bắn. Một lát anh lăn cái thùng trở lại. Quân địch lại bắn, anh cười đắc chí, rồi chạy vút trở về... Cứ như thế ba, bốn lần. Giặc Pháp đổ ra không biết bao nhiêu là đạn. Hôm sau, bọn địch vác gỗ làm công sự. Các chiến sĩ đưa súng các-bin cho đồng chí Trần Độ thi đua với chiến sĩ bắn tỉa từng tên địch.

          Bị thua đau, ngày 4 tháng 1 năm 1947, quân địch không tấn công. Nhưng qua những triệu chứng hành động mà quân địch tiến hành do thám ta, Bộ chỉ huy mặt trận phán đoán: Địch chuẩn bị tấn công đánh chiếm làng Giảng Võ, cách vị trí địch ở nhà Đúc Tiền gần 3 cây số. Giảng Võ nằm ven đê La Thành, giữa ô Cầu Giấy và ô Chợ Dừa. Chiếm được Giảng Võ, địch chẹn được con đường gần nhất giữa hai cửa ô này. Mặt khác, từ Giảng Võ băng qua cánh đồng chừng một cây số là tới pháo đài Láng. Mất Giảng Võ, pháo đài Láng bị uy hiếp nghiêm trọng. Do đó, Bộ chỉ huy mặt trận cấp tốc ra mệnh lệnh cho Liên khu III: "Cho ngay một trung đội chia làm hai tới đóng tại lô cốt trên đê Giảng Võ"1 (Trích mệnh lệnh trang 103. Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng). Và điều thêm lực lượng mới về đó chiếm giữ.

          Vào cuối mùa đông, gió bắc tràn qua các phố. Sau những ngày hoạt động du kích trong lòng địch, đại đội 134, thuộc tiểu đoàn 56 tạm biệt các phố Huế, Minh Khai, Lê Bình... lách qua các vị trí giặc ở khu Nhà Rượu rút ra ngoại thành để vòng lên Kim Mã tiếp tục hoạt động ở vùng tây bắc Hà Nội. Tại đây đại đội tiếp nhận một tiểu đội nữ cứu thương của thành Hà Nội. Những người con gái trồng hoa vùng Ngọc Hà, đã cùng bao thanh niên ưu tú khác, tay không tấc sắc tham gia chiến đấu chặn đứng quân thù đánh ra mặt tây bắc Hà Nội.

          Chiều ngày 4 tháng 1, đại đội nhận được mệnh lệnh: cấp tốc tới Giảng Võ cùng một trung đội của tiểu đoàn 145 phòng giữ khu vực đó. Nửa đêm, khi sương đã xuống nhiều, trời lạnh, đại đội 134 mới bàn giao xong mặt trận Kim Mã cho đơn vị bạn và trở về Giảng Võ. Trong khi đó, ở phía đông bắc Hà Nội, pháo binh 75 ly và 25 ly của ta vẫn nổ giòn giã, yểm hộ cho một đơn vị bộ binh tấn công quân địch ở Cầu Đuống. Suốt ngày 5 tháng 1, quân ta ở làng Giảng Võ vừa chuẩn bị vừa sẵn sàng chờ đợi đánh lại tấn công của địch, nhưng Giảng Võ vẫn im ắng không một tiếng súng. Khoảng 4 giờ chiều, giặc Pháp cho chừng 200 bộ binh, hơn 20 cơ giới các loại từ nhà máy xe điện Thụy Khuê, nhà máy thuộc da tấn công đánh chiếm nhà dầu Tam Đa1 (Số 254B phố Thụy Khuê) trên trục đường Hà Nội đi Bưởi. Chúng tiến quân dè dặt, suốt hai tiếng đồng hồ mới nhích đi được vài trăm thước và cũng đã bị quân ta bắn tỉa chết 12 tên. Có lẽ đây là một trận giặc Pháp tấn công lấn dần chiếm địa hình có lợi hoặc cũng có thể là một cuộc nghi binh phục vụ cho ý định bất ngờ tấn công làng Giảng Võ. Đại đội 134 tiến quân chiếm lĩnh trận địa Giảng Võ xong thì trời đã gần sáng. Chi ủy và ban chỉ huy đại đội nhận định: chiều ngang làng Giảng Võ rất mỏng, địa hình bất lợi cho ta, đường tiến quân của địch thuận lợi cho cả cơ giới lẫn bộ binh, ta phải tích cực khắc phục địa hình chuẩn bị để phòng địch bất ngờ tấn công. Phải động viên tinh thần chiến đấu quả cảm của đảng viên và chiến sĩ, quyết tiêu diệt quân thù.

          Sáng ngày 6 tháng 1 năm 1947, bầu trời Giảng Võ mù mịt, mưa rơi lâm râm trùm xuống xóm làng, gió heo may thổi qua các ngõ. Từ những mái rạ, khói xanh tỏa lên như những buổi sớm mai thường lệ. Bỗng, từ phía đầu làng có tiếng súng nổ, tiếng hò hét, tiếng gọi nhau ơi ới: "Tây đến! Tây mặc quần áo giả đồng bào! Tây tấn công! Quay trở lại đi!". Ngay lập tức đại đội 134 lao ra bờ tre bố trí chiến đấu. Nhưng giặc Pháp đã ập vào làng. Tiểu đội nữ cứu thương cũng dùng lựu đạn, dao găm, mã tấu xông ra đánh giáp lá cà với giặc. Đồng chí Thập, một "chiến sĩ nấu ăn" bỏ cả nồi niêu cầm dao thái thịt nhảy ra đâm chém vật lộn với giặc. Q. là liên lạc viên của đơn vị đang tuổi vỡ tiếng vốn dĩ hiền lành. Hàng ngày, anh em vẫn gọi là "Q. tồ". Nhưng khi giặc đến, Q. nhanh như cắt, dùng lựu đạn giết chết mấy tên địch xông vào bắt mình. Quân giặc bị đánh bật ra khỏi bờ tre. Chúng bắt đầu kêu gào pháo binh, súng cối của chúng bắn yểm hộ. Bọn địch để lại một bộ phận nhỏ nổ súng ở chính diện thu hút lực lượng ta. Còn phần lớn lực lượng chia làm hai mũi đánh thúc vào bên sườn và phía sau làng Giảng Võ. Xe tăng, xe bọc sắt của địch tiến đến ria làng gầm rú ra oai, bắn yểm hộ cho bộ binh tiếp tục đến. Đạn lửa của giặc lao vun vút vào những mái nhà êm ấm của đồng bào. Xóm làng Giảng Võ bốc cháy. Khói lửa rực lên nghi ngút cả vòm trời. Những người dân còn ở lại đây đã tay dao, tay búa cùng bộ đội xông ra vật lộn với giặc. Ba lần giặc Pháp vào làng, ba lần để lại hàng chục xác chết. Số sống sót quay đầu rút chạy. Các chiến sĩ quyết tử dùng bom ba càng xông lên đánh xe tăng, xe thiết giáp của địch. Các chị em nữ cứu thương bò chỗ này, lăn chỗ khác cõng thương binh đưa   vào giữa làng. Chị em cấp dưỡng chiến đấu như những chiến sĩ xung kích. Trong vòng vây của giặc, vừa chiến đấu các chiến sĩ vừa nghe tiếng hát bài "Tiến quân ca", "Chiến sĩ ca" từ loa phóng thanh của các tổ tuyên truyền vọng lại, ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất của dân tộc anh hùng. Tiếng hát vẫn vang qua lửa khói. Nhưng, những người con anh dũng đang chiến đấu trong làng Giảng Võ mỗi lúc một vắng dần. Có đồng chí trước khi vĩnh biệt cuộc sống chiến đấu đã nhắn nhủ với bạn rằng: "Quyết chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam độc lập". Đến gần trưa, cả tiểu đội nữ cứu thương chỉ còn một người con gái làng Lai Xá, Hà Đông. Lúc đó rải rác khắp làng Giảng Võ đã có tới trên 50 xác những tên lính Pháp mù quáng và tàn bạo chết thảm thê trước những mũi súng, lưỡi dao căm hờn của bộ đội và nhân dân. Trong khi đó, một trung đội của tiểu đoàn 145 bố trí ở làng Ngọc Khánh cách Giảng Võ 500 thước về phía tây bắc, bị địch khống chế mạnh không thể nào tiếp viện cho Giảng Võ được.

          Vũ Công Định, đại đội trưởng đại đội 134, bị thương gãy đùi. Anh giữ trong người mấy quả lựu đạn, một khẩu súng ngắn, một khẩu tiểu liên "xten". Vũ Công Định hạ lệnh cho đại đội dưới quyền chỉ huy của chính trị viên Lê Chí Thực phá vây rút lui về phía nam để bảo toàn lực lượng. Chính trị viên và các chiến sĩ vì căm thù quân giặc và tình thương yêu đồng chí nên không nghe lời anh, đòi cáng anh cùng rút theo đơn vị. Anh quyết không chịu mà đòi ở lại bám chặt vị trí chiến đấu. Vì phải bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài nên không thể trù trừ được, Lê Chí Thực và các chiến sĩ vô cùng xúc động chia tay anh, rồi nhanh chóng phá vây rời khỏi làng Giảng Võ. Quân địch phát hiện ta rút, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt đuổi theo... Vũ Công Định cố lê ra bắn cản địch lại. Bọn giặc xông tới định bắt sống anh. Giữa lúc đó, anh thấy có một người con gái làng Lai Xá ở lại cùng anh chiến đấu. Gần chục tên giặc nữa phải chết gục trước mũi súng của hai người, và tiếng lựu đạn cuối cùng đã làm tan xác những tên giặc man rợ định xông đến bắt họ. Vũ Công Định và người con gái làng Lai Xá, người nữ cứu thương cuối cùng của đại đội 134, đã anh dũng vĩnh biệt xóm làng Giảng Võ.

           Phía cuối làng, Lê Chí Thực và các chiến sĩ vẫn bị giặc Pháp đuổi theo bắn rất rát, lại bị bọn phản động núp dưới lá cờ thiên chúa giáo và cờ ngoại quốc ở gác chuông nhà thờ Nam Đồng bắn chặn trước mặt, thương vong mỗi lúc một tăng thêm. Không thể để đơn vị tổn thất hơn nữa được, Lê Chí Thực hạ lệnh cho trung đội trưởng trung đội 1 cũng đang bị thương ở đùi tiếp tục chỉ huy bộ đội rút lui. Anh dừng lại trước một cái cổng, nổ súng cản bước tiến của địch. Cũng như Vũ Công Định, anh chiến đấu đến khi hết đạn. Khi quân địch xông tới định bắt sống anh, anh rút quả lựu đạn cuối cùng, một tiếng nổ bất ngờ như tiếng thét căm hờn. Mấy con quỷ khát máu gục xuống vũng bùn và từ giờ phút ấy, chính trị viên Lê Chí Thực cũng không còn nữa. Lực lượng còn lại của đại đội 134 rút lui an toàn về vị trí phòng ngự mới phía nam làng Giảng Võ. Buổi chiều hôm đó, Bộ chỉ huy mặt trận chỉ thị cho Liên khu II chuẩn bị lực lượng, ngay trong đêm, tiến vào tập kích địch, chiếm lại Giảng Võ. Nhưng giữa lúc trời chiều xám nghịt, sắp nhường lại cho một đêm tối mịt mùng, mưa nặng hạt, gió rét thấu xương thì giặc Pháp lục tục kéo nhau cuốn xéo khỏi Giảng Võ trở về nhà Đúc Tiền, nơi chúng hùng hổ ra đi với ý định thâm độc tiến hành một cuộc tàn sát đẫm máu. Khi chúng trở về nhà thì lếch thếch, tả tơi với hàng chục cáng thương đầy xác chết. Trong lòng binh lính nặng trĩu một nỗi lo âu và run sợ trước tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng cuả quân và dân xóm làng Giảng Võ.

          Để tưởng lệ chiến công anh dũng của những người con bất khuất, Bộ Tổng chỉ huy đã truy tặng Vũ Công Định, Lê Chí Thực và một số chiến sĩ Huân chương chiến công và Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ hai đã nêu gương tinh thần chiến đấu kiên cường của đại đội 134.

          Qua trận Giảng Võ, bộ đội ta trưởng thành thêm một bước. Cán bộ, chiến sĩ có thêm kinh nghiệm. Hồi đó, mặc dầu chúng ta chưa biết bố trí phòng ngự chiến đấu liên hoàn, chưa biết tổ chức chiến hào, giao thông hào để cơ động, và chưa có công sự kiên cố để tránh pháo binh, súng cối địch oanh tạc, chưa biết tác chiến hợp đồng giữa các đơn vị... nhưng, với tinh thần chiến đấu vô cùng quả cảm của quân và dân ta, giặc Pháp đã bị tổn thất nặng nề.

          Như vậy, sau thời gian chuẩn bị, từ ngày 30 tháng 12 năm 1946 đến ngày 6 tháng 1 năm 1947, giặc Pháp đã mở 6 đợt tấn công ra các cửa ô ngoại thành. Hơn một tuần lễ, quân ta chiến đấu giành đi, giật lại, giữ từng tấc đất cửa ô, đã tiêu diệt trên 300 tên địch. Giặc Pháp không những không tiến thêm được bước nào, mà còn bị đánh tan hoang, quan quân xô đẩy nhau rút chạy như trận buổi chiều trên đường Lò Lợn đi Vĩnh Tuy, bị chặn đánh quyết liệt như trận đường Đại Cồ Việt, bị phản kích bất ngờ vào sau đội hình tấn công, xe tăng giảm hiệu lực, bộ binh tan tác như trận phố Đội Cấn.

          Từ đó, quân ta trưởng thành rõ rệt, ở làng mạc từ phòng ngự đơn giản, rải quân mành mành trong các hố chiến đấu đơn độc, đã tiến tới có chiến hào, giao thông hào liên kết với nhau để cơ động. Từ chỉ biết phòng ngự phía trước mặt, tiến tới biết đề phòng bên sườn và phía sau, biết tổ chức lực lượng dự bị. Sau những trận ấy, quân và dân Hà Nội tự đặt ra những ngôn ngữ chiến thuật, có nội dung thích hợp với trình độ và nhiệm vụ lúc đó. "Ba lan thuật" tức là thuật làn sóng, hình dung như một tảng đất ném xuống nước, sóng giãn ra đập tới bờ rồi lại xô vào giữa. Địch tiến ra, ta chặn địch từng bước, địch lui ta lại tiến vào bám sát địch. Địch đánh ta không rút lui một đợt dài. Địch lui ta cũng không rời một bước chân. Dần dần lợi dụng sơ hở của địch, quân ta phát triển tới thuật "xoáy trôn ốc" đã làm cho quân địch nhiều phen tan tác. Địch tấn công, ta ngăn chặn địch từng bước, cơ động chủ lực đánh quặt vào sau lưng chúng. Địch tiến ra, chiếm đóng thêm vị trí mới, ta luồn vào hoạt động du kích sau lưng chúng.

          Thật vậy, sau 19 ngày thử lửa, vòng vây bên ngoài đã ngăn chặn địch từng bước, luôn luôn chủ động biệt kích, tập kích, đánh tỉa, tiêu hao sinh lực địch. Bên trong, Liên khu I đã anh dũng chiến đấu, kiên cường chịu đựng và đã đánh thúc phía sau, làm cho quân địch sa lầy lúng túng, đứng ngồi không yên. Quân và dân thủ đô Hà Nội đã chiến đấu gần 100 trận, tiêu diệt gần một ngàn tên địch, phá hủy hàng chục cơ giới của chúng. Quân và dân thủ đô Hà Nội lớn lên về mọi mặt. Ngày 6 tháng 1 năm 1947, Đảng ủy mặt trận nhận được điện của Liên khu I gửi ra đề nghị: "Thống nhất các lực lượng vũ trang, thành lập một trung đoàn chính quy của Quân đội quốc gia Việt Nam, lấy tên là "Trung đoàn Liên khu I", thành lập ban chỉ huy trung đoàn Liên khu I và cơ quan các ngành thuộc liên khu bộ". Được Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy chuẩn y, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận điện cho Liên khu I, chỉ dẫn thêm về lãnh đạo của Đảng đối với bộ đội và nhân dân, công tác ngoại giao với lãnh sự các nước còn ở trong Liên khu I. Ngày 6 tháng 1 năm 1947 là một ngày kỷ niệm sâu sắc của quân dân Hà Nội. Với hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ và hiểm nghèo trong lòng địch, quân và dân thủ đô Hà Nội đã lớn mạnh như Phù Đổng Thiên Vương. Trung đoàn Liên khu I chính thức thành lập, lấy tiểu đoàn Vệ Quốc Đoàn 101 làm nòng cốt, cả thảy trên một ngàn người cả trẻ em, phụ nữ và ông già cũng tình nguyện xin nhập ngũ. Để lãnh đạo trung đoàn chiến đấu, Đảng ủy trung đoàn được thành lập, do đồng chí Lê Trung Toản làm bí thư. Ở mỗi tiểu đoàn có một chi bộ đảng. Sau đó, Đảng ủy trung đoàn Liên khu I ra nghị quyết: phát triển đảng số lên gấp đối, làm cho các đơn vị càng tăng thêm lòng tin tưởng vô bờ bến vào sự lãnh đạo của Đảng, do đó, càng chiến đấu ngoan cường như những đội "xích vệ" của thành phố Xtalingơrát. Từ đó, quân và dân Hà Nội chuẩn bị lập chiến công mới, nhưng cũng sẵn sàng bước vào những thử thách mới.

          Sau trận Giảng Võ, mặt trận gần như không có trận đánh nào quyết liệt. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Hà Nội vắt óc suy nghĩ, tìm quỷ kế mới để tấn công ta. Bên ta tranh thủ hoạt động du kích tiêu hao địch và rút kinh nghiệm những ngày chiến đấu vừa qua. Bộ Tổng chỉ huy phổ biến những nhận định tình hình và chủ trương cho Bộ chỉ huy mặt trận. Liền sau đó, Bộ chỉ huy mặt trận ra thông tri cho các đơn vị: Hiện nay, địch không hoạt động mấy là chúng dành thời gian chờ quân tiếp viện, rồi sẽ mở những cuộc tấn công từng hướng, trong thúc ra, ngoài đánh ập vào... Các cấp chỉ huy phải thực hiện ngay chiến thuật du kích để tiêu hao chúng, đừng để cho bộ đội ta mắc vào "hoãn binh chi kế"1 (Trích thông tri ngày 8 tháng 1 năm 1947, trang 105. Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng). Ngoài ra còn có những thông tri hướng dẫn tỉ mỉ cho các tiểu đoàn ở ngoài hoạt động phối hợp chặt chẽ với Liên khu I: "Phải lựa chọn một số đội viên chiến đấu (Vệ Quốc Đoàn và tự vệ) bình tĩnh, can đảm, nhanh nhẹn, chia ra làm từng tổ du kích năm, bẩy người (một tổ phải có ba hay hai anh em tự vệ thuộc đường lối trong khu phố) mang theo ba ngày lương thực, ba súng trường, còn lại toàn dùng lựu đạn và đao kiếm, đi vào từng khu phố, chia nhau chiếm các nhà, nhưng phải có liên lạc mật thiết..., phải chỉ định khu vực hoạt động của từng tổ một. Mỗi khi quân địch đi qua là phải săn giết. Lúc địch mang xe tăng đến vây thì các đội viên phải tìm chỗ kín ẩn nấp để khỏi tổn thương. Nhưng mỗi khi có bộ binh hay Việt gian, thổ phỉ tới thì lại phải tìm cách tiêu diệt chúng"1 (Trích thông lệnh ngày 8 tháng 1 năm 1947, trang 105, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng). Để chuẩn bị đối phó với các đợt tấn công mới của giặc Pháp, sau khi được Bộ Tổng chỉ huy đồng ý, Bộ chỉ huy mặt trận điều động tiểu đoàn 45 và 64 (thuộc trung đoàn 9 và 13) ở Hà Đông và Sơn Tây tăng cường cho Hà Nội. Giai đoạn này, trừ trung đoàn Liên khu I thì bên ngoài ta có 7 tiểu đoàn, luân phiên nhau chiến đấu, nghỉ ngơi và luyện tập: "Tập đánh du kích, tập xung phong, tập báo động, tập phòng không"2 (Trích thông tri ngày 9 tháng 1 năm 1947, trang 106 - nt-). Ngoài việc tự rèn luyện mình, các tiểu đoàn còn cử cán bộ về các xã ngoại thành huấn luyện quân sự, truyền đạt kinh nghiệm chiến đấu cho dân quân tự vệ. Liên khu I tranh thủ huấn luyện cho những thanh niên mới nhập ngũ, mở các lớp ngắn ngày đào tạo tiểu đội trưởng, bồi dưỡng chính trị viên trung đội, mở lớp học điều lệ Đảng cho đảng viên mới. Mọi việc tác chiến, huấn luyện, tổ chức, v.v... đã bắt đầu đi vào nề nếp.

          Song song với công tác tổ chức và huấn luyện, các tổ du kích của các liên khu tăng cường hoạt động, luồn từ nhà này qua nhà khác, bắn tỉa những tốp giặc đi lại ngoài đường, hoặc bò tới sát vị trí của chúng, thình lình bắn tỉa những tên lính gác, lính tuần tra, phục kích ở những đoạn đường mà bộ binh, cơ giới, xe lửa của địch hay đi lại, đánh địch bằng mọi hình thức, làm cho chúng không thể nghỉ ngơi an toàn. Ngoài ra, Bộ chỉ huy mặt trận tiếp tục tung một lực lượng vào hoạt động suốt dọc con đường phố Bạch Mai, phố Huế cắt đứt giao thông liên lạc của địch, quấy rối, nghi binh, phá hoại làm cho quân địch phải nơm nớp lo sợ. Phóng viên hãng thông tấn AFP đã viết một bài phóng sự với đầu đề "Cuộc chiến tranh kỳ dị ở Hà Nội". Bài này tờ báo "Chiến Thắng" của Liên khu I đã đăng lại toàn văn: "Tôi thấy những người Pháp chết như thế nào dưới súng đạn Việt Nam ở hậu tuyến Hà Nội hay ở những trận kỳ dị ngay giữa trung tâm thành phố, ở một góc đường hay dưới những làn đạn tiểu liên bắn theo dọc đại lộ. Trong cuộc chiến tranh kỳ dị này, người ta có thể chết một cách dễ dàng vào bất kỳ nơi nào, lúc nào mà người ta không thể biết được.

          Chúng tôi, một nhóm nhà báo lần mò tới đường Hàng Lọng, một vùng đã bị càn quét. Chúng tôi gặp một đại úy, ông chỉ cho xem một lô cốt vừa làm xong, có tin một người lính Pháp vừa bị bắn chết, ông ra lệnh cho xe thiết giáp tới chở xác; Chiếc xe đó tiến tới gần lô cốt, không sự gì xảy ra. Mấy người lính xuống vực xác lên xe thì... một loạt tiểu liên không biết từ đâu nổ ra. Một người lính Pháp khác bị bắn nát sọ. Thành ra mang xe đi định lấy một xác về lại hóa hai". Phóng viên này đã nói lên một phần sự thật.

          Chiến thuật du kích của ta đã làm cho giặc Pháp sa lầy, lúng túng như bị vướng vào giữa giàn gai mây, càng giãy giụa, gai mây càng bám chặt. Tình hình ấy làm cho Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội ngày đêm lo sợ, nóng lòng chờ quân tiếp viện từ chính quốc đưa sang.

          Trong khi đó quân và dân thủ đô Hà Nội ngày càng dày dạn và trưởng thành. Đến ngày 13 tháng 1 năm 1947, một tin mừng nữa theo làn sóng điện đến với Liên khu I. Bộ chỉ huy mặt trận báo tin: Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 12 tháng 1 năm 1947 quyết định tặng trung đoàn Liên khu I danh hiệu "Trung đoàn Thủ đô".

          Trung đoàn Thủ đô ra đời, sức chiến đấu của Liên khu I càng mạnh mẽ hơn. Đó là một thắng lợi đặc biệt. Đội quân mới sơ sinh chiến đấu trong lòng giặc không những không bị tiêu diệt mà còn lớn lên nhanh chóng, chính bản thân các chiến sĩ cũng không lường trước được. Trong thời gian này, Liên khu I bắt đầu gặp nhiều khó khăn về thực phẩm. Đồng chí Hoàn có điện vào: "Trung đoàn đừng ăn đỗ xanh, lấy đỗ xanh ngâm thành giá để bộ đội ăn thay rau tươi. Những ngày mới nổ súng, ta dùng bao tải đựng đường xây đắp "ba-ri-cát", bây giờ tìm những bao đường ấy, lấy cho bộ đội ăn để bảo đảm sức khỏe". Bức điện tuy ngắn ngủi nhưng đã bao hàm sự quan tâm săn sóc của Trung ương Đảng đối với quân dân Liên khu I, chứa đựng tình yêu thương sâu sắc của tình đồng chí trong đại gia đình cách mạng. Những điều đó cũng ảnh hưởng sâu sắc tới các cán bộ trực tiếp chỉ huy mặt trận.

          Có những đêm, trời tối mịt mùng, gió bấc rét thấu xương, đồng chí Trần Quốc Hoàn, đồng chí Nguyễn Văn Trân, cùng các đồng chí trong Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội vượt qua đê Yên Phụ ra bờ sông phía bắc Hà Nội, đứng nhìn hồi lâu về trung tâm thủ đô yêu dấu. Ở đấy có Liên khu I quật cường và anh dũng. Nước sông Hồng vẫn cuồn cuộn chảy, các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân cùng với Bộ chỉ huy mặt trận đứng trên bãi cát bờ sông bàn bạc với nhau tìm thêm một cách khắc phục nữa là dùng bè chuối để thả gạo, thả rau trôi xuôi, rồi điện cho quân dân Liên khu I ra vớt. Sau đó ý định này được anh em dân quân tự vệ ngoại thành tích cực thực hiện để tiếp tế cho Liên khu I. Ở Lãng Bạc có một tiểu đội nữ giao thông, những người con gái lao động ở phía tây bắc Hà Nội mang sẵn trong người một dòng máu của anh hùng Trưng Nữ thuở xưa, quyết chống quân xâm lược, bất chấp mọi gian nan, ngày ngày đánh giặc, đêm đêm đeo bao gạo, tay nải, ba lô rau tươi... luồn qua gầm cầu Long Biên, tiếp tế cho Liên khu I, mặc dầu giặc Pháp rào dây thép gai ở chân cầu, xích chó để gác thay cho lính, bắn súng máy, súng cối để uy hiếp, chiếu đèn pha để kiểm soát. Đêm đêm, chị em vẫn vượt qua muôn vàn nguy hiểm chuyển tới quân dân trong liên khu hàng chục tấn gạo và thực phẩm, hàng trăm bức thư tâm tình và những tặng phẩm của nhân dân từ những vùng hậu phương xa xôi. Tuy vậy, tình hình lương thực ở Liên khu I ngày vẫn gặp nhiều khó khăn. Từ các nơi dồn về mấy phố phường nhỏ hẹp trên một vạn người, chưa nói đến gạo ăn mà nước uống cũng thiếu. Các giếng nước đều cạn. Đứng trước tình hình như vậy, mặt khác căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Liên khu I, theo chỉ thị của Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Trân, Chủ tịch ủy ban kháng chiến thành phố Hà Nội, đại diện cho chính quyền và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội, cùng vói đồng chí Hoàng Minh Giám, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đồng chí Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, tới Ô Chợ Dừa gặp các viên lãnh sự Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch), lãnh sự Anh, Mỹ để điều đình việc hai bên Việt - Pháp tạm ngừng bắn vào ngày 15 tháng 1 để các ngoại kiều và nhân dân Việt Nam còn lại ở trong thành phố được công khai rút ra ngoài. Sau đó đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho Bộ chỉ huy mặt trận điện vào Liên khu I: "Giặc Pháp âm mưu tiêu diệt chúng ta trong 24 tiếng đồng hồ. Nhưng, ngược lại, chúng ta đã tiêu hao giặc và giam chân chúng ở Hà Nội được gần một tháng, như vậy là chúng ta đã thắng lợi. Nay chỉ cần để lại 500 người. Còn tất cả rút ra hết để giải quyết khó khăn về tiếp tế và nước uống". Nhận được điện, Đảng ủy Liên khu I đã có chủ trương lãnh đạo bộ đội và nhân dân chọn người ở lại, thành lập đội quyết tử. Ngày 13 tháng 1 năm 1947, đội quyết tử của trung đoàn Thủ đô được thành lập, ngày 14 tháng 1 năm 1947 làm lễ tuyên thệ tại rạp hát Tố Như1 (Nay là rạp hát Chuông Vàng Thủ đô) phố Hàng Bạc. Đảng ủy Liên khu I quyết định đưa 3.500 thanh niên, tự vệ cùng với nhân dân rút ra khỏi Liên khu I. Ngay đêm hôm đó đã có một số đi theo gầm cầu Long Biên vượt ra.

          Ngày hôm sau, 15 tháng 1, hơn 6.000 đồng bào và ngoại kiều tản cư công khai theo đường Hàng Đậu lên Yên Phụ. Hàng ngàn chiến sĩ Liên khu I được chỉ định trước đã cải trang đi lẫn vào nhân dân để ra ngoài. Rời thủ đô yêu dấu, rời tiền tuyến sôi nổi và anh dũng, nhiều chiến sĩ dùng dằng lưu luyến không muốn đi. 3.500 thanh niên tự vệ ra ngoài thành lập một tiểu đoàn sau này mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bình Ca". Còn lại, một số được cử đi học lớp quân chính Vị Thủy, một số vào trường du kích Hoàng Diệu, một số vào các cơ quan quốc phòng hoặc trở về công tác cũ. Trung đoàn Thủ đô nhận mệnh lệnh kiện toàn tổ chức sẵn sàng chiến đấu với những hoàn cảnh gay go quyết liệt hơn. Nhưng do lòng yêu nước vô bờ bến của nhân dân, mặt khác cũng do kiểm tra không chặt chẽ, nên một số anh chị em đã lẩn tránh tìm mọi cách để được ở lại Liên khu I. Lúc đó số người của trung đoàn Thủ đô không phải là 500, mà vẫn còn 1.200 người trong đó có hơn 200 phụ nữ, hơn 100 thiếu nhi. Khó khăn về tiếp tế đối với Liên khu I đã giải quyết được nhiều, nhưng chưa phải là đã hết.

         Trong giai đoạn giặc Pháp ở Hà Nội dừng lại củng cố chờ quân tiếp viện, thì mâu thuẫn giữa rải quân ra chiếm đóng giữ đất với tập trung quân để tấn công, đối với chúng ngày càng nổi bật. Trước tình hình đó, trong Bộ chỉ huy mặt trận đã nảy ra ý kiến phản công tiêu diệt sinh lực địch, chiếm lại một phần thành phố Hà Nội với kế hoạch: "Tấn công kiềm chế địch ở các hướng ô Cầu Dền, Kim Liên, Ô Chợ Dừa, Đội Cấn. Còn phần lớn chủ lực tập trung đánh dồn dập vào Phà Đen, Đồn Thủy, xong phát triển tạt ngang sang trại Vệ Quốc Đoàn trung ương, Bộ Quốc phòng, Đấu Xảo". Sau khi đối chiếu với phương châm chỉ đạo tác chiến của Trung ương và tính toán lực lượng thì thấy: tuy bộ đội ta đã lớn mạnh về mọi mặt, nhưng về quân số và binh khí kỹ thuật của địch vẫn còn mạnh hơn ta gấp bội; về hệ thống phòng ngự, chúng đã được củng cố, tổ chức chu đáo hơn trước. Sức ta chưa đủ để phản công chiếm lại Hà Nội, nên Bộ chỉ huy vẫn giữ quyết tâm: "tiếp tục chiến đấu giam chân địch...". Bộ chỉ huy giao nhiệm vụ cho các đơn vị:

          - Tiểu đoàn 145, do đồng chí Trắc Vi Nam chỉ huy, phụ trách khu vực Phúc Xá sát sông Hồng cho tới Bưởi, Đội Cấn, giáp đường đi Sơn Tây.

          - Tiểu đoàn 523, do đồng chí An Giao chỉ huy, phụ trách từ đường Sơn Tây đến đê La Thành, gồm cả đường đi Hà Đông giáp Kim Liên.

          Bộ Tổng chỉ huy quyết định chỉ để lại Liên khu I một bộ phận nhỏ của trung đoàn Thủ đô là 500 người, gồm những chiến sĩ chọn lọc, đại bộ phận sẽ rút ra cùng với nhân dân trong ngày ngừng bắn. Nhưng qua ngày đó, Trung đoàn báo cáo ra vẫn còn lại 1200 người, trong số này có cả 200 phụ nữ và 175 em nhỏ. Điều ta không dự kiến được là có những người đã trốn ở lại để được trực tiếp chiến đấu.

          - Tiểu đoàn 64, do đồng chí Quốc Linh chỉ huy, phụ trách vùng Kim Liên (con đường số 1 đi Nam Định) tới Việt Nam học xá1 (Nay là trường Đại học Bách khoa).

          - Tiểu đoàn 212, do đồng chí Hồng Kỳ chỉ huy, phụ trách từ Việt Nam học xá, qua chợ Mơ đến Vĩnh Tuy.

          - Tiểu đoàn 77, do đồng chí Hoàng Kiện chỉ huy, làm đội dự bị của Liên khu II, bố trí ở phía sau, giữa hai tiểu đoàn 64 và 212.

          - Tiểu đoàn 56, do đồng chí Anh Đệ chỉ huy, làm đội dự bị của Liên khu III, bố trí ở trường bay Bạch Mai sau tiểu đoàn 523.

Chỉ huy sở cơ bản của mặt trận từ Mễ Trì chuyến về Tây Mỗ. Toàn mặt trận nội, ngoại tuyến đều ra sức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu với những tình huống gay go quyết liệt hơn.

Nhưng ngày 15 tháng 1, chẳng kể gì đến những điều giữa hai bên đã thỏa thuận, giặc Pháp đã lợi dụng giữa lúc các ngoại kiều và đồng bào trong Liên khu I rút ra ngoài, chúng bất ngờ mở một cuộc tấn công quy mô lớn về phía nam Hà Nội. Khắp mặt trận, cuộc chiến đấu ác liệt lại bắt đầu lần lượt tiếp diễn...

 

"TRÁNH MẠNH, ĐÁNH YẾU, BẢO TOÀN CHỦ LỰC..."

Thủ đô kháng chiến đã được gần một tháng. Đồng chí Tổng chỉ huy biểu dương chiến công đặc sắc của quân và dân Hà Nội. Gần một tháng giặc Pháp bị "mắc nghẽn", "sống dở", "chết dở", "sa lầy", lúng túng với một cuộc "chiến tranh kỳ dị"!... Phía ta, Trung ương Đảng và Chính phủ đã về căn cứ địa để lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Kho tàng, công xưởng đã chuyển về chiến khu. Hậu phương đã nhất tề đứng lên động viên toàn diện chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Hồi đó cũng như bây giờ giặc Pháp không sao giải thích nổi: "vì sao chúng đã sa lầy?", mà chúng chỉ biết gọi đó là cuộc "chiến tranh kỳ dị"!

          Bước sang giai đoạn mới, quân và dân thủ đô Hà Nội sẵn sàng chịu đựng những thử thách gay go quyết liệt hơn.

- Tránh mạnh, đánh yếu, chặn địch từng bước, nhưng vẫn phải tiếp tục giam chân địch.

- Tiêu hao địch nhưng vẫn phải bảo toàn lực lượng.

          "Bảo toàn lực lượng để kháng chiến lâu dài", đó là phương châm chỉ đạo của Đảng mà đồng chí Tổng chỉ huy luôn luôn nhắc nhở quân và dân thủ đô Hà Nội. Sau những chiến thắng đầu tiên, ta đã làm cho giặc Pháp phải giật mình kinh hoảng, quân và dân thủ đô Hà Nội vẫn muốn dốc hết sức mình quật cho chúng những đòn quyết định. Nói đến việc tránh đem chủ lực của ta đương đầu với chủ lực của địch, nhiều cán bộ chiến sĩ không bằng lòng, cho là rụt rè, e ngại. Nói đến việc tránh mạnh đánh yếu, chận địch từng bước thì trong lòng nhiều người cũng còn áy náy băn khoăn. Nhưng lúc đó nếu đem chủ lực của ta đương đầu với chủ lực của địch theo kiểu "chọi trâu" là một điều hoàn toàn không có lợi, là mắc phải âm mưu của chúng.

          Thử thách mới sắp đến! Để bảo toàn lực lượng phục vụ cho chiến đấu láu dài, Bộ chỉ huy tiếp tục chỉ thị cho các đơn vị triệt để dùng thuật "tị thực kích hư", tránh không đương đầu với địch mạnh ở trước mặt mà rẽ sang hai bên nhằm chỗ yếu đánh vào bên sườn và sau lưng địch. Thực hiện thuật "ba lan", thuật "xoáy trôn ốc", thuật "nghi binh" làm cho địch phải dùng nhiều sức lực đánh vào chỗ không người.

          Ngày 15 tháng 1 lại một lần nữa đế quốc Pháp vỗ trắng chữ ký của mình, lợi dụng lúc ta ngừng bắn để đồng bào trong Liên khu I rút theo phía Bắc ra ngoài thành phố thì chừng trên 1.000 quân Pháp cùng khoảng 150 cơ giới các loại tấn công về phía nam Hà Nội với âm mưu tiêu diệt chủ lực của ta, mở rộng phạm vi chiếm đóng.

          Khác với mọi lần, lần này khi mặt trời đã lên cao, ánh nắng sớm mai lung linh trên những ngọn tre ở làng mạc ngoại thành, anh chị em dân quân tự vệ Thanh Nhàn và Lương Yên đã cùng bộ đội nổ súng chặn địch tấn công. Trong phút chốc, trên 20 tên giặc bị tiêu diệt, quân ta thu được 4 súng trường. Bên ta chỉ có một vài Vệ Quốc quân và dân quân bị thương nhẹ. Hai toán địch bị đánh phủ đầu bất ngờ, chúng vội vã rút lui về hướng Lò Lợn và ô Đống Mác. Trên trời chiếc máy bay "bà già", "bành bạch" nghiêng ngả chỉ điểm cho pháo binh, súng cối bắn đổ liên hồi xuống hai bên bờ để yểm hộ cho bộ binh địch tiếp tục lò dò tiến lên nổ súng. Nhưng đến 9 giờ địch vẫn bị chặn lại ở Thanh Nhàn và Lương Yên. Lúc này số thương vong của ta đã tăng thêm. Giặc Pháp cho một ca nô chở một trung đội từ Phà Đen xuôi dòng sông Hồng bất ngờ đổ bộ vào ngay sườn ngã ba Vĩnh Tuy. Quân ta ở Thanh Nhàn chống cự với địch từng bước. Đến 11 giờ trưa, hai cánh quân của chúng siết chặt vòng vây xung phong lên Vĩnh Tuy thì ở đó chỉ còn lại những hầm hố nham nhở, còn quân ta đã rời khỏi Vĩnh Tuy từ lúc nào mà địch không rõ. Giặc Pháp tập trung quân ở Vĩnh Tuy lòng đầy hậm hực, lập tức chúng tiến quân định bao vây cất vó cơ quan chỉ huy tiểu đoàn 212 ở Ngã tư Trung Hiền. Địch chia làm hai toán, một toán qua Mai Động, Hoàng Mai chiếm lại Hàn Lân, một toán qua Quỳnh Lôi đánh vào Ngã tư Trung Hiền, phối hợp với một cánh quân từ Ngã tư Vọng đánh tạt từ phía tây vào sau lưng quân ta. Ba mặt hợp vây, giặc Pháp tưởng như sẽ "cất vó" được quân ta. Nhưng một đại đội của ta ở Tương Mai, Hoàng Mai, Quỳnh Lôi bám chặt ria làng ngăn chặn tiêu diệt hơn 40 tên giặc. Bên ta 20 Vệ Quốc quân và tự vệ bị thương vong. Các chiến sĩ ngoan cường chặn địch bảo vệ cho chỉ huy sở của tiểu đoàn 212 rời an toàn về Yên Duyên phía nam Ngã tư Trung Hiền 2.500 thước. Bốn giờ chiều, khi quân địch xung phong lần cuối cùng vào các làng mạc xung quanh Ngã tư Trung Hiền thì ở đó chỉ còn lẻ tẻ một vài tự vệ chống cự nghi binh. Chủ lực của ta đã rời khỏi khu vực đó từ lâu. Một lần nữa, giặc Pháp lại dồn sức lực xung phong vào chỗ trống. Trời về chiều, binh lính Pháp bắt đầu lo sợ, hấp tấp khênh những tên chết và bị thương ở rải rác khắp nẻo đường, khắp cánh đồng tập trung về Ngã tư Trung Hiền.

          Phía Ngã tư Vọng, giặc Pháp cũng vấp phải sức chống cự vô cùng quả cảm của quân ta. Hơn 100 xe cơ giới các loại cùng bộ binh từ ô Cầu Dền theo đường Đại Cổ Việt qua Kim Liên tấn công xuống nhà thương Vọng, ở đây, ta có một đại đội thuộc tiểu đoàn 64 ngăn chặn địch. Khẩu súng máy Hốt kít đặt ở góc nhà thương Vọng bắn quét vào bộ binh địch. Chúng phải dừng lại suốt 3 tiếng đồng hồ. Đến 9 giờ, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt đi hai bên đường, thổ phỉ, Việt gian rồi đến lính Pháp đi giữa. Súng trường, súng máy của ta bắn vào thành xe tăng vô hiệu quả, nhưng chúng ta cũng không có một thứ súng nào khác để bắn xe tăng. Tới nhà thương Vọng, bọn Việt gian và thổ phỉ trá hàng. Quân ta thiếu cảnh giác, tưởng thật, có bộ phận rời vị trí ra tiếp nhận. Thình lình chúng trở súng bắn trả lại. Bộ binh địch ở phía sau xung phong ập tới. Từ giờ phút ấy ở nhà thương Vọng, ta và địch vật lộn, đâm chém, giành nhau từng căn nhà, từng bức tường. Có chiến sĩ vung mã tấu chém lia lịa làm cho địch không kịp bắn. Có chiến sĩ bị địch xúm lại vật ngã, đồng chí đó đã rút kíp lựu đạn giết năm, bảy tên giặc một lúc và mình cũng hy sinh. Xe tăng, xe bọc sắt của địch gầm rú, bắn phá dữ dội. Bộ binh địch xung phong liên tiếp, nhưng vẫn chưa chiếm được nhà thương Vọng. Chúng lại tập trung chừng 300 quân từ Trung Phụng, phía tây bắc Kim Liên, bãng qua cánh đồng rồi chia làm hai toán: một toán đánh xuống Khương Thượng cản đường tiếp viện của ta, một toán qua xóm Trại, Phương Liên đánh vào sườn phía tây nhà thương Vọng. Từ ba mặt, giặc Pháp liên tiếp xung phong vào nhà thương Vọng. Mặc dầu đã có hơn 30 cán bộ, chiến sĩ thương vong, các chiến sĩ ở đây vẫn không hề nao núng. Xe tăng địch húc vào tường. Một chiến sĩ ôm bom ba càng từ trong nhà lao vút ra. Thình lình một tiếng nổ dữ dội. Xe tăng của địch bốc cháy. Bộ binh địch lại xô nhau lùi ra. Các chiến sĩ khác ở trên tầng gác ném lựu đạn, bắn súng trường làm bọn chúng chết ngổn ngang. Đánh mãi vẫn không chiếm được, hàng chục tên địch phải bỏ xác tại nhà thương Vọng. Quân địch để lại một bộ phận tiếp tục bao vây tấn công, còn phần lớn lực lượng tiến xuống gần Ngã tư Vọng chia làm hai toán, một toán đánh tạt sang Ngã tư Trung Hiền phối hợp với cánh quân ở Vĩnh Tuy vào, rồi tiến lên chạm trán với quân ta ở Việt Nam học xá. Cuộc chiến đấu ở đó cũng không kém phần quyết liệt như ở nhà thương Vọng. Một toán đánh vào phía đông trường bay Bạch Mai phối hợp với cánh quàn từ phía tây nhà thương Vọng tạt xuống. Hai trung đội thuộc tiểu đoàn 523 chặn địch từng bước, tới Khương Trung, giặc Pháp bị ta bắn chết hơn 20 tên. Chúng phải lui về trường bay Bạch Mai. Ở nhà thương Vọng và nhà Vô luyến điện, quân ta vẫn ngoan cường cố thủ. Để bảo toàn lực lượng, lúc trời vừa tối nhập nhoạng, các chiến sĩ ta ở nhà thương Vọng và nhà Vô tuyến điện vượt khỏi vòng vây của địch, rút lui an toàn.

          Một ngày "đấm vào không khí" vừa hao tốn sức lực vừa chán nản, giặc Pháp dừng lại thu dọn hàng trăm xác lính chết rải rác khắp chiến trường.

         Ngay trong đêm 15 tháng 1, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các tiểu đoàn 523, 56 và 212 dùng những bộ phận ban ngày chưa phải chiến đấu vòng vào sau lưng địch, tấn công Ô Chợ Dừa, ga Hàng Cỏ, ô Cầu Dền, phố Mai Hắc Đế. Tiểu đoàn 145 tấn công về phía Thụy Khuê, Ngọc Hà. Vào khoảng gần nửa đêm, Hà Nội lại vang rền tiếng súng. Thỉnh thoảng có một tiếng bom nổ dữ dội, bốc lên từng đám cháy đỏ rực thành phố.

         Ngày 16 tháng 1, chỉ có một toán địch từ Ô Chợ Dừa định tiến thẳng nối liền với toán quân ở Ngã Tư Sở. Nhưng tới gò Đống Đa bị chặn lại quyết liệt, quân địch phải đi vòng đường cánh đồng để bắt liên lạc với bọn ở Ngã Tư Sở.

          Hai ngày giặc Pháp tập trung sức lực định tiêu diệt chủ lực ta thì hai ngày giặc Pháp phải "hao binh, tổn tướng" xung phong vào chỗ không người, với kết quả là gần 200 tên vừa chết vừa bị thương, 2 xe tăng và 3 ô tô vận tải bị phá hủy. Bất cứ tấn công một mục tiêu nào, giặc Pháp đều vu hồi từ hai - ba mặt và khi điều kiện có thể thì chúng tránh hành binh theo đường cái (vì trên đường cái lớn, ta phá hoại, đắp ụ thành chướng ngại vật) mà tiến vòng hoặc băng qua cánh đồng đánh vào bên sườn hoặc sau lưng quân ta. Nhưng lần này quân ta đã có nhiều tiến bộ về bố trí cố thủ, ngoan cường chặn địch như ở nhà thương Vọng, Việt Nam học xá, gò Đống Đa, và đã khéo léo chiến đấu cơ động, nghi binh để chủ lực của ta tránh đương đầu với chủ lực của địch nhằm chỗ yếu, chỗ sơ hở để tiêu hao, tiêu diệt chúng. Nhưng nếu ngay trong đêm, khi quân địch vừa tạm dừng lại, ta biết tổ chức tập trung lực lượng mạnh tập kích bất ngờ, có trọng điểm vào những toán địch hoặc cơ quan chỉ huy của chúng đang chủ quan sơ hử thì cũng có thể tiêu diệt sinh lực địch được nhiều hơn nữa.

          Phối hợp với tuyến ngoài, Liên khu I đã phản công đánh bật địch ra khỏi chùa Ấn Độ, phố Hàng Khoai, sân vận động Hoa kiều... Tại khu Đông Thành, đồng chí Bạch Ngọc Liễn đã cùng đơn vị của mình dùng súng trường "rơ-manh-tông" và một khẩu trung liên bắn rơi một máy bay khu trục của địch. Trong lòng Hà Nội luôn luôn có tiếng súng nổ, buộc kẻ địch phải chia sẻ một phần máy bay và một số bộ binh, cơ giới để đối phó với Liên khu I ở phía sau lưng một cách chật vật.

          Giữa những ngày ấy, có một buổi trưa, đồng chí Trần Quốc Hoàn cùng Bộ chỉ huy mặt trận lại ra bờ sông Hồng phía bắc Hà Nội đứng nhìn vào Liên khu I, bàn bạc về tình hình khó khăn, thiếu thốn ở trong ấy. Đồng chí Hoàn nói: "Tôi dự định sẽ vào thăm Liên khu I". Thấy các đồng chí trong Bộ chỉ huy cũng muốn vào, đồng chí Hoàn tỏ vẻ ngần ngại, nói tiếp:

          - Đồng chí Vương Thừa Vũ phải ở ngoài. Trong lúc tình thế đang quyết liệt, cả mấy người cùng vào lỡ xảy ra việc gì thì làm thế nào. Hơn nữa, còn mấy tiểu đoàn ở tuyến ngoài mà chỉ huy đi cả thì không được.

Mọi người đứng yên lặng tỏ vẻ lo lắng băn khoăn, nhưng vẫn muốn được vào thăm Liên khu I.

          Hôm ấy, Bộ chỉ huy mặt trận được tin: giặc Pháp đã đánh hơi thấy ta có một khẩu pháo 37 ly và một khẩu pháo 75 ly ở Thủ Khối mới chuyển sang Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ và chỉ huy sở của tiểu đoàn 212 cũng ở đó, chúng chuẩn bị "cất vó" quân ta. Bộ chỉ huy mặt trận cấp tốc phổ biến tình hình cho đơn vị và bố trí kế hoạch đánh lại chúng. Tình hình vẫn không có gì thay đổi, tướng tá Pháp mừng thầm ra lệnh: xuất quân! Ban đêm trời tối mịt mùng, 2 ca nô của giặc chở đầy quân lặng lẽ xuôi dòng sông Hồng, 2 giờ 30 sáng, giữa lúc dân làng đang ngủ say, thôn xóm mờ mờ trong đêm, 2 ca nô của địch bắt đầu nã pháo, xả súng máy vào xóm bờ sông, rồi vội vã cập bến định cho quân đổ bộ lên bờ cướp không 2 khẩu pháo của ta. Nhưng "vỏ quýt dày gặp móng tay nhọn". Một trung đội bộ binh của ta đã đào sẵn giao thông hào, chiến hào, bố trí sẵn súng máy, suốt đêm thao thức chờ đợi trừng trị cho quân ăn cướp một đòn đích đáng. Các chiến sĩ vẫn bình tĩnh im lặng, làm như trên bờ không có người. Ca nô của địch lừ lừ vào sát bờ, đột nhiên súng máy của ta nhả đạn như trút vào đầu giặc. Quân địch nhốn nháo, đứa nhảy xuống sông, đứa chết, đứa bị thương, kêu la inh ỏi trong chiếc "quan tài" nổi dập dềnh dưới mặt sông rồi chìm nghỉm. Chiếc ca nô khác vội vã rút chạy. Tuy nhiên, tướng tá Pháp vẫn còn hy vọng ở cánh quân tiến theo bờ đê với nhiều Thủ đọan nham hiểm may ra có thể "làm ăn" được chăng? Bọn thực dân xâm lược cáo già ngoài lối đánh ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí, chúng còn dùng những mưu gian chước quỷ đế đối phó với ta. Chúng cho một số Việt gian và thổ phỉ mặc quần áo giả làm chiến sĩ Vệ Quốc quân đem súng máy vào đình làng Nam Dư Thượng bố trí sẵn. Quân ta không biết, vì trước đó hơn một giờ ta cũng có một bộ phận đánh ca nô địch ở bờ sông rút về. Trời sáng, địch xung phong vào Nam Dư Thượng. Quân ta đang tập trung ngăn chặn địch ở phía trước, đột nhiên có súng máy bắn vào sau lưng. Biết ngay là giặc, quân ta bình tĩnh đợi chúng tới gần, lập tức nhảy lên đánh giáp lá cà. Tiếng thét của chiến sĩ ta vang khắp xóm làng. Bọn địch khiếp sợ. Sau một giờ vật lộn quyết liệt với giặc, hơn 20 tên địch bị diệt, bên ta hơn 10 chiến sĩ bị thương vong. Quân địch phải giãn ra. Ta phá vòng vây rút về Yên Duyên. Xe tăng, bộ binh địch đuổi theo, tiếp tục tấn công xuống Nam Dư Hạ. Chúng vừa bắn, vừa tiến. Một vài chiến sĩ ta đã bị thương, nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, đợi xe tăng địch đến gần, bất ngờ các chiến sĩ pháo binh ngắm qua nòng pháo bắn đổ một xe tăng địch. Súng máy của ta quét ngang sườn. Bọn địch nằm lại bắn lung tung, thu dọn xác chết rồi lục tục rút lui về Vĩnh Tuy mang theo hơn 30 tên vừa chết vừa bị thương. Thật là kẻ cướp có đi mà không về! Rất tiếc là đơn vị này không có bom mìn chôn trên đê phá hủy xe tăng địch vì đường đê cao và chật hẹp, một chiếc xe đổ là cả đoàn xe phải dừng lại.

          Để mừng một tháng kháng chiến thắng lợi của quân dân thủ đô, phía tây bắc Hà Nội, pháo binh của ta lập thêm một chiến công mới. Sau một đêm lặn lội, các pháo thủ cùng anh em dân quân đã khiêng, vác khẩu pháo 75 ly vượt sông Hồng sang bố trí ở địa phận Nghi Tàm. Khoảng 2 giờ chiều ngày 19 tháng 1, khẩu pháo "ẩn hiện, bất ngờ" ấy nổ hơn 20 phát đạn vào trường Bưởi. Trận tập kích táo bạo bằng hỏa lực giữa ban ngày đã làm cho giặc Pháp bị thiệt hại nặng và thêm một mối lo sợ mới.

          Ban đêm, trong và ngoài Hà Nội tiếng súng lại nổ ran. Có nơi chỉ có một, hai chiến sĩ bỏ pháo vào thùng sắt rồi đốt rải rác suốt đêm. Địch cho là ta nghi binh quấy rối. Chúng ngủ yên không buồn bắn trả lại. Các chiến sĩ bí mật bò lọt vào giữa vị trí giặc ném lựu đạn, tẩm étxăng vào chăn đốt cháy vị trí, rồi rút lui. Ở nội thành, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên đỉnh Tháp Rùa và trên nóc nhà một số vị trí của địch ở Hàng Gai, Hàng Trống. Ngoại thành cờ đỏ phấp phới trên ngọn tre, thành cầu, ụ đất chướng ngại vật. Cả Hà Nội tưng bừng kỷ niệm một tháng kháng chiến thắng lợi.

Hôm ấy, đồng chí Nguyễn Văn Trân và đồng chí Trần Độ cùng các đoàn úy lạo binh sĩ đem quà bánh đi các đơn vị thăm hỏi bộ đội và thương binh. Tới Văn Điển, đồng chí Độ gặp một thương binh cụt một chân và hai tay. Chiến sĩ ấy vẫn tươi cười hồn nhiên kể lại:

          - Anh ạ, lúc ấy một quả moócchiê rơi trúng vào tổ chúng tôi. Một cậu hy sinh ngay. Còn tôi thì mê đi, tưởng chết... Nhưng cũng may... chỉ cụt thôi.

          Cũng thời gian này, có một cô gái trẻ tuổi ở Hà Nội xung phong vào Vệ Quốc Đoàn làm cứu thương. Ngày ngày, cô săn sóc đồng chí thương binh này. Năm tháng tận tụy chăm lo sức khỏe cho người thanh niên đầy tinh thần hy sinh cao cả, dần dần cô xúc động, từ tình thương chuyển sang niềm mến yêu sâu sắc... Đầu năm 1948, đồng chí Độ tới thăm trường lục quân Trần Quốc Tuấn ở Việt Bắc, qua một nơi hẻo lánh thuộc tỉnh Thái Nguyên, đồng chí vô cùng bất ngờ khi gặp lại hai người bạn chiến đấu, anh thương binh cụt ở Văn Điển và người nữ cứu thương Hà Nội năm xưa. Hai người cùng công tác tĩnh tại ở hậu phương và đã sinh được một cháu chừng một tuổi.

          Ngày hôm sau, giặc Pháp huy động trên một ngàn quân cùng hàng trăm xe cơ giới có máy bay, pháo binh yểm hộ, tiến công về phía tây Hà Nội. Rút kinh nghiệm những trận chiến đấu trước, lần này quân và dân Hà Nội đã chiến đấu vô cùng kiên cường ở khu vực nhà Bơrigát Môbin1 (Nay là khu vực khu tập thể Viện chống lao), làng Ngọc Khánh nhỏ bé, đánh bật các đợt xung phong của địch, cuối cùng lại khéo léo rút đi nơi khác. Hàng trăm tên giặc xông lên không tìm thấy một chiến sĩ của ta. Đến nỗi chúng phải kêu lên: "Ôi! Ma Việt Minh", ở Cầu Giấy, giặc Pháp bị đánh hỏng một xe tăng, hơn một chục tên bị diệt. Hơn một trăm tên giặc từ Ngã Tư Sở dấn thân vào giữa ổ phục kích của một trung đội Vệ Quốc quân ở Hòa Mục, bị tiêu diệt gần hết. Các pháo thủ pháo đài Láng đã dùng lựu đạn, súng trường chống cự với quân giặc gần một ngày để bảo vệ pháo. Pháo binh của ta ở Xuân Tảo đã anh dũng hạ thấp nòng pháo bắn tạt sườn bộ binh địch.

          Hàng ngàn tên giặc tấn công hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta. Nhưng ngược lại, chúng đã bị tiêu diệt hàng trăm tên, 2 xe tăng bị hỏng, 2 xe gíp bị phá hủy. Bên ta hy sinh 15 chiến sĩ, bị thương 21. Giặc Pháp đã tập trung ưu thế tuyệt đối hơn ta về bộ binh, xe tăng và máy bay nhưng vẫn không tiêu diệt nổi quân ta. Mỗi vị trí phòng ngự của ta, giặc Pháp đều từ ba, bốn mặt đánh lại. Có nơi chúng tập trung quân nhiều hơn ta gấp 8 lần, nhưng cũng đều bị chặn lại từ 8 đến 12 tiếng đồng hồ. Đến khi quân giặc xung phong được vào làng thì ở đó chỉ còn "vườn không, nhà trống". Quân ta đã luồn đi nơi khác từ lâu để bảo toàn lực lượng. Nhưng ta vẫn còn có một nhược điểm lớn là trừ mấy chai étxăng cơrếp và một ít lựu đạn ra, ta hoàn toàn không có một thứ vũ khí gì khác để chống xe tăng địch. Đường cái lớn và cánh đồng khô mênh mông liên tiếp, ụ đất và hào chống tăng giảm tác dụng. Tình hình thực tế lúc đó lại không cho phép chúng ta tập trung lực lượng về một hướng và cũng khó có khả năng chặn đứng địch lại bẻ gãy hoàn toàn cuộc tấn công của chúng. Cho nên tư tưởng chỉ đạo của ta vẫn là "tránh mạnh, đánh yếu", phòng ngự ngăn chặn địch từng bước, tiêu hao địch, bảo toàn mình, vừa đánh vừa xây dựng lực lượng để kháng chiến lâu dài, giành thắng lợi cuối cùng cho công cuộc kháng chiến cứu nước chống thực dân xâm lược.

          Sau đợt tấn công này của địch, Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy mặt trận cùng nhất trí nhận định rằng: chắc chắn địch sẽ tiếp tục tập trung lực lượng tấn công đánh chiếm Nhật Tân để hoàn thành chiếm đóng con đường vòng cung ngoại thành Hà Nội, kiểm soát loàn bộ các ngã tư, các cửa ngõ của Hà Nội. Sau đó chúng sẽ tập trung quân tiêu diệt ta ở Liên khu I. Tình hình chiến đấu ở Liên khu I sẽ trở nên vô cùng ác liệt.

          Đêm 20 tháng 1, một đêm trời tối mờ mờ... Gió rét căm căm... Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Lê Quang Đạo và Việt Hùng đi theo ven sông Hồng phía Phúc Xá, qua gầm cầu Long Biên vào thăm Liên khu I. Đồng chí Hoàn nói chuyện tình hình mặt trận bên ngoài, phân tích tình hình sắp tới với các cán bộ và chiến sĩ. Đồng chí thăm thương binh ở phố Hàng Buồm, Hàng Đường. Đêm hỏm đó, đồng chí được trực tiếp nghe tiếng súng phối hợp của Liên khu I và tiếng súng của các tổ du kích lưu động đánh địch ở phía Nhà Tiền và Ngọc Hà. Lúc đồng chí trở ra, trung đoàn Thủ đô gửi tặng Bộ chỉ huy mặt trận một chiếc đồng hồ báo thức. Khi luồn qua gầm cầu Long Biên, địch chiếu đèn pha, bắn súng máy chẹn đường. Các đồng chí đang bò, lăn tránh đạn, đột nhiên chuông đồng hồ kêu vang lên. Đèn pha của địch quét sáng loáng gầm cầu, ánh bạc của đồng hồ phản chiếu lóe lên. Quân địch tập trung súng máy, súng cối bắn vào phía các đồng chí. Trong giây lát các chiến sĩ du kích dẫn đường đã khéo léo đưa các đồng chí vượt qua luồng đạn nguy hiểm, đi vào lối an toàn. Nhưng tiếc thay, chiếc đồng hồ kỷ niệm ấy đã ở lại gầm cầu Long Biên.

          Thấm thoắt tết Âm lịch đã đến!

          Trải qua hơn một tháng trời thử thách, vượt gian nan thiếu thốn, chiến thắng hiểm nghèo để chiến đấu giam chân địch, lần đầu tiên quân và dân thủ đô Hà Nội đón xuân mới trong không khí tưng bừng kháng chiến. Trên khắp các nẻo đường, từng tốp từng tốp, người mặc áo nâu, người mặc áo xanh công nhân hớn hở gồng gánh bánh chưng, bánh cốm, cam quýt, và nhiều quà bánh khác ra tận chiến hào, ụ súng tặng các chiến sĩ Vệ Quốc quân và dân quân tự vệ. Hàng trăm lá thư chúc tết của các đoàn thể chính quyền gửi ra động viên tiền tuyến. Đội du kích Hồng Hà, những anh chị em công nhân, nông dân ở các làng Tân Lập, Nghĩa An, Nghĩa Dũng và Phúc Xá lại sửa soạn ra đi. Đêm 30 Tết, trời tối mịt mùng, gió rét thấu xương. Những anh chị em công nhân, nông dân kiên cường ấy lặng lẽ đi ven theo bờ sông Hồng, vượt qua gầm cầu Long Biên, chuyển quà và thư của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ chỉ huy mặt trận và của đồng bào xung quanh Hà Nội vào Liên khu I. Bất ngờ, đội du kích vấp phải hàng rào dây thép gai chắn ngang. Tiếng ống bơ kêu soang soảng. Bầy chó xích ở gầm cầu sủa rống lên từng hồi. Địch rọi đèn pha loang loáng trên mặt sông, trên bãi cát. Chỗ nào có một gợn chấm đen, địch đổ vào đó hàng thúng đạn. Nhưng các chiến sĩ du kích đã khôn khéo bò lẩn tránh luồng đạn của địch và đến khi họ đã đi khá xa rồi, mà phía gầm cầu Long Biên vẫn nổ ran tiếng súng. Đón giao thừa, chúc mừng năm mới, đêm 30 rạng ngày mồng 1 Tết, các đơn vị trong Liên khu I cũng như các đơn vị bám sát vòng quanh Hà Nội đều biệt kích, tập kích, quấy rối đốt phá kho tàng, vị trí của giặc. Tiếng súng, tiếng pháo rền vang khắp bầu trời Hà Nội. Cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên đỉnh Tháp Rùa, giữa hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội lại một đêm không ngủ. Đồng bào, chiến sĩ chuyện trò ấm cúng trong gia đình kháng chiến: chuyện Tết chiến thắng oanh liệt của Quang Trung từ ngót hai trăm năm về trước, ngày nay gò Đống Đa còn ghi dấu anh hùng, tô điểm cho Hà Nội càng thêm rạng rỡ; chuyện chiến thắng vĩ đại Xtalingờrát của quân đội Xô viết trong đại chiến thứ hai; chuyện vạn lý trường chinh vĩ đại của quân Giải phóng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đứng đầu là Mao Chủ tịch; chuyện tết của các chiến sĩ cộng sản ở trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo rồi đến chuyện gia đình, chuyện ước mơ về tương lai nước nhà độc lập, cuộc đời ngày càng ấm no hạnh phúc... Các chị tiếp tế, cứu thương thức suốt đêm làm bánh, làm mứt, viết thiếp chúc Tết, làm những chiếc hoa bằng lụa, chuẩn bị liên hoan và làm quà tặng các chiến sĩ. Các chị không quên dành riêng những tấm bánh thơm ngon, những bông hoa tươi đẹp cho những chiến sĩ có nhiều chiến công oanh liệt và cho người thân yêu nhất.

          Sáng ngày mồng 1 Tết Nguyên đán, ở các căn nhà sụp đổ, trong hầm hố, chiến hào, các chiến sĩ đã trang hoàng xong bàn thờ Tổ quốc, một lá cờ đỏ sao vàng nho nhỏ và bức chân dung Hồ Chủ tịch. Ngoài ra họ không quên đốt thêm đèn nến trang nghiêm, hương trầm thơm ngát, cho đượm không khí gia đình. Đó là cái Tết đầu tiên của cuộc kháng chiến lâu dài và cũng là lần đầu tiên trong cuộc đời các chiến sĩ ăn Tết ngay nơi tiền tuyến, xa gia đình, xa người thân nên họ không khỏi nhớ thương gia đình ruột thịt đang phải tản cư ở những nơi xa xôi nào đó. Nhưng cũng lần đầu tiên họ được hưởng cái không khí đầm ấm, đùm bọc lẫn nhau của những người đồng chí ra đi chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc. Chính trong giờ phút đầm ấm và thiêng liêng nhất ấy trên chiến địa, các chiến sĩ quây quần bên nhau lắng nghe thư của Bác:

          "Cùng các chiến sĩ yêu quỷ trung đoàn Thủ đô. Các em ăn Tết thế nào? Vui vẻ lắm chứ? Tôi và nhân viên Chính phủ vì nhớ đến các em cho nên cũng không ai nỡ ăn Tết. Còn 90 phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng tiết kiệm để dự bị công cuộc trường kỳ kháng chiến.

          Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc la mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hiũig Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau.

          Chí kiên quyết dũng cảm, các em đã sẵn có, đây tôi chỉ nhắc lại một vài điều mà các em phải nhớ luôn luôn:

1. Phải hết sức khôn khéo, nhanh chóng, bí mật, phải biết hóa chỉnh vi linh.

2. Phải rút kinh nghiệm hàng ngày, hàng giờ. Phải đề phòng Việt gian, trinh thám.

3. Phải hết sức cẩn thận. Phải luôn luôn cố gắng có sáng kiến để lợi dụng thời cơ.

4. Tuyệt đối đoàn kết.

Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng Chính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn luôn ở bên cạnh các em.

Tôi thay mặt Chính phủ và đồng bào gửi các em lời chào thâi ái và quyết thắng".

HỒ CHÍ MINH

 

          Nghe thư Bác, các chiến sĩ cảm động sung sướng nhớ từng lời, từng chữ ân cần âu yếm của cha già đối với các con, của vị lãnh tụ lão thành cách mạng đối với các chiến sĩ. Khí thế chiến đấu bừng bừng ở các đơn vị.

          Tối mồng 1 Tết Đinh Hợi, Ban chỉ huy trung đoàn Thủ đô tổ chức một bữa tiệc long trọng, địa điểm tại ngôi biệt thự cổ Anh Hoa ở phố Hàng Chiếu, có mời lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Hoa và các đại biểu ngoại kiều tới dự với mục đích bóc trần luận điệu bịp bợm huênh hoang của giặc Pháp là Việt Minh ở Hà Nội đang lâm nguy khốn quẫn, chúng đã làm chủ tình thế ở Hà Nội, v.v. Trong phòng tiệc, khăn trải bàn trắng xóa. Trên tường có trang hoàng những băng khẩu hiệu vải đỏ, chữ vàng ánh bằng giấy trang kim. Chính giữa có treo bức chân dung Hồ Chủ tịch. Trong bữa tiệc, đồng chí Bùi Nguyên Cát, thay mặt các cấp chỉ huy của Liên khu I, đứng lên nói:

          - Việc cầm súng kháng chiến của nhân dân và quân đội chúng tôi là chính nghĩa và chúng tôi nhất định sẽ được sự ủng hộ của nhân dân Pháp cũng như nhân dân thế giới. Chúng tôi quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Cuối cùng đồng chí chúc mừng sức khỏe của các lãnh sự Anh, Mỹ và Trung Hoa nhân dịp năm mới.

          Bữa tiệc hôm ấy đã làm cho các đại biểu nước ngoài không khỏi ngạc nhiên và khâm phục. Viên lãnh sự Mỹ phải thốt lên với một giọng xiểm nịnh: "Kiên trì! Kiên trì! Các ông sẽ là người chiến thắng".

          Viên lãnh sự Anh, lãnh sự Trung Hoa1 (Trung Hoa thời kỳ Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch) tỏ lời cảm ơn trung đoàn Thủ đô đã bảo vệ và giúp đỡ ngoại kiều. Lãnh sự Anh nói: "Thế giới sẽ biết đến sự tôn trọng luật pháp của nước Việt Nam".

          Các đại biểu đều thấy Liên khu I không chết đói dần mòn như giặc Pháp xuyên tạc, ngược lại các chiến sĩ thủ đô đã hiên ngang với bộ quân phục kháng chiến trên mũ có đính phù hiệu.

          Các chiến sĩ thủ đô đã nói lên những lời đanh thép bằng những chiến công vẻ vang và đã lớn lên không ngừng trong khói lửa. Trung đoàn Thủ đô còn ở trung tâm Hà Nội thì giặc Pháp còn lúng túng, chưa thể rảnh tay đánh ra hậu phương ta được.

          Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội ngày đêm vò đầu bóp trán, tìm mọi mưu kế hòng tiêu diệt trung đoàn Thủ đô. Muốn vậy, trước tiên chúng sẽ tiến đánh Nhật Tân, Nhật Tảo ở ngoại thành về phía tây bắc Hà Nội, vừa để chiếm nốt con đường vòng cung, vừa để phá vỡ và chiếm đóng căn cứ xuất phát tiếp tế mọi mặt cho trung đoàn Thủ đô ở trong Liên khu I.

          Nắm chắc được âm mưu của địch, Bộ chỉ huy ra lệnh cho các đơn vị ở phía tây bắc Hà Nội bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Những đơn vị đóng lẻ đề phòng địch bao vây. Đồng thời Bộ chỉ huy cũng ra lệnh cho trung đội pháo binh 75 ly ở Ba Đê vượt sông Đuống bí mật tiến về phía đông Hà Nội, dùng hỏa lực bất ngờ tập kích sân bay Gia Lâm đỡ đòn cho hướng tây bắc và cũng là để giáng một đòn bất ngờ vào nơi địch chủ quan sơ hở.

          Suốt ngày 25 tháng 1, ở phía tây bắc Hà Nội đã diễn ra những trận đánh quyết liệt. Nhưng rất đáng tiếc là trước đó tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 145 đã không nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh rút quân ở Tứ Tổng ra bố trí ở Nhật Tân, nên đơn vị đó đã bị tổn thất nặng. Tiểu đoàn trưởng đã bị Bộ chỉ huy mặt trận thi hành kỷ luật. Tuy nhiên, các chiến sĩ ở Tứ Tổng đã chiến đấu rất anh dũng giành giật với địch từng bờ ao, góc chuối, tiêu diệt gần 40 tên địch rồi ban đêm vượt hồ Tây về khu vực Cáo Đỉnh. Các đơn vị ở Xuân Tảo đã dùng thuật "chuyển thoái vi công" rút lui cho địch đuổi theo, đơn vị khác ở Đông Khu đã lao ra đánh tạt sườn, một bộ phận ở Cáo Đỉnh đánh thẳng xuống. Hai mặt phối hợp phản kích dồn dập tiêu diệt trên 30 tên địch. Bên ta hy sinh 2, bị thương 5. Cuộc chiến đấu tiếp diễn nhiều nơi khác xung quanh khu vực Nhật Tân.

         Phía Gia Lâm, khoảng hơn 4 giờ chiều, trung đội pháo binh của ta đã bố trí chiếm lĩnh xong trận địa bắn, cách sân bay của địch chừng 400 thước. Vừa lúc đó 2 chiếc máy bay khu trục kiểu "xpit-phai" vừa đi oanh tạc về, lần lượt hạ cánh xuống đường băng. Pháo binh của ta nhằm thẳng vào con quạ sắt hung ác đó, bắn 8 phát liền, chiếc thứ nhất bốc cháy. Ta quay súng bắn tiếp chiếc thứ hai. Sau 10 phát đạn nữa, chiếc thứ hai cũng gục xuống thảm hại. Khói đen ùn ùn bốc lên. Trận đánh trường bay Gia Lâm, một trận đánh tiếp cận táo bạo bằng pháo binh của quân đội cách mạng đã làm cho giặc Pháp phải khiếp sợ. Đối với chúng, cả Hà Nội không ở đâu có thể nói là yên ổn hoàn toàn.

Tiến đánh Nhật Tân, giặc Pháp đã huy động lực lượng nhiều hơn ta gấp bốn lần, nhưng chúng đã bị tiêu diệt gần một phần ba. Quân ta lại trưởng thành dày dạn thêm một bước.

Từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 25 tháng 1 năm 1947, qua 12 ngày chuẩn bị và tấn công, giặc Pháp tiến thêm từ một đến hai cây số chiều sâu, chiếm con đường vòng cung ngoại thành. Chúng đã bị tiêu diệt hàng trăm tên, bị phá hủy và làm hư hỏng 5 xe tăng, 3 ô tô vận tải, 2 xe gíp và bị đánh đắm 1 ca nô. Trong Liên khu I, hàng chục lô cốt, nhà cửa của địch bị sụp đổ, hàng trăm tên địch bị tiêu diệt, cả thảy 5 máy bay của địch đã bị ta bắn hỏng. Hà Nội anh dũng kháng chiến được 1 tháng 6 ngày.

Ngày 26 tháng 1, Đảng ủy mặt trận họp để nghe phổ biến nhận định tình hình của Bộ Tổng chỉ huy. Sau đó Đảng ủy mặt trận họp phân tích thêm:

          1. Địch sẽ củng cố vòng đai ngoại thành bảo vệ cho Hà Nội.

          2. Tập trung lực lượng tiêu diệt quân dân ta ở Liên khu I;

          3. Mở đường tấn công về phía nam, phối hợp với đường thủy từ Hải Phòng tới giải vây cho bọn ở Nam Định.

          Bộ Tổng chỉ huy còn phổ biến tình hình phối hợp của các chiến trường trên toàn quốc. Đặc biệt ở Bắc Bộ, quân ta hoạt động mạnh ở Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, siết chặt vòng vây ở Nam Định... cũng là thiết thực chi viện cho nhiệm vụ tiếp tục giam chân địch ở Hà Nội một thời gian nữa.

          Dư luận của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới liên tiếp lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, phản đối giặc Pháp khủng bố tàn sát một dân tộc chỉ muốn hòa bình, độc lập, tự chủ. Đảng Cộng sản Pháp đấu tranh với chính phủ phản động Pháp đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu ở Đông Dương, vận động binh lính, thanh niên Pháp đòi hồi hương và không đi lính để chúng không tăng cường được quân số sang Việt Nam, vận động giai cấp công nhân không vận chuyển đạn dược sang Việt Nam. Các báo chí tiến bộ trên thế giới cũng lên án "những kẻ sát nhân đã gây ra ở Đông Dương một đám cháy, nó có thể lan rộng ra khắp các đất đai hải ngoại thuộc Pháp" (báo Franc - Tireur) và bình luận: "Sự xung đột Việt - Pháp chứng tỏ một dự định xâm lược của bọn đế quốc ăn khớp với bọn phát xít còn sống sót để lập lại độc quyền và sự bóc lột thuộc địa... Dân tộc Việt Nam tranh đấu để chống lại sự xâm lược mới của đế quốc, ngăn cản những sự phá hoại của bọn thù nghịch chế độ dân chủ" (một tờ báo Trung Hoa thời đó). Ngoài ra một số báo chí của ta còn đăng lời phát biểu của ông Ginnan, Chủ tịch liên đoàn Hồi giáo có bày tỏ thiện cảm của nhân dân Ân Độ với cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam. Ông nói: "Tôi cầu chúc các bạn thực hiện được nguyện vọng của các bạn và giành được tự do".

          Rõ ràng ngọn cờ đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam ngày càng được giương cao, càng được dư luận tiến bộ trên thê' giới ủng hộ. Niềm tin sắt đá của quân dân thủ đô Hà Nội càng được củng cố. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ về dân tộc Việt Nam.

          Để quán triệt nghị quyết của Đảng ủy, chuyển biến tư trưởng cho cán bộ và chiến sĩ, ngay sau đó, Bộ chỉ huy mặt trận phổ biến kế hoạch tác chiến tới các đơn vị1 (Phụ lục - Trích kế hoạch tác chiến. Bút ký chiến sự lục. Khu II, trang 125, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng). Một kế hoạch có nhiều bước tiến mới về tổ chức và tư tưởng chiến thuật. Tiếp đến ngày 29 tháng 1, Bộ chỉ huy ra lệnh cho tiểu đoàn 523 đưa một tổ quyết tử lên giữ nhà thờ Giáp Bát và chuẩn bị đánh lại cuộc tấn công mới của địch. Ngày 2 tháng 1 năm 1947, giặc Pháp tấn công xuống Nam Dư Hạ, Khuyến Lương bị diệt 15 tên. Cánh quân tiến xuống Giáp Bát, Giáp Tứ bị diệt 49 tên. Cuộc tấn công hoàn toàn thất bại, giặc Pháp phải trở về vị trí cũ. Giặc Pháp chiếm thêm một thước đất Hà Nội, thêm một tên phải bỏ mạng. Quân và dân thủ đô Hà Nội đã kháng chiến giam chân địch hơn một tháng trời, tiêu diệt hàng ngàn tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới các loại.

          Sự huênh hoang khoác lác của Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội đã thất bại nặng nề và thảm hại. Từ kế hoạch 24 tiếng đồng hồ chiếm xong Hà Nội(!) đến một tuần lễ chiếm xong Hà Nội hoặc chiếm Hà Nội dễ như trở bàn tay(!). Nhưng nay đã trên 1.000 giờ, Hà Nội vẫn nắm chắc tay súng chĩa thẳng vào mặt quân thù, tự hào và anh dũng. Liên khu I vẫn giương cao ngọn cờ chiến thắng trong trung tâm thủ đô Hà Nội. Tướng tá Pháp ở Hà Nội càng thêm cay cú và tràn ngập lo âu. Chúng bắt đầu tập trung quân chuẩn bị những đợt tấn công quy mô lớn để tiêu diệt lực lượng ta ở Liên khu I. Chúng tung Việt gian, thổ phỉ lẩn vào dân chúng các phố để điều tra, phá hoại. Máy bay, pháo binh, súng cối của chúng trút hàng tấn bom đạn xuống các chiến hào, ụ đất, trận địa của Liên khu I. Trung tâm Hà Nội ngày đêm khói lửa mịt mùng. Bộ chỉ huy Pháp, vẫn "chứng nào tật ấy" huênh hoang tuyên bố: "Việt Minh ở Hà Nội đang lâm vào vòng khốn quẫn, việc đánh chiếm tiêu diệt Việt Minh ở thành phố Hà Nội chỉ còn tính ngày tính giờ"(!)

Nhưng không, quân và dân Liên khu I sẵn sàng đánh lại quân xâm lược những đòn quyết liệt. Quân và dân Hà Nội sẵn sàng tiếp tục viết nên những trang sử vẻ vang và oanh liệt của thủ đô anh hùng.

 

NHỮNG CHIẾN CÔNG KỲ DIỆU

          Một chấm đỏ rực rỡ nổi lên chính giữa màu xanh hoen ố và quái gở. Đó là Liên khu I anh dũng và kiên cường chiến đấu trong lòng địch. Trước tấm bản đồ Hà Nội trải phẳng phiu trên mặt bàn, đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp chăm chú và cẩn thận vẽ thêm những nét mới, rồi phân tích về những dự kiến tình hình sắp tới sẽ diễn ra trong trung tâm Hà Nội. Trước tiên chúng có thể đánh chiếm nhà Xôva1 (Nay là trường phổ thông Nguyễn Huệ) (Sauvage) và trường Ke2 (Nay là trường Trần Nhật Duật) (Quai) là hai vị trí của ta ở phía đông Liên khu I. Nếu Nhật Tân, Nhật Tảo là căn cứ xuất phát và bảo vệ đường dây tiếp tế, thì nhà Xôva và trường Ke là vị trí bảo vệ cửa ngõ của trung đoàn Thủ đô. Chiếm được hai vị trí này, giặc Pháp sẽ hoàn toàn khép chặt vòng vây đối với Liên khu I. Sau đó chúng sẽ tập trung lực lượng tấn công chia cắt Liên khu I ra từng mảng nhằm tiêu diệt toàn bộ trung đoàn Thủ đô, thẳng tay đàn áp đồng bào ta ở trong đó. Thật là nham hiểm và ngông cuồng. Chúng hí hửng tin rằng sẽ làm được như thế. Trung đoàn Thủ đô ở Liên khu I sẽ không còn một chỗ nào dựa lưng để chống cự và tất nhiên sẽ không thể có một người lọt ra ngoài vòng vây dày đặc. Tiêu diệt quân chủ lực của ta, đó là một ước vọng mà từ khi nổ súng gây chiến ở thủ đô Hà Nội, bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp vẫn chưa mảy may đạt được.

         Từ trước, đã nhiều lần quân địch thập thò tấn công nhà Xôva. Nhưng mỗi lần pháo binh, súng cối bắn phá, xe tăng dẫn bộ binh từ nhà Bác Cổ lên đều bị bộ đội và tự vệ của ta ở phố Trần Quang Khải chặn đánh. Nhà Xôva cao hai tầng, đường Trần Quang Khải chạy qua trước mặt. Phía trước có con đê nhỏ và thấp, và từ đê trũng hẳn xuống ra giáp sông Hồng. Địa thế dân quân để tấn công rất hạn chế. Lợi dụng thế có lợi, các chiến sĩ thủ đô đã giữ vững nhà Xôva hơn một tháng trời, đánh lui hàng chục lần tấn công của giặc Pháp. Nhà Xôva gạch ngói tung tóe, tường cửa đổ nát, các chiến sĩ vun đắp lại thành những ụ súng, bờ hào để chiến đấu phòng thủ.

          Đêm ngày 5 tháng 2 năm 1947, hai tiểu đội Vệ Quốc quân ở nhà Xôva và một tiểu đội ở Nha Thuế quan (ở sát nách bên phải nhà Xôva) đi quấy rối địch ở nhà máy nước đá, Nha Giao thông công chính, nhà Bác Cổ gần sáng mới về. Các chiến sĩ mệt mỏi ngủ li bì nhưng đồng chí trung đội trưởng vẫn còn thao thức. Anh nghe thấy tiếng động cơ xe tăng địch tiến dần về phía quân ta. Địch tấn công! Trung đội trưởng phán đoán cả quyết như vậy, lập tức hô các chiến sĩ vùng dậy tiến vào vị trí chiến đấu. Vừa lúc đó đạn pháo binh, súng cối của địch dồn dập bắn tới. Chúng kiềm chế nhà Xôva, tập trung 10 xe tăng, xe bọc sắt tấn công Nha Thuế quan bên cạnh. Các chiến sĩ bình tĩnh đợi địch đến gần đột nhiên nổ súng. Mấy tên hùng hổ đi trước chết gục, bọn còn lại quay đầu chạy trở ra. Sau một giờ chiến đấu, quân địch cho một toán đánh vào sườn Nha Thuế quan. Súng ở xe tăng bắn dữ dội ụ súng của ta. Tiểu đội ta ở đấy rút về tập trung cố thủ nhà Xôva. Địch chiếm Nha Thuế quan làm bàn đạp từ ba mặt tấn công tới. Nhà Xôva khói lửa mù mịt. Giặc Pháp ào ạt xung phong tưởng chừng như sẽ chiếm được vị trí của quân ta trong phút chốc. Nhưng chúng gần tới ria tường, lựu đạn từ nhà Xôva ném ra tới tấp. Tiểu liên, súng trường, súng máy bắn xả vào bộ binh địch. Những con quý độc kêu la ầm ĩ, bọn sống sót chạy tóe ra ngoài nằm bắn trả lại. Suốt hai tiếng đồng hồ và sau bốn lần xung phong, quân địch mới đặt chân được tới tầng dưới của nhà Xôva. Ta rút lên gác dùng lựu đạn ném xuống. Giặc Pháp bắn mạnh vào cửa cầu thang yểm hộ cho đồng bọn lò mò leo lên. Nhưng tên nào thò lên, tên ấy bị bắn chết lăn lông lốc trở xuống. Chúng phun étxăng đốt cháy cầu thang, hòng bức quân ta đầu hàng. Lửa cháy bừng bừng, khói đen tỏa cuồn cuộn mù mịt. Nhân lúc ấy, một chiến sĩ nhảy từ trên tầng gác xuống đống gạch đất đổ tung tóe ở phía sau, chạy về báo cáo với ban chỉ huy tiểu đoàn xin tiếp viện. Ngay sau đó đồng chí tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103 (Trung đoàn Thủ đô gồm có 3 tiểu đoàn: 101, 102 và 103) chỉ huy một trung đội quyết tử luồn theo đường hầm qua phố Phan Thanh Giản đánh thốc vào sau lưng địch và cho một bộ phận ra phố Hàng Tre chẹn đường rút lui của chúng. Bị đánh bất ngờ, giặc Pháp hoảng hốt tháo chạy, xéo bừa cả lên xác những tên chết và tên bị thương. Thừa thắng, quân ta xông ra ném lựu đạn, chai cháy phá hủy xe tăng, xe thiết giáp của địch. Trời vừa sẩm tối, chúng đã rút xa, để lại trên trận địa 25 xác chết... Từ đó, pháo binh của địch thỉnh thoảng lại bất ngờ hằn học đổ đạn vào nhà Xôva.

Ngay đêm hôm ấy, đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp gửi lời khen ngợi tới đơn vị phòng thủ nhà Xôva và các chiến sĩ thủ đô anh dũng chiến đấu trong lòng địch.

          Bị thất bại trong trận đánh nhà Xôva, ngày 7 tháng 2 năm 1947, địch tập trung quân đánh chiếm trường Ke. Chúng dùng xe tăng bịt các ngả đường chặn quân tiếp viện của ta. Em Lai 12 tuổi làm liên lạc đã leo theo ống máng xuống đường về báo cáo với ban chỉ huy tiểu đoàn. Lúc trở về, quân giặc vây bắt em. Nhưng em Lai đã ném lựu đạn chết 3 tên, rồi nhanh như con sóc, em lẩn vào các căn nhà sụp đổ, leo theo ống máng trở về đơn vị. Trận này địch xung phong 8 lần đều bị đánh lui.

          Trong những ngày ở nhà Xôva và trường Ke, ta và địch đang đánh nhau dữ dội thì ở phía tây nam Liên khu I, máy bay của địch giội bom tàn phá phố Hàng Thiếc, và chúng cho quân từ Cửa Đông tiến ra phố Hàng Nón đánh ngược lên nhưng đều thất bại. Ngày 9 tháng 2, giặc Pháp dùng badôca, lựu đạn hỏa mù, étxăng bắn phá thiêu hủy từng tòa nhà. Gạch ngói, xà ngang đổ lấp cả ụ súng, tường hào bị vỡ tung từng mảng. Các chiến sĩ tiểu đoàn 102 đã kiên cường giữ từng góc phố, từng căn nhà. Giặc Pháp 7 lần xông lên và 7 lần phải lùi trở lại. Đồng chí Minh là công an mới chuyển vào trung đoàn Thủ đô, lúc chiến đấu, bị khói lựu đạn địch làm mờ mắt, không nhìn thấy gì, nhưng đồng chí vẫn ở nguyên vị trí hướng về phía địch, lắng nghe thấy hơi có tiếng động chỗ nào đồng chí lại bắn xả vào đó. Kẻ địch khiếp sợ tưởng là ở đó chiến sĩ ta vẫn còn nhiều và đang chăm chú theo dõi từng bước đi của chúng. Chúng phải dừng lại không dám tiến. Đồng chí Trần Đan, đảng viên, một mình dùng lựu đạn cản sáu, bảy đợt xung phong của địch. Nhưng một tai nạn bất ngờ xảy ra. Giữa lúc quân địch đang xung phong, đồng chí đập kíp lựu đạn rồi vung tay lên. Một tiếng nổ ngang đầu, thì ra lựu đạn nổ ngay trên tay, đồng chí Đan bị cụt mất bàn tay phải. Đồng chí tiếp tục dùng tay trái ném luôn quả lựu đạn khác đánh lui đợt xung phong của địch rồi tự băng bó cho mình. Với một tay trái, người đảng viên anh dũng Trần Đan vẫn giữ vững trận địa. Suốt 4 ngày đêm, ta và địch giành giật nhau từng thước đất, chỉ cách nhau một con đường phố nhỏ hẹp chưa đầy 20 thước. Địch phun étxăng, bắn đạn lứa đốt phá dãy phố bên ta. Các chiến sĩ ta dùng chậu hứng étxăng. Ban đêm lẻn sang đốt phá lại dãy phố bên địch. Lửa khói mù mịt ngày đêm. Dãy nhà số chẵn phố Hàng Thiếc, Hàng Nón sụp đổ hàng loạt. Địch đã phải bỏ mạng gần 100 tên mà vẫn không thể nào tiến được. Trong khi đó ở phía nam, quân địch cũng bị ta chặn đánh quyết liệt ở phố Hàng Quạt, phố Cầu Gỗ. Giặc Pháp tấn công ba hướng đều bị thất bại. Vì chúng đã húc đầu vào những nơi mà quân ta đã chuẩn bị công sự chu đáo, hầm hố vững chắc, có đường cơ động bên trong dãy phố. Kẻ địch không có chỗ dân quân, không thực hiện được bao vây, vu hồi. Xe tăng, xe bọc sắt khó hoạt động. Nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là quyết tâm phòng thủ của quân và dân liên khu I rất cao. Sau đó, giặc Pháp chuyển hướng. Chúng tập trung trên 400 quân và hàng chục xe cơ giới các loại chuyển từ ba mặt bao vây tiến đánh chợ Đồng Xuân, với ý định sau đó sẽ thọc thẳng vào trung tâm chỉ huy liên khu I. Chợ Đồng Xuân ở phía bắc liên khu I, đông bắc thành phố Hà Nội. Chợ họp trong 5 nhà lớn thông suốt liền nhau, xung quanh chỉ có chung một tường bao bọc. Ngày 11, 12, 13 tháng 2, giặc Pháp cho máy bay ném bom bắn phá liên tiếp vào khu chợ Đồng Xuân và các phố Hàng Cót, Hàng Lược, Hàng Đường, v.v. Giặc Pháp cho rằng cơ quan đầu não của liên khu I có thể ở phố Hàng Bạc, Mã Mây, Hàng Mắm nên chúng đã trút hàng tấn bom xuống đấy. Pháo binh, súng cối của địch bắn rải rác suốt ngày đêm. Quân địch oanh tạc trong ba ngày liền đã làm 74 Hoa kiều bị chết và hàng chục đồng bào ta bị thương.

          Đoán trước âm mưu địch, Ban chỉ huy trung đoàn Thủ đô đã điều động về khu chợ Đồng Xuân và xung quanh đó hai đại đội để phòng thủ. Hai tiểu đội bố trí tại chợ, hai tiểu đội sau chợ. Phía bắc chợ, một trung đội bố trí ở phố Hàng Khoai, Hàng Rươi, đông nam chợ, một trung đội ở phố Hàng Gạo, v.v. Ban chỉ huy tiểu đoàn 101 và một trung đội làm dự bị đóng ở phố Hàng Đường và phố Ngõ Gạch.

          Mờ sáng ngày 14 tháng 2, máy bay của địch lại tiếp tục ném bom bắn phá, pháo binh, súng cối của địch lại bắn liên tiếp vào chợ Đồng Xuân và các phố xung quanh. Chúng tiến ba mặt. Một cánh quân có 5 xe tăng dẫn đầu, từ cầu Long Biên đi theo đại lộ Trần Nhật Duật đánh vào phố Hàng Chiếu quặt từ phía đông nam lên.

          Phía đông bắc, đồng chí Nguyễn Văn Bật dùng liên thanh đặt trên tầng gác cao bắn xuyên táo bắn chết hàng chục tên. Các chiến sĩ ta ở phố Hàng Khoai ném lựu đạn cản đường xung phong của địch. Bọn địch ở đây phải tách một bộ phận đánh vòng phía sau chợ Đồng Xuân. Xe tăng của chúng húc đổ tường dẫn quân xông vào trong chợ.

          Ở phố Hàng Lược, Hàng Mã, bộ binh của địch cũng bị ta bắn cản lại. Chúng cho xe tăng tiến lên bắn uy hiếp, húc đổ tường phía trước phối hợp với toán quân phía sau đánh kẹp quân ta trong chợ. Phía đông nam, quân địch vẫn bị cản lại ở bên đường Trần Nhật Duật. Xe tăng địch tiến vào chợ. Quân ta không có vũ khí chống tăng liền núp vào các quầy hàng, bàn đá ở hai bên, lừa cho xe tăng địch đi qua, đợi bộ binh địch tới, nhanh chóng xông ra đánh giáp lá cà. Phút chốc, trong chợ diễn ra những cuộc vật lộn vô cùng ác liệt. Đồng chí Tưởng trước là công nhân sửa chữa ô tô, với cánh tay rắn chắc của mình, với ý chí kiên cường của người công nhân, đồng chí đã chiến đấu đến khi hết đạn rồi dùng dao thái thịt quần nhau với địch hết bàn này đến phản khác. Đồng chí hét vang trút căm hờn vào lưỡi dao chém xả vào từng tên địch. Chạy đến chỗ này, lao đến chỗ khác, đồng chí đã giết chết gần một chục tên giặc rồi mới chịu hy sinh. Từng tổ chiến đấu vật lộn với giặc ở từng khu vực, từng quầy hàng. Suốt 6 tiếng đồng hồ, các chiến sĩ ở chợ Đồng Xuân đã chiến đấu vô cùng oanh liệt. Gần chiều, giặc Pháp thúc quân tiến đánh phố Hàng Đường, Hàng Chiếu. Đến sẩm tối, chúng vẫn bị chặn lại ở đầu phố Hàng Đường và nửa bên kia phố Hàng Chiếu. Các chiến sĩ tiểu đoàn 101 đã tiêu diệt gần 200 tên địch. Bên ta hy sinh 12, bị thương 4 đồng chí. Thật là một chiến công lừng lẫy làm kẻ địch phải run sợ. Khí thế chiến đấu của các chiến sĩ thủ đô bừng bừng sôi sục...

          Suốt một tuần lễ, giặc Pháp muốn chiếm thêm một đường phố, một ngôi nhà đều phải trả rất nhiều máu, tốn nhiều bom đạn. Xe tăng của chúng rất khó cơ động, vì thế chướng ngại vật và chai cháy của ta càng có hiệu quả. Bộ binh địch khó dân quân, khó phát huy hỏa lực khi tiến vào các đường phố nhỏ hẹp ở phía Liên khu I. Giặc Pháp phải chật vật mới tiến nhích thêm được một đoạn đường. Từ ngày 6 tháng 2 đến ngày 14 tháng 2, mặc dầu địa thế chiếm giữ của Liên khu I bị thu hẹp một phần, nhưng hàng trăm tên địch đã bị tiêu diệt. Phía bắc, địch tiến tới phố Hàng Chiếu. Phía Tây, địch chiếm được dãy nhà số chẵn phố Hàng Thiếc. Phía Nam, địch chiếm được phố Hàng Nón, Hàng Quạt. Phía đông, ca nô, tàu chiến của địch sùng sục tuần tiễu bắn phá liên tiếp vào Phúc Tân, Phúc Xá, Cầu Đất. Máy bay của địch vẫn thay nhau giội bom xuống các phố còn lại của Liên khu I. Pháo binh của địch tiếp tục bắn phá vào phố Hàng Bạc, Hàng Bè. Trung tâm Hà Nội, khói lửa suốt ngày đêm ngùn ngụt bốc cháy. Phố xá đổ nát hoang tàn. Quân địch huy động toàn bộ chủ lực chuẩn bị một đợt tấn công cuối cùng để tiêu diệt toàn bộ lực lượng ta ở Liên khu I.

          Trong thời gian trên, ở ngoại thành, giặc Pháp chỉ cho từng tốp nhỏ lẻ tẻ thọc ra thăm dò các làng mạc xung quanh vị trí chiếm đóng. Khi bị ta chặn đánh, chúng lại rút. Nhưng phạm vi chiến đấu của các tiểu đoàn đã xa Liên khu I. Giặc Pháp có thể tăng viện quân từ Hải Phòng lên ngày càng nhiều. Mặt khác, ta không chủ trương tăng cường người và vũ khí ở ngoài vào Liên khu I nữa. Nhưng ở đó, đạn dược đã gần hết, trung bình mỗi người chỉ còn độ 20 viên, chai cháy và lựu đạn để chống xe tăng địch đã hết. Riêng về mặt lương thực thì càng gay go. Gạo muối nếu ăn hết sức dè sẻn cũng chỉ được 5 ngày nữa. Chỉ có một vài giếng nước mà hàng ngàn người ăn, uống đều trông vào đó. Mặt khác, mùa đông các giếng nước cạn gần sát đáy. Hơn một ngàn chiến sĩ sống trong các ụ súng, chiến hào, tòa nhà sụp đổ, sức chiến đấu và tinh thần chịu đựng rất cao, nhưng trong hoàn cảnh phạm vi chiếm giữ ta thu hẹp dần lại, cuộc chiến đấu hàng ngày hàng giờ trở nên quyết liệt, vật chất vô cùng thiếu thôn, đó là một khó khăn lớn.

          Khoảng cuối tháng 12 năm 1946, khi Hà Nội mới chiến đấu được gần hai tuần lễ, Bộ Tổng chỉ huy có trực tiếp hỏi Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội:

"Khả năng chiến đấu của Liên khu I như thế nào? Có thể giữ được bao lâu nữa?".

Bộ chỉ huy mặt trận báo cáo:

"Liên khu I còn sung sức, khả năng tiếp tế lương thực còn làm được. Chỉ cần tổ chức chu đáo và chặt chẽ thì sẽ giữ được một thời gian nữa".

Bộ Tổng chỉ huy cho biết tình hình lúc đó:

"Cơ quan chuyển ra hậu phương mới tạm ổn định, nhưng việc hậu phương huy động mọi mặt chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài thì còn bề bộn. Nhân dân các vùng chiến sự vẫn còn đang tấp nập tản cư, còn xao xuyến bỡ ngỡ...". Bộ Tổng chỉ huy phân tích tình hình: "Nếu bộ đội ở Liên khu I rút ra sớm thì giặc Pháp sẽ rảnh tay tấn công thúc ra phá vỡ vòng vây bên ngoài. Chúng sẽ tràn về hậu phương nông thôn. Mặt trận mở rộng sớm, điều đó không có lợi cho việc huy động lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài của ta".

          Từ ngày ấy, Liên khu I đã chiến đấu kiên cường trong lòng địch được thêm một tháng rưỡi nữa, đã thu hút được một bộ phận lực lượng quan trọng của giặc Pháp. Bọn xâm lược Pháp huênh hoang tuyên bố là chúng đã bao vây liên khu I. Nhưng thực chất là Liên khu I đã chủ động ở lại giữ được chân giặc Pháp và tiêu hao chúng, cùng với các tiểu đoàn bao vây ở bên ngoài hình thành một thế "nội công ngoại kích" rất độc đáo.

         Giặc Pháp tiếp tục đưa quân từ Hải Phòng tăng viện lên Hà Nội cũng là để tập trung đánh phá Liên khu I rồi sau đó rảnh tay tấn công ra bên ngoài Hà Nội.

Tình hình của mặt trận lúc ấy đã có nhiều thay đổi, tuyến chiếm đóng của địch mở rộng ra ngoại thành đã thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân ta ở Liên khu I. Súng cối 81 ly của địch từ phía này có thể bắn vượt qua Liên khu I sang phía bên kia. Bộ Tổng chỉ huy nhận định: "Mặt trận Hà Nội đã làm tròn nhiệm vụ giam chân địch một thời gian dài để hậu phương kịp thời huy động lực lượng, đã tiêu diệt được một số địch. Đó là thắng lợi lớn". Được sự chuẩn y của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, Bộ Tổng chỉ huy ra lệnh cho Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội cho trung đoàn Thủ đô rời khỏi Liên khu I về căn cứ địa hậu phương. Nhận được lệnh, trung đoàn Thủ đô đánh điện ra: "xin cố thủ". Bộ Tổng chỉ huy phân tích thêm:

          Với tinh thần hy sinh cao cả của các cán bộ chiến sĩ, đơn vị có thể ở lại thêm một thời gian, tiêu diệt thêm một số địch. Nhưng xét về nhiệm vụ thu hút lực lượng địch, giữ chân địch, thì trung đoàn Thủ đô đã hoàn thành vẻ vang. Nay đã đến lúc trung đoàn phải vượt ra ngoài trở về hậu phương xây dựng lực lượng lớn mạnh nữa để kháng chiến lâu dài..., rời khỏi Liên khu I được toàn vẹn lại là một thắng lợi lớn nữa".

          Ngày 15 tháng 2, giặc Pháp huênh hoang tuyên bố: "Việt Minh ở trong thành phố Hà Nội bị vòng vây của quân đội Pháp siết chặt. Họ chỉ còn đợi ngày giờ bị tiêu diệt!".

         Ngược lại, khí thế chiến đấu của các chiến sĩ trung đoàn Thủ đô vẫn bừng bừng sôi sục, không hề một chúi lo lắng bi quan. Các chiến sĩ vẫn vui cười, ca hát, lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, tiếp tục củng cố trận địa mới, sửa sang hầm hố, chiến hào, ụ súng sẵn sàng đánh trả cuộc tấn công cuối cùng của địch. Bài ca "Diệt phát xít" vẫn vang lên rộn rã. Lời ca của đội quàn chiến thắng, tin tưởng sự thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ đến với dân tộc Việt Nam anh hùng.

          Nhận được mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Đảng ủy mặt trận Hà Nội đã họp ngay để nghiên cứu chấp hành nghiêm chỉnh. Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho đồng chí chỉ huy trưởng Liên khu II Phùng Thế Tài điều động các đơn vị của Liên khu II tấn công vào ô Cầu Dền và đồng chí chỉ huy trưởng Liên khu III Lê Quân điều động các đơn vị của Liên khu III tấn công vào Hàng Bột, ô Cầu Giấy, Kim Mã. Các đơn vị đều quấy rối, biệt kích, tập kích nghi binh vào các vị trí của địch ở ngoại thành để thu hút sự chú ý và đối phó của chúng ra ngoài. Mặt khác bản thân Liên khu I cũng đánh mạnh, giữ hoạt động bình thường. Kế hoạch này, hồi đó gọi là "cường công mật rút".

          9 giờ tối ngày 15 tháng 2, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 145 đã tổ chức lực lượng tiến vào tập kích quân địch ở Đông Ngạc, Mai Dịch, Hoài Đức... và tung các tổ du kích luồn vào sau lưng địch để tăng cường quấy rối, phá hoại, buộc chúng phải chú ý bảo vệ các vị trí đột xuất ở ngoại thành. Ngày 16 tháng 2, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho quân ta tiếp tục nổ súng trên toàn mặt trận thực hiện thu hút lực lượng của địch ra các mặt trận bên ngoài để ngày hôm sau trung đoàn Thủ đô rời khỏi Liên khu I về căn cứ.

          Lúc ấy, một khó khăn lớn đối với trung đoàn Thủ đô là xung quanh Liên khu I, địch đóng vị trí dày đặc thành một vòng tròn trên dưới 4 cây số. Các đường lớn, đường nhỏ, các nơi có thể đi được đều bị ụ súng, vọng gác của địch kiểm soát phong tỏa. Ta dùng đường cống ngầm đi liên lạc với ngoài được hai lần thì bị giặc Pháp phát hiện rào kín, canh gác cẩn mật.

          Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, trung đoàn Thủ đô sẽ vượt ra khỏi vành đai chiếm đóng của địch. Nhưng đi bằng đường nào? Rút vào lúc nào? Tổ chức ra sao để bảo đảm đi được trên một ngàn người đủ cả nam, phụ, lão, ấu lại có cả người ốm, người bị thương? Tất cả những khó khăn phức tạp ấy, Đảng ủy trung đoàn Thủ đô phải trực tiếp lãnh đạo giải quyết. Các chiến sĩ thủ đô sẽ phải vượt qua thử thách lớn lao này.

          Sau khi được Bộ Tổng chỉ huy chuẩn y kế hoạch xuất phát theo đường giữa phố Nguyễn Siêu và Cột Đồng hồ qua bãi Phúc Xá, vượt sông Hồng, sông Đuống về Long Tựu (Đông Ngàn) thuộc tỉnh Phúc Yên rồi vòng trở về Sơn Tây, Bộ chỉ huy mặt trận cử cán bộ đi tổ chức chuẩn bị mượn thuyền của nhân dân và du kích dẫn đường. Mọi việc ở trong Liên khu I và công tác chuẩn bị ở ngoài đến trưa ngày 17 tháng 2 đều xong. Trong những ngày tình hình gay go quyết liệt ấy, lãnh sự của Tưởng Giới Thạch đề nghị ta giúp Hoa kiều một số gạo và ngô, và ngày 18 tháng 2, ta sẽ ngừng bắn để Hoa kiều rút hết ra khỏi thành phố Hà Nội. Đây là một mưu mô thâm độc của bè lũ Quốc dân đảng phản động Tưởng Giới Thạch đã cấu kết với thực dân Pháp để dò xét xem ta có còn lương thực để chiến đấu cố thủ một thời gian nữa không và khi Hoa kiều đã rút hết ra ngoài, chúng sẽ tự do ném bom, bắn phá tấn công tiêu diệt hoàn toàn trung đoàn Thủ đô. Nhưng "tương kế tựu kế", ta sẽ lợi dụng mưu mô của giặc để thực hiện kế hoạch của mình. Ngày 17 tháng 2, ban chỉ huy trung đoàn Thủ đô đồng ý giúp Hoa kiều 5 tạ gạo, 2 tạ ngô và ngày 18 tháng 2 ta sẽ ngừng bắn để Hoa kiều tản cư ra ngoài.

          Một sự kiện vô cùng đột ngột. Năm giờ chiều ngày 17 tháng 2, lệnh rút khỏi Hà Nội đến với các chiến sĩ trung đoàn Thủ đô. Lúc đó, các chiến sĩ nơi còn đang đào hào đắp ụ, nơi đang chuẩn bị đi biệt kích, phục kích cướp súng giặc. Tin đến bất ngờ, các chiến sĩ bàng hoàng xúc động.

- Ra đi ư?

- Bao giờ trở lại?

Còn một giờ nữa sẽ tạm biệt thủ đô yêu dấu, các chiến sĩ lấy gạch non viết vội lên tường nhà:

"Hà Nội thân yêu ơi, ta sẽ trở lại!", "Hỡi quân xâm lăng, chúng bay sẽ thất bại!".

          Ra đi, các chiến sĩ tin tưởng sắt đá vào thắng lợi cuối cùng, nhưng lòng không khỏi bùi ngùi lưu luyến.

Hôm ấy, hình như trời tối sớm, mưa rơi lâm râm trùm lên khoảng trời Hà Nội. Gió    heo may tràn qua khắp đường phố, giúp cho mọi hành động ban đêm càng thêm vẻ lặng lẽ bất ngờ.

          Trời sầm tối, tiểu đoàn 101 xuất phát đầu tiên rồi đến tiểu đoàn 102. Còn tiểu đoàn 103 rút sau cùng, cử ra một trung đội bố trí phía chân cầu Long Biên đề phòng nếu bị lộ thì chiến đấu chặn địch bảo đảm cho trung đoàn vượt ra an toàn. Ra đi, trung đoàn Thủ đô còn báo cho các lãnh sự ngoại quốc biết từ giờ phút đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ không có trách nhiệm bảo vệ họ nữa. Ta còn chuyển thư cho lãnh sự Trung Hoa gửi lời chào họ.

         Nửa đêm 17 tháng 2, trung đoàn Thủ đô lặng lẽ vượt qua gầm cầu Long Biên, người lớn cùng trẻ nhỏ, người khỏe dìu người yếu, các thương binh cũng được võng, cáng đưa ra. Trung đoàn còn mang theo đầy đủ máy chữ, máy in, dụng cụ sửa chữa vũ khí... Trong đêm mưa rét, các chiến sĩ chân bước đi, lòng không khỏi bồi hồi lưu luyến, thỉnh thoảng có chiến sĩ lại quay nhìn về Hà Nội.

           Bộ phận phá hoại nghi binh do đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn chỉ huy khoảng 10 giờ đêm nổ súng quấy rối phía Cửa Đông, Hoàn Kiếm. Tổ phá hoại gài mìn, gài lựu đạn ở những nơi địch có thể tới, đốt từng bó hương cắm vào đống chăn đệm tẩm dầu xăng để sau mấy tiếng đồng hồ sẽ bùng lên ngọn lửa, 12 giờ đêm trong Liên khu I hoàn toàn vắng lặng. Người cuối cùng của trung đoàn Thủ đô đã rời khỏi Hà Nội. Đoàn quân trùng trùng đi theo ven bờ sông, giặc Pháp vẫn hoàn toàn chưa biết. Chúng tin vào vòng vây dày đặc bốn bề tưởng chừng con chim cũng khó bay qua. Nhưng giữa dòng sông Hồng, trên bãi Phúc Xá, vẫn có tiểu đội du kích do đồng chí Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy suốt gần hai tháng trời sống trong hầm hố, vất vả đêm hôm bảo đảm giữ vững đường dây liên lạc, tiếp tế cho trung đoàn Thủ đô. Đêm hôm đó, đồng chí Nại đã dẫn các chiến sĩ thủ đô lách qua các vị trí, tránh các luồng đạn của địch, vượt qua mọi hiểm nghèo để ra đi an toàn. Nửa đêm về sáng, đồng bào và anh chị em du kích đã chèo, chống 20 chiếc thuyền tới bờ sông bãi Phúc Xá do một cán bộ được Bộ chỉ huy mặt trận cử đi phụ trách. Đêm khuya, trời rét ngọt, sóng nước rì rầm, từng chiếc thuyền lặng lẽ sang sông. Sau khi làm tròn nhiệm vụ đón bộ phận phá hoại và bảo vệ rút ra sau cùng, tiểu đội đồng chí Nại bố trí ở bãi dâu theo dõi địch. Trời vừa sáng, giặc Pháp phát hiện được. Chúng cho 2 xe tăng và một toán quân từ phía đầu cầu Gia Lâm theo bờ sông đi ngược lên phía bắc cùng một đoàn ca nô chở đầy quân xăm xăm chạy rẽ nước đuổi theo đoàn thuyền cuối cùng của ta.

          Lập tức, phía bãi dâu ở Phúc Xá có tiếng súng nổ vào ngang sườn ca nô địch. Chúng dừng lại cho một toán sục lên bãi dâu, còn một toán tiếp tục đuổi theo đoàn thuyền. Nhưng vẫn bị tiểu đội đồng chí Nại bắn ngang sườn cản lại, chúng phải tiến chậm và dè dặt. Đến khi chúng nổ súng thì các chiến sĩ ở đoàn thuyền cuối cùng vừa nhảy lên bờ chiếm lĩnh làng Cơ Xá (Bắc Biên) và đánh trả lại.

          Trên bãi dâu giữa bãi Phúc Xá, tiếng súng nổ vẫn giòn. Tiểu đội của đồng chí Nại đã nổ súng nhằm kéo một bộ phận bọn giặc đuổi theo trung đoàn phải quay trở lại. Hai chiếc máy bay rít lên lao xuống mặt sông, bắn đổ đạn vào bãi dâu. Quân địch xông lên, 10 du kích đã bí mật lẻn ra chỗ khác bất ngờ bắn vào ngang sườn chúng, rồi lại nhanh chóng lẩn đi. Xác giặc Pháp đã nằm rải rác khắp bãi dâu nhưng chúng vẫn chưa làm gì nổi các chiến sĩ du kích. Chúng tỏa quân vây tròn bốn mặt. Cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt. Có 10 người thì 2   người đã hy sinh. Đồng chí Nại chỉ huy 7 chiến sĩ chiến đấu cực kỳ anh dũng, thu hút lực lượng địch, bảo đảm cho trung đoàn rút lui an toàn đến phút cuối cùng. Giết thêm 17 tên địch nữa, 5 du kích hy sinh, 2 du kích trốn thoát, còn lại một mình đồng chí Nại. Quân giặc không bắn, chúng tìm mọi cách để bắt sống đồng chí, hy vọng biết được lực lượng của ta có còn lại ở Liên khu I không? Đã rút đi bao nhiêu và rút đi đâu? Nhưng khi giặc Pháp xô tới túm lấy đồng chí thì thình lình một tiếng nổ vang. Quả lựu đạn cuối cùng của đồng chí đã giết thêm mấy tên giặc nữa. Đồng chí Nại, người du kích kiên cường và dũng cảm, đã vĩnh biệt các chiến sĩ Thủ đô, vĩnh biệt bãi dâu Phúc Xá và sông Hồng góp phần cho trung đoàn rời khỏi Liên khu I thắng lợi để bảo toàn chủ lực kháng chiến lâu dài.

          Thế là 8 chiến sĩ du kích hàng tháng ở trên bãi dâu Phúc Xá, giữa dòng sông Hồng đã hy sinh. Các chiến sĩ ấy đã đóng góp biết bao công lao với chiến thắng oanh liệt của Liên khu I, và cuộc rút quân thần kỳ của trung đoàn Thủ đô* (Về sự kiện đội liên lạc Nguyễn Ngọc Nại hy sinh, chúng tôi tôn trọng bản gốc của Trung tướng Vương Thừa Vũ (sách xuất bản năm 1979). Lần tái bản này Ban Biên lập đính chính: Đội liên lạc Nguyễn Ngọc Nại thuộc tự vệ Bãi Giữa - Phúc Xá (khu Long Biên). (Năm 1956, do sự đổi dòng của sông Hồng, dân cư Bãi Giữa chuyển sang xã Ngọc Thụy - Huyện Gia Lâm. nay là phường Ngọc Thụy - Quận Long Biên). Đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại và 7 chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu tại bãi dâu Tám Xá, bảo vệ trung đoàn Thủ đô vượt bến Dâu, sang Xuân Canh (Đông Anh) an toàn).

          Phía Cơ Xá, cuộc chiến đấu kéo dài đến gần trưa. Giặc Pháp bị chết hơn 20 tên. Bên ta hy sinh 4, bị thương 6. Các chiến sĩ Vệ Quốc quân đã khéo léo nghi binh rồi rút lui lên Văn Hoạch. Giặc Pháp tràn vào Cơ Xá, ở đây chỉ còn cây cối đổ gãy, nhà cửa bị phá hủy tan hoang. Thôn xóm vắng teo, không một bóng người. Cảnh "vườn không nhà trống" lại đập vào mắt giặc Pháp. Đã thất vọng lại càng thêm chán nản, chúng uể oải, rời rạc kéo quân quay về Hà Nội.

          12 giờ trưa ngày 18 tháng 2 nãm 1947, trung đoàn Thủ đô về tới Văn Hoạch, Long Tựu (Đông Ngàn) bên kia sông Đuống, thuộc địa phận Phúc Yên. Ngay hôm đó, các chiến sĩ thủ đô nhận được thư của đồng chí Võ Nguycn Giáp, Tổng chỉ huy và đồng chí Nguyễn Văn Trân thay mặt Đảng ủy mặt trận gửi tới khen gợi các chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu và rút quân thắng lợi. Đêm 18 tháng 2, trời vẫn mưa rét, đồng chí Nguyễn Văn Trân cùng một số cán bộ trong Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận đi ngược về phía bắc Hà Nội. Mọi người vui mừng trò chuyện không để ý gì đến đường trơn, gió rét. Các đồng chí hết lời khen ngợi chiến công oanh liệt của nhân dân và các chiến sĩ Thủ đô. Tới bờ sông, gió heo may vẫn thổi lồng lộng. Trời mưa nặng hạt. Các đồng chí đứng trên bờ đê, rồi ra tận mép nước, nhìn sang bén kia sông nóng lòng mong đợi được gặp mặt những người con của thủ đô anh dũng. Sang sông, trung đoàn về tập trung tại Hạ Hội, Thượng Hội, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây. Đêm 22 tháng 2 năm 1947, Bộ chỉ huy tổ chức mít tinh mừng chiến thắng của trung đoàn Thủ đô, có đầy đủ các đại biểu, các cơ quan Đảng, chính, dân. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chính thức tuyên dương công trạng của trung đoàn Thủ đô. Trong bài diễn văn của đồng chí, có đoạn nói: "Trung đoàn Thủ đô đã tượng trưng cho bộ đội của một dân tộc nhược tiểu quyết tâm không muốn làm nô lệ và đã ngang nhiên chống lại bộ đội nước lớn, bộ đội hùng mạnh của chủ nghĩa đế quốc". Cuối cùng, đồng chí nói: "Hôm nay, tôi thay mặt Chính phủ chính thức trao danh hiệu "Trung đoàn Thủ đô" cho các đồng chí. Thay mặt Bộ Quốc phòng và Quân đội quốc gia, tôi tặng các đồng chí một lá cờ thêu tên "Trung đoàn Thủ đô" để nêu cao tấm gương anh dũng của các chiến sĩ.

          Đêm hôm ấy, một đêm tưng bừng rộn rã. Các chiến sĩ hô lớn khẩu hiệu: "Quyết chiến thắng quân thù!", rồi hát vang:

"Hà Nội ơi! Hà Nội ơi!

Ngày mai ca vang đời mới huy hoàng!"

          Dưới sự lãnh đạo trực tiếp vô cùng sáng suốt của Trung ương Đảng và sự chỉ huy tài tình của Bộ Tổng chỉ huy, quàn và dân thủ đô Hà Nội đã làm cho giặc Pháp phải kinh hoàng với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng, sức kiên trì chịu đựng trước gian nan thiếu thốn, đằng đẵng 60 ngày đêm căng thẳng và quyết liệt. Quân và dân thủ đô giam chân địch tại Hà Nội để hậu phương kịp huy động và tổ chức lực lượng kháng chiến lâu dài, tiêu diệt một phần sinh lực của chúng, bảo vệ các cơ quan của Đảng và Nhà nước rút an toàn về căn cứ chỉ đạo kháng chiến, bảo vệ hàng chục vạn đồng bào thủ đô thoát khỏi bàn tay đẫm máu của bọn thực dân xâm lược Pháp. Các lực lượng vũ trang của Hà Nội không những không bị tiêu diệt, mà còn lớn mạnh không ngừng về mọi mặt. Từ 5 tiểu đoàn độc lập, dần dần phát triển thành 8 tiểu đoàn và sau khi trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội thì xung quanh Hà Nội lực lượng Vệ Quốc quân đã lớn lớn thành 5 trung đoàn bộ đội chính quy:

          - Trung đoàn 80 (tức trung đoàn 48 sau này) gồm tiểu đoàn 523, 145 và 77 bố trí ở khu vực Văn Điển, Thường Tín giữ trục đường số 1 Hà Nội - Nam Định.

          - Trung đoàn 35 phụ trách con đường Hà Nội - Hà Đông - Hòa Bình.

          - Trung đoàn 37 (tức trung đoàn 66 sau này) gồm trung đoàn 9 và 13 sáp nhập làm một, phụ trách con đường Hà Nội - Sơn Tây.

          - Trung đoàn Thủ đô, lấy tiểu đoàn 101 làm nòng cốt trưởng thành trong Liên khu I. Sau khi rút ra, về nghỉ ngơi và huấn luyện tại khu vực Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, rồi trở về trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy.

          - Trung đoàn Tây Tiến (tức là trung đoàn 52 sau này) gồm tiểu đoàn 212 của Hà Nội sáp nhập với tiểu đoàn 62 của khu III tổ chức thành, về hoạt động ở tỉnh Hòa Bình.

Thực hiện chí thị của Bộ Tổng chỉ huy, mỗi trung đoàn chỉ để lại một đại đội gọi là "biệt động đội" lưu động trong khu vực trung đoàn phụ trách, luôn luôn bám sát địch hoạt động đánh lẻ làm chậm bước tiến của chúng. Còn toàn bộ trung đoàn ở phía sau học tập chính trị, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật xây dựng lực lượng để chuẩn bị bước sang giai đoạn nhiệm vụ mới và khi cần thiết thì cơ động đi tác chiến.

          Từ ngày trung đoàn Thủ đô rời khỏi Liên khu I, các đơn vị bắt đầu về hậu phương xây dựng lực lượng, đến ngày 2 tháng 3 năm 1947, tức là sau hai tuần lễ, giặc Pháp mới mở các đợt tấn công ra các làng mạc thuộc ngoại thành Hà Nội như Yên Duyên, Khuyến Lương và Giáp Tứ, Giáp Bát. Ngày 3 tháng 3, quân địch mới tiến quân vào thị xã Hà Đông. Mỗi bước đi của giặc Pháp đều gặp sức chống cự quyết liệt của nhân dân và bộ đội xung quanh thủ đô Hà Nội.

Lực lượng để kháng chiến lâu dài đã được huy động và chuẩn bị sẵn sàng...

Tướng Vương Thừa Vũ tại lễ mừng chiến thắng của trung đoàn Thủ đô tại Thượng Hội, Đan Phượng, Hà Đông ngày 22/2/1947 (Người đứng hàng đầu bên trái là tướng Vương Thừa Vũ)

 

Phần thứ ba

TIẾNG VANG BẤT TẬN

 

           Trong những ngày đầu kháng chiến, Thu đô anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hung đã viết lên những trang sử oanh liệt bằng xương và máu còn lưu truyền mãi mãi.

          Giặc Pháp đưa vào Hà Nội một lực lượng quân sự mạnh hơn ta gấp bội. Riêng về quân chủ lực thì chúng nhiều hơn ta 3 lần, vũ khí bộ binh gấp 9 lần, pháo binh gấp 6 lần. Các loại xe cơ giới (xe tăng, xe bọc sắt, xe vận tải...), ca nô, tàu chiến và máy bay thì giặc Pháp chiếm ưu thế tuyệt đối, quân ta hoàn toàn không có. Giặc Pháp là một đội quân nhà nghề chuyên đi xâm lược, chúng có bộ máy chỉ đạo chiến tranh và cơ quan tham mưu hoàn chỉnh, là một quân đội đế quốc khát máu, dã man và tàn bạo. Bọn thực dân Pháp đã cai trị nước ta hơn 80 năm nên chúng thông thuộc địa hình từ biển khơi đến rừng núi, thành phố đến làng mạc, quen cả thổ ngơi và thời tiết khí hậu. Chúng cũng hiểu rất rõ tình hình kinh tế nước ta, một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, sau 80 năm bị chúng và tay sai vơ vét kìm hãm. Nhưng có mọt điều chúng không thể hiểu được, mặc dầu chúng đã ở trên đất nước ta ngót một thế kỷ, đó là: tinh thần yêu nước, chí quật cường của nhân dân ta. Trở lại xâm lược nước ta, giặc Pháp hy vọng dựa vào bọn trong chính quyền bù nhìn trước kia và các tổ chức phản động cũ hòng thực hiện màn đảo chính cướp nước ta trong chớp nhoáng.

          Về phía ta, chính quyền cách mạng mới được thành lập, quân đội còn non trẻ, hầu hết là những thanh niên sục sôi lòng căm thù địch, thiết tha yêu Tổ quốc, vừa mới tình nguyện đứng vào đội ngũ chiến đấu. Với vũ khí thô sơ, trang bị hết sức nghèo nàn, kỹ thuật chiến thuật chưa được rèn luyện bao nhiêu, kinh nghiệm chiến đấu ở thành phố hoàn toàn chưa có, chúng ta chủ yếu dựa vào lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và mưu trí để chống lại gang thép của quân thù. Cuối cùng phần thắng đã về phía chúng ta. Phần thất bại nhục nhã đã dành cho quân đội thực dân xâm lược Pháp. Chúng huênh hoang tuyên bố nào 24 tiếng đồng hồ, nào một tuần lễ, nào nửa tháng... chiếm xong Hà Nội; nào Việt Minh trong vòng đai sắt sớm muộn sẽ bị tiêu diệt (!).

          Nhưng mọi việc đều ngược lại. Ròng rã hai tháng trời, quân và dân thủ đô Hà Nội đã giam chân địch trong thành phố để hậu phương kịp thời huy động và tổ chức lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đã phá tan âm mưu ngông cuồng của bọn thực dân xâm lược Pháp, bảo vệ Trung ương Đảng và các cơ quan Nhà nước đi chuyển an toàn về căn cứ địa chỉ đạo kháng chiến. Quân ta đã bảo vệ hàng chục vạn đồng bào thoát khỏi bàn tay đẫm máu của bọn xâm lược Pháp man rợ, đã chiến đấu gần 200 trận, tiêu diệt hàng ngàn tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới, bắn đắm 1 ca nô, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay. Quân và dân Hà Nội còn thu được rất nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng để trang bị cho mình.

          Hai tháng trời sống gian nan hiểm nghèo, bền bỉ chiến đấu giữ từng tấc đất, từng căn nhà của thủ đô Hà Nội, quân dân ta đã làm cho giặc Pháp phải giật mình chùn bước. Cuối cùng, trung đoàn Thủ đô đã rời khỏi Liên khu I một cách toàn vẹn để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, làm cho giặc Pháp đã thất vọng lại càng thêm thất vọng!

          Trong khói lửa, quân và dân thủ đô lớn lên không ngừng. Đứng trong hàng ngũ, người chiến sĩ được giữ khẩu súng trường, quả lựu đạn, trong lòng vui mừng khôn xiết, nhưng cũng không khỏi lo âu. Vui mừng vì vinh dự được giao trách nhiệm giữ súng bảo vệ Tổ quốc. Lo âu vì mọi thứ đều mới không biết sử dụng ra sao, chiến đấu ra sao? Hăm hở mang vũ khí ra đi, nhưng vô cùng bỡ ngỡ; cho đến khi, các chiến sĩ thủ đô biết dùng súng máy hạ máy bay địch, bắn chìm ca nô, dùng badôca, trọng pháo bắn đổ xe tăng, bắn sụp lô cốt của giặc Pháp. Các tổ "bắn tỉa săn Tây" ngày đêm hoạt động làm cho chúng đi đứng khống yên, bước xuống xe bọc sắt, chui ra khỏi lô cốt là nơm nớp lo sợ và ngay cả lúc rúc trong lô cốt và xe bọc sắt, chúng cũng sợ chết. Các chiến sĩ của ta giết giặc, cướp súng giặc để bắn trả lại vào đầu quân giặc. Từ những trận đầu bỡ ngỡ trên đường Cửa Nam, phố Huế đến những trận chặn địch quyết liệt ở ô Cầu Dền, Bạch Mai, phản kích đánh địch tan hoang ở đường Yên Phụ, phố Đội Cấn, đuổi địch chạy dài ở Thanh Nhàn, Lò Lợn... phối hợp với các hoạt động ở nội thành như: đánh du kích ở các phố Lê Bình, Minh Khai, tập kích nhà Moóclie, cắm cờ đỏ sao vàng trên đỉnh Tháp Rùa và đồn công an quận II, v.v... làm cho bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội ngày đêm lo lắng, đau đầu nhức óc, mà rốt cuộc thất vọng vẫn hoàn toàn thất vọng. Chúng ta, từ những trận chiến đấu chống với một vài chục, một vài trăm tên giặc tiến đến những trận chống với hàng ngàn tên, với hàng trăm cơ giới, có máy bay, pháo binh yểm hộ. Có những nơi, bên ta chỉ với quân số rất ít đã kiên cường cố thủ, suốt một ngày giặc Pháp xung phong hàng chục lần nhưng cũng không chiếm được như nhà thương Vọng, nhà Xôva, trường Ke, v.v. Có những nơi ta chiến đấu quyết liệt tiêu hao địch, chặn địch tới một mức độ nhất định, rồi lại nghi binh khéo léo rút lui đổ bảo toàn lực lượng, giặc Pháp xông vào, ở đó chỉ còn "vườn không nhà trống" như Vĩnh Tuy, làng Ngọc Khánh, nhà Bờrigát Môbin... Trong khói lửa, quân và dân thủ đô lớn nhanh hơn "Thánh Gióng". Từ 5 tiểu đoàn độc lập phát triển thành 3 trung đoàn chính quy. Sau khi trung đoàn Thủ đô ra khỏi Liên khu I, thì xung quanh Hà Nội (kể cả trung đoàn 35 và 37) có tới 5 trung đoàn chủ lực. Đó là một chiến công lớn lao, nói lên đường lối lãnh đạo kháng chiến của Đảng ta là vô cùng đúng đắn.

Yếu hơn địch mà lại chiến thắng địch. Không những không bị tiêu diệt mà lại lớn lên không ngừng.

         Hà Nội ngày nay biết bao nhiêu đổi mới. Cứ mỗi bước đi trên mảnh đất thủ đô yêu quý, ta đều thấy bao chiến công oanh liệt. Ở đây có những người con anh dũng của thủ đô đã "quyết tử để Tổ quốc quyết sinh". Trên những bờ tường mới đẹp đẽ của ngày nay với những khẩu hiệu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xưa kia đã có những khẩu hiệu: "Sống chết với Thủ đô", "Thà chết không chịu làm nô lệ". Không ai có thể quên được những anh em công nhân xe lửa chiến đấu vô cùng anh dũng ở Đấu Xảo, Hàng Lọng, nhà dầu Sen. Sự phối hợp chặt chẽ của công nhân nhà máy điện, máy nước Yên Phụ, nhà Bưu điện và nhà đèn Bờ Hồ... Rồi đến những hình ảnh vô cùng xúc động như khi được lệnh "tiêu thổ kháng chiến", thực hiện "vườn không nhà trống", nhân dân thủ đô cũng như nhân dân các xóm làng xung quanh Hà Nội tự tay mình dỡ nhà mình, đập vỡ tường gạch, chặt đổ cây cối, di chuyển thóc lúa, súc vật, cùng những người già yếu và trẻ nhỏ trong gia đình tản cư tránh giặc. Để chặn bước tiến của địch, cả làng xóm và từ cụ già, đến trẻ em ở các khu phố đều xô ra đường đào hào, đắp ụ, ngả cây cối, phá sập cầu cống tạo thành hàng cây số chướng ngại vật. Súng vẫn nổ, máy bay khu trục của giặc vẫn bay lượn bắn phá, nhưng đồng bào từ bốn phương vẫn kìn kìn gồng gánh lương thực tiếp tế cho mặt trận. Các chị em tiếp tế vượt qua lửa đạn, đem cơm nước ra tận chiến hào, ụ súng cho các chiến sĩ. Các bà mẹ đi úy lạo các đơn vị và anh em thương binh. Các gia đình xin nhận thương binh về nhà để chăm sóc.

         Không ai có thể quên được, khi Đảng và Bác Hồ kêu gọi: "Toàn dân kháng chiến" thì khắp nơi, các cụ già đầu tóc bạc phơ, có cụ lưng còng phải chống gậy trúc, nhưng cũng hăng hái xin nhập đội "Bạch đầu quân"; các thiếu nữ từ bỏ những thứ mà xưa nay họ tha thiết nhất, cắt tóc ngắn, mặc trang phục nam giới để xung phong vào Vệ Quốc Đoàn; các em thiếu niên, nhi đồng đòi cho kỳ được vào làm liên lạc, trinh sát cho các anh lớn. Khi tiếng súng kháng chiến rền vang bầu trời Hà Nội thì tiếng đàn, tiếng hát của các chị trong đội thông tin tuyên truyền hòa theo như không bao giờ tắt. Ở đầu phố Hàng Bột, anh chị em bị thương nhưng không rời trận địa, vẫn chiến đấu, vẫn ca hát cho đến hơi thở cuối cùng. Tiểu đội nữ cứu thương của đại đội 134, những người con gái trồng hoa vùng Ngọc Hà đã anh dũng hy sinh tại Giảng Võ. Tiểu đội nữ giao thông ở Lãng Bạc, những chị em công nhân và dân nghèo trước đây chịu trăm ngàn cơ cực sống trong những túp lều lụp sụp bên hồ, khi kháng chiến bùng nổ, đã trở thành những người con gái kiên cường mang theo dòng máu anh hùng của Hai Bà Trưng thuở trước. Chị em vượt muôn ngàn nguy hiểm giữ vững mạch máu bình thường giữa Liên khu I và hậu phương bao la. Tiểu đội du kích Hồng Hà, những người công nhân, nông dân của quê hương Tân Lập, Nghĩa An, Nghĩa Dũng. Phúc Xá đã hàng tháng trời sống trong hầm hố, trên bãi dâu, giữa dòng sông Hồng giữ vững đường dây liên lạc, tiếp tế cho trung đoàn Thủ đô. Ngày cuối cùng, 10 chiến sĩ Đội Nguyễn Ngọc Nại đã chiến đấu vô cùng quả cảm để thu hút lực lượng địch, góp xương máu giành phần thắng lợi toàn vẹn cho quân và dân thủ đô Hà Nội. 8 trong số những người con yêu quý ấy đã vĩnh biệt bãi dâu sông Hồng, vĩnh biệt Liên khu I. Những tấm gương anh dũng ấy còn lun truyền mãi mãi về sau.

          Khắp các đường phố thủ đô Hà Nội, khi các anh, các chị xông ra giết giặc thì các em nhỏ cũng không chịu ngồi yên. Tấm gương anh dũng chiến đấu hy sinh vì dân vì nước của Trần Quốc Toản, Kim Đồng, Lý Tự Trọng đã truyền cho các em một chí khí bất khuất. Tuổi nhỏ nhưng chí lớn. Xe tăng, xe thiết giáp của giặc hung dữ dẫn quân đến Ngọc Hà, 3 em nhỏ đã gan lì ngồi lại trong hố ở ria đường, ném lựu đạn, chai cháy, phá hủy xe thiết giáp của địch. Hai em khác dùng mưu ném lựu đạn vào xe gíp của bọn chỉ huy Pháp qua phố Hàng Bột, đoạt súng đem vể cho bộ đội. Một em khác leo lên nóc Bắc Bộ phủ cắm cờ đỏ sao vàng, khi bị giặc Pháp bắt, em đã chửi vào mặt bọn cướp nước và một mực không chịu cung khai. Em chết đi, chưa đầy 14 tuổi. Em liên lạc Lai vượt theo ống máng về báo cáo với ban chỉ huy tiểu đoàn tiếp viện cho trường Ke... Biết bao tấm gương chói lọi của lứa tuổi thơ ngay trên đất thủ đô anh hùng.

          Không bao giờ lịch sử có thể quên được những chiến sĩ "quyết tử" của thủ đô ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch. Một tiếng nổ kinh hoàng, xé tai, một vùng lửa khổng lồ lóe ngay trước mặt, xe tăng địch tan tành thì người chiến sĩ lao bom phần nhiều cũng anh dũng hy sinh. Biết như vậy, nhưng không một ai do dự. Các thanh niên hầu hết muốn được sung vào đội quyết tử đổ phá chiến xa của giặc. Quyết không hề lui nửa bước trước bom đạn và xe tăng, xe bọc sắt của quân thù. Phải cho quân thù thấy ý chí bất khuất của một dân tộc anh hùng, quyết không chịu làm nô lệ. Người chiến sĩ quyết tử bảo vệ Bắc Bộ phủ đã ôm bom ba càng phá hủy xe tăng địch. Hình ảnh ấy còn ghi mãi trong lòng quân dân Hà Nội. Từ đó, biết bao nhiêu chiến sĩ quyết tử khác dùng bom ba càng phá hủy chiến xa của giặc ở trên khắp các đường phố Hà Nội như ở ngã năm Hàng Kèn, phố Huế, đường Thụy Khuê, v.v. Giặc Pháp càng dùng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại để ra oai, thì lòng căm thù của quân và dân thủ đô càng bốc lên ngùn ngụt, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ thủ đô càng vô cùng quả cảm. Đảng viên Trần Đan một mình dùng lựu đạn đánh bật sáu, bảy đợt xung phong của địch cho đến khi tay phải bị cụt, còn một tay trái vẫn chiến đấu giữ vững trận địa. Đồng chí Minh bị lựu đạn khói địch làm mờ hai mắt nhưng quyết không rời trận địa, nhằm hướng có tiếng động bắn cản địch xung phong. Anh công nhân Tưởng, người thợ sửa chữa ô tô dã chiến đấu đến khi hết đạn, hết lựu đạn, dùng dao thái thịt quần nhau với giặc hết bàn này đến phản khác ở chợ Đồng Xuân... Đến nay mỗi khi nhắc tới những cán bộ gương mẫu, những người chỉ huy hết lòng vì Đảng vì dân như chính trị viên Lê Gia Định ở Bắc Bộ phủ, Lê Chí Thực ở Giảng Võ và Vũ Công Định, đại đội trưởng đại đội 134... mọi người không khỏi bùi ngùi thương nhớ và vô cùng cảm phục. Các chiến sĩ thủ đô cũng không bao giờ quên được hình ảnh đồng chí Tổng chỉ huy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp ra tận chiến hào, ụ súng để nhận xét rút kinh nghiệm về cách đánh giặc và động viên khích lệ kịp thời, chỉ đạo giúp đỡ Bộ Chỉ huy mặt trận từng giờ, từng phút. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuống tận pháo đài, đi tới các đường phố đổ nát để chỉ đạo việc phá hoại và xây đắp chướng ngại và bổ sung kế hoạch tác chiến. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, đặc phái viên của Trung ương, có đồng chí Lê Quang Đạo đi cùng đã không nề hà bất cứ việc gì, đã vượt qua lửa đạn vào thăm Liên khu I giữa những ngày gay go quyết liệt. Đồng chí Nguyễn Văn Trân, bí thư Đảng ủy mặt trận đã ngày đêm làm việc không biết mệt mỏi. Đồng chí đã bò, lăn qua mặt đê Bình Lao tới bờ tường, chiến hào thăm hỏi các chiến sĩ quyết tử, rồi suốt một đêm mưa rét, đồng chí đã đứng ở ven sông Hồng mong ngóng được gặp mặt các chiến sĩ trung đoàn Thủ đô yêu quý. Đồng chí Trần Độ, chính trị ủy viên mặt trận, trong lúc gian nan luôn luôn gặp gỡ, động viên các chiến sĩ. Và còn biết bao nhiêu hình ảnh ân cần khác của các đồng chí Trung ương, Tổng chỉ huy và Đảng ủy mặt trận đã sưởi ấm lòng quân và dân thủ đô, khích lệ các chiến sĩ và các cấp chỉ huy, cấp lãnh đạo trực tiếp càng hăng hái quyết tâm giết giặc cứu nước. Quân và dân thủ đô Hà Nội đã kề vai sát cánh bên nhau đánh thắng kẻ thù xâm lược.

           Thủ đô Hà Nội kiên quyết đứng lên, từ không trở thành có, từ yếu trở thành mạnh, làm nên biết bao chiến công lẫy lừng.

          Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến của mặt trận Hà Nội, tài tình và kiên quyết.

          "Trung đoàn Thủ đô đã tượng trưng cho bộ đội của một dân tộc nhược tiểu quyết tâm không muốn làm nô lệ và đã ngang nhiên chống lại bộ đội một nước lớn, bộ đội hùng mạnh của chủ nghĩa đế quốc". Lời nói đó của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp còn vang mãi trong tâm trí các chiến sĩ thủ đô Hà Nội. Đảng đã đoàn kết toàn dân, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước vốn có của dân tộc, đã vũ trang tinh thần cách mạng triệt để cho quần chúng ở thủ đô Hà Nội và cả nước ngay từ khi Đảng mới ra đời và nhất là từ khi chính quyền cách mạng mới được thành lập. Đảng đã biến tinh thần bất khuất của một dân tộc anh hùng, thủ đô anh hùng trở thành sức mạnh vật chất vô tận. Đảng đã khéo léo vận dụng lý luận sách lược cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, đặc biệt là ở thủ đô Hà Nội thời kỳ đầu kháng chiến. Đảng đã đoàn kết được mọi lực lượng chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình của dư luận tiến bộ trên thế giới, cô lập kẻ thù cao độ. Đảng đã lãnh đạo quân và dân thủ đô, cũng như nhân dân cả nước tiến hành một cuộc chiến tranh cứu nước bền bỉ và vố cùng anh dũng với khẩu hiệu: "Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến!", "Tự lực cánh sinh!" và "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi".

          Toàn dân đoàn kết gắn bó xung quanh Đảng và Hồ Chủ tịch, hết lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo anh minh của Đảng tiền phong bách chiến, bách thắng. Quân và dân thủ đô sẵn sàng đi theo con đường của Đảng đã chỉ ra. Đáng bảo "đánh là đánh!", bảo "thắng là thắng!". Giữa lúc thù trong giặc ngoài xúm lại định xâu xé Tổ quốc ta, giữa lúc quân thù hung ác diễu võ dương oai, ngang nhiên lấn át, nhưng được sự ân cần chỉ bảo của Đảng, một lời nói của Bác Hồ truyền tới thì trăm ngàn mối lo, thắc mắc vương vấn trong lòng quân và dân Hà Nội lập tức tiêu tan. Quân giặc mạnh hơn gấp bội, dân ta chỉ có gậy gộc, giáo mác đứng lên kháng chiến, ngàn vạn gian lao chắn ngang trước mặt, nhưng được Đảng và Bác kiên trì dìu dắt khuyên răn, mọi người lại quyết chí vượt qua. Ở Hà Nội, tất cả mọi lực lượng vũ trang, mọi tổ chức quần chúng đều chiến đấu dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng ủy mặt trận. Đảng đã lãnh đạo quân và dân thủ đô đoàn kết để chiến thắng kẻ thù. Đoàn kết đã tạo thành sức mạnh vô địch, không bom đạn nào phá nổi. Quân đội ta ở thủ đô Hà Nội ít hơn giặc Pháp, vũ khí quá nghèo nàn và thô sơ, kỹ thuật chiến thuật còn non yếu, nhưng chúng ta đã có đội ngũ trùng trùng điệp điệp và nguồn bổ sung vô tận là quảng đại quần chúng, một lòng một dạ hy sinh tất cả để bảo vệ Tổ quốc. "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước". Quân và dân thủ đô cũng như nhân dân cả nước đã hành động đúng như lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

           Hà Nội đứng lên! Cả nước chi viện cho Hà Nội, phối hợp với Hà Nội giữ vững và phát huy truyền thống chống ngoại xâm của thủ đô anh hùng và dân tộc Việt Nam anh hùng. Hà Nội kháng chiến, được sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo tài tình của Bộ Tổng chỉ huy, quân và dân thử đô Hà Nội đã chiến đấu anh dũng tuyệt vời, với khẩu hiệu: "Sống chết với thủ đô!", "Thà chết không chịu làm nô lệ!", "Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước!". Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô bùng nổ, thủ đô chiến thắng như một hồi chuông vang dậy tới mọi vùng đất đai trên khắp trái đất. Trước đây, trên thế giới có nhiều nơi chưa hề biết đến Hà Nội, Việt Nam là đâu. Có nơi chỉ hiểu Việt Nam là một bộ phận của xứ Đông Pháp! Nhưng thủ đô Hà Nội đứng lên kháng chiến. Ngọn cờ chiến thắng của quân và dân thủ đô Hà Nội Việt Nam đã giương cao chói lọi. Tiếng súng chiến thắng ở thủ đô đã vang dội trên toàn thế giới. Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo nhân dân phản đối chính phủ phản động Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa ở Việt Nam. Dư luận tiến bộ trên khắp trái đất đều ủng hộ cuộc chiến đấu tự vệ của nhân dân Việt Nam.

          Hà Nội lớn lên và chiến thắng! Những ngày đầu kháng chiến ở thủ đô Hà Nội đã biểu hiện đường lối quân sự đúng đắn của Đảng, đường lối chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân mà Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội đã quán triệt và trực tiếp tiến hành, biến nghị quyết của Đảng thành hành động cụ thể. Đó là sự chỉ huy thống nhất mọi lực lượng tham gia chiến đấu tại mặt trận, là sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ, giữa hình thức tác chiến tập trung với hình thức tác chiến phân tán lẻ tẻ, là sự phân tích đúng đắn lực lượng so sánh để tổ chức chiến đấu cho thích hợp với địa hình, trang bị vật chất và trình độ kỹ thuật lúc đó ở Hà Nội, Đảng ủy đã nắm vững đường lối quần chúng, tin tưởng vào quần chúng, có những chủ trương xây dựng và tác chiến đúng đắn. Qua thử thách trong chiến đấu, quần chúng đã sáng tạo ra muôn vàn cách tiêu diệt giặc, bảo vệ mình, thích hợp với tình hình lực lượng so sánh lúc đó. Suốt 2 tháng trời, gần 200 trận chiến đấu đã diễn ra muôn màu muôn vẻ, nhưng hầu hết thực hiện đánh ban đêm, đánh giáp lá cà, đánh bất ngờ. Ta không tự trói buộc vào một lối đánh nào, mà đã tùy tình hình cụ thể, thực hiện xen kẽ rất sinh động tất cả các hình thức tác chiến: tấn công, tập kích, biệt kích, phục kích, quấy rối, nghi binh, đánh lẻ, đánh tiêu hao, v.v. Đặc biệt là thuật "trùng độc chiến" là một lối đánh cách mạng rất độc đáo, rồi đến các thuật "ba lan", thuật "xoáy trôn ốc", thuật "chuyển thoái vi công", v.v. càng thể hiện sức sáng tạo của quần chúng trưởng thành trong khói lửa, từ thực tiễn đã trở thành nguyên tắc.

          Nhưng trong điều kiện lịch sử hồi ấy, trình độ chúng ta còn rất hạn chế nên mọi việc đều bỡ ngỡ. Nếu chúng ta có kinh nghiệm sử dụng lực lượng trong việc kết hợp tập trung ưu thế tuyệt đối từng lúc, từng nơi với lối đánh du kích, nói cụ thể hơn, nếu chúng ta hiểu và thể hiện đúng đắn như thế nào là tập trung ưu thế tuyệt đối, như thế nào là đánh tiêu diệt, và biết nắm lực lượng cơ động và cơ động lực lượng một cách linh hoạt thì giặc Pháp còn gặp nhiều khốn đốn hơn nữa. Mặt khác, Bộ chỉ huy mặt trận còn hết sức bỡ ngỡ chưa biết dự kiến sâu xa quá trình phát triển của chiến sự để có kế hoạch chỉ đạo kịp thời và thấu suốt lâu dài hơn, chuẩn bị mọi mặt bảo đảm cho mặt trận được chu đáo hơn. Nhưng những thiếu sót cụ thể về trình độ có tính chất lịch sử ấy cũng không thể nào làm phai mờ được chiến thắng vô cùng lớn lao của quân và dân thủ đô Hà Nội dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, sự chỉ huy tài tình và cụ thể của Bộ Tổng chỉ huy. Chúng ta đã quật ngã một kẻ thù mạnh hơn gấp bội, mở đầu cho cuộc kháng chiến thần thánh của cả dân tộc ta, suốt 9 năm trường oanh liệt.

          Ra đi rời khỏi Hà Nội, lời căn dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn vang mãi trong lòng các chiến sĩ thủ đô suốt 3.000 ngày khói lửa. Họ đã đi trên khắp các nẻo đường Trung, Nam, Bắc. Các chiến sĩ thủ đô đã không ngừng phát huy truyền thống chiến đấu anh dũng, lập chiến công vang lừng trên khắp các mặt trận.

          Trải qua 8, 9 năm vật lộn trong lòng địch, lúc âm ỉ, lúc sục sôi, nhân dân Hà Nội đã cùng nhân dân cả nước, cùng các chiến sĩ thủ đô và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đóng góp vào chiến thắng vô cùng to lớn: Điện Biên Phủ, một chiến công hiển hách, một chiến thắng làm chấn động thế giới, kết thúc một trang sử nhuốc nhơ đầy tội ác đẫm máu của bọn thực dân xâm lược Pháp ở Việt Nam, Hà Nội - Điện Biên Phủ, những tiếng vang ngàn năm bất tận.

          Trở về Hà Nội, các chiến sĩ thủ đô lại được nghe những lời căn dặn trong bản nhật lệnh lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "... Tiêu biểu cho Quân đội nhân dân Việt Nam anh dũng và hùng mạnh, các đồng chí là những đơn vị đầu tiên về thủ đô Hà Nội trước sự chờ mong của đồng bào thủ đồ và sự vui mừng phấn khởi của đồng bào toàn quốc. Nhiệm vụ của các đồng chí rất nặng nề nhưng rất vẻ vang...".

          Ngày 10 tháng 10 năm 1954, các chiến sĩ thủ đô đã trùng trùng điệp điệp tiến trong rừng cờ đỏ sao vàng trở về Hà Nội, giữa muôn ngàn đóa hoa tung lên, muôn ngàn tiếng hò reo, tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay như sấm động của nhân dân thủ đô. Quân và dân cảm động sung sướng đến rơi nước mắt. Cả thủ đô lộng lẫy trong rừng cờ, rừng hoa... Hà Nội giải phóng lại như một hồi chuông rung vang trời đất! Nhân dân cả nước, kiều bào ở nước ngoài và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới hân hoan vui mừng tới tấp gừi điện văn, thư từ chúc mừng Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, chúc mừng nhân dân thù đỏ Hà Nội anh hùng.

Hà Nội, Thăng Long xưa ngàn năm bất diệt!

 

PHẦN PHỤ LỤC

VỊ TRÍ VÀ LỰC LƯỢNG CỦA ĐỊCH TRƯỚC NGÀY KHỞI CHIẾN

(Chưa kể số quân từ nước Pháp và các thuộc địa tiếp tục tiếp viện tới Hà Nội trong quá trình xâm lược nước ta)

Tổng số:

   Quân số: 4.220 tên, về sau ở Hải Phòng lên thêm, quân số tới 6.500 tên.

   Vũ khí: 5.000 súng trường, 600 liên thanh nhẹ, 180 liên thanh nặng, 42 khẩu pháo.

   Cơ giới: 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp.  

Bố trí như sau:

1. Trại lính (thành Hà Nội)

   Quân số: 960

   Vũ khí: 300 súng trường Mỹ, 300 súng liên thanh nhẹ, 70 liên thanh nặng.

   Cơ giới: 9 xe tăng, 26 xe thiết giáp.

2. Trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An)

   Quân số: 250 gồm có:

   1 đại đội bộ binh 150 tên

   1 phân đoàn thiết giáp của hải quân R.B.F.M (Régiment blindée des Fusileries Marines) 100 tên.

   Vũ khí: 100 súng trường, 49 tôm xơn, 40 các bin, 9 liên thanh nhẹ.

        Cơ giới: 3 xe tăng, 4 xe thiết giáp.

3. Trường Anbe Xarô (nay là số 2 phố Hoàng Văn Thụ)

   Quân số: 500, gồm có:

   1 đại đội bộ binh (đại đội 10, tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh thuộc địa 6), một quan ba chỉ huy: Moles.

   1 cụm pháo binh sư đoàn (tiểu đoàn 1, trung đoàn pháo binh thuộc địa dã chiến I/R.A.C.M) có 3 khẩu đội.

   Chỉ huy gồm: 1 quan tư, 1 quan ba, 2 quan hai.

   Vũ khí: 200 súng trường, 60 các bin, 60 tôm xơn, 20 liên thanh nhẹ, 15 liên thanh nặng.

   Cơ giới: 5 xe thiết giáp, 2 xe tăng loại lớn, 2 xe tăng loại nhỏ.

4. Phủ toàn quyền cũ

   Quân số: 500 (thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh thuộc địa 6, đại đội 1 và 9).

   Vũ khí: 120 súng trường, 80 tôm xơn, 60 các bin.

5. Trường sư phạm Đỗ Hữu Vị (nay là trường Nguyễn Trãi)

   Quân số: 50 thợ máy, một tiểu đội 12 lính gác.

   Vũ khí: 7 súng trường, 2 các bin, 2 tôm xơn, 1 liên thanh nhẹ.

6. Quán Thánh Quân số: 1 đại đội

   Vũ khí: 10 liên thanh nhẹ, 10 các bin, 20 tôm xơn, 100 súng trường.

7. Nhà thương Đồn Thủy (nay là Viện quân y 108)

   Quân số: 520

   Vũ khí: 6 liên thanh nặng, 3 liên thanh nhẹ, 66 súng trường. Cơ giới: 4 hồng thập tự, 2 xe vận tải, 3 xe gíp.

8. Khách sạn Métropole

   Quân số: 200 sĩ quan và binh lính đầy đủ vũ khí nhẹ.

9. Gia Lâm

   a) Trường bay Quân số: 800.

   Vũ khí: loại nhẹ trang bị đủ, 7 pháo 75 ly, 2 liên thanh nặng.

   Cơ giới: 6 xe tăng, 2 xe thiết giáp, 50 xe vận tải.

   Máy bay: 4 Xpítphai, 4 moran, 5 oanh tạc, 6 khu trục mới ở Sài Gòn ra.

   b) Xưởng sửa chữa

   Quân số: 36, trang bị đủ vũ khí nhẹ, 1 liên thanh loại nặng. Kho vũ khí: 300 súng trường và liên thanh nhẹ.

   Kho lương thực: 500 tấn cá khô, bột mì, đậu.

   Dù người: 2.000 chiếc.

   c) Nhà máy khuy

   Quân số: 100. Trang bị đủ vũ khí nhẹ, có thêm 3 liên thanh nặng.

   Vị trí lực lượng nhỏ

10. Viện Quang tuyến: thường có 1 tiểu đội. Tới 23 tháng 11 năm 1946 đưa đến 2 pháo đặt chĩa về phía Hỏa Lò.

11. Hàng Trống (nhà Moóclie): thường có 1 tiểu đội. Ngày 23 tháng 11 năm 1946 tăng thêm lực lượng, bố trí cẩn mật.

12. Trần Nhật Duật (đầu cầu Long Biên): 1 trung đội, 22 súng trường, 6 các bin, 4 tôm xơn, 2 liên thanh nhẹ.

13. Nhà băng Đông Dương: 2 tiểu đội gác chung với Vệ Quốc Đoàn.

14. Ga Hàng Cỏ: 1 tiểu đội gác chung với Vệ Quốc Đoàn.

15. Nhà dầu Sen (Shell) Khâm Thiên: 1 tiểu đội, có 1 khẩu súng cối.

16. Số 7 phố Tự Do cũ (phía Ngọc Hà): 19 lính, 4 cai đội, 1 quản, 3 xe thiết giáp, 2 gíp, 1 xe vận tải.

17. Số 10 Thụy Khê: 30 lính, 14 súng trường, 4 các bin, 4 tôm xơn, 6 liên thanh, 2 xe thiết giáp.

18. Số 18 Cao Bá Quát (kho Descourd): 10 lính thợ, 1 quan ba, (vũ khí không rõ).

19. Gara Xitaga Hàng Cỏ (một bộ phận của xưởng Chiến Thắng hiện nay): 10 lính thợ, vũ khí không rõ.

20. Gara Bécxê (xưởng Dân sinh, Trường Thi): 6 lính thợ, 6 súng trường, 1 liên thanh.

21. Gara Boalô (5 Tràng Tiền): 20 lính thợ, 2 liên thanh.

22. Gara Pho (Công ty xe con, 7 Đặng Thái Thân): 1 tiểu đội.

23. Gara Girôđô: 20 lính thợ, 1 liên thanh.

24. Nhà dầu Sen (nay là ủy ban khoa học Nhà nước, góc phố Trần Hưng Đạo và Ngô Quyền): 1 tiểu đội.

25. Số 23 Hàn Thuyên: 20 lính, 1 quan tư, 1 quan ba, 14 súng trường, 4 liên thanh nhẹ.

26. Số 44 Tăng Bạt Hổ: 15 lính, 4 sĩ quan

27. Số 51 Lý Thái Tổ: 1 tiểu đội.

28. Làng Xuân Biểu, đường Hoàng Hoa Thám: 1 sĩ quan, 9 lính, đủ súng.

29. Nhà Chivoa, đường Hoàng Hoa Thám: 8 lính, 1 cai, 1 quan tư, 8 súng trường, 1 tôm xơn, 1 súng ngắn, 1 liên thanh, 16 lựu đạn, 1 hòm đạn súng trường, 1 xe gíp.

30. Số 5 Phan Đình Phùng: 1 tiểu đội súng các bin, 1 quan ba, 1 quan một.

31. Hùng Vương: 16 lính, 1 quan tư, 1 quan hai, 1 quan một, 1 quản, 1 đội, 2 xe vận tải, 5 xe gíp, 1 ôtô du lịch.

32. Số 6 bis Tôn Trung Sơn: 1 tiểu đội đủ vũ khí.

33. Số 42 Hoàng Diệu: 10 lính, 1 quan hai, 1 quan một, 1 ô tô du lịch.

34. Số 32 Hoàng Diệu: 6 lính, 1 quan tư, 1 quan hai, 2 đội, 1 ô tô du lịch (nhà phái bộ Mỹ).

35. Số 58 Hoàng Diệu: 1 quan năm không quân (Duvieux), 1 quan tư không quân, 6 lính gác, 1 xten, 6 súng trường, 18 lựu đạn, 4 hòm đạn.

36. Số 29 Tôn Thất Thuyết (nay là đại lộ Lê Hồng Phong): 1 quan tư, 1 quan hai, 1 quan một, 7 đội và quản, 3 lính, 2 xe du lịch, 2 xe thiết giáp (tối có lính trong thành ra gác).

37. Số 48 Phan Chu Trinh (nay là phố Nguyên Thái Học): 4 lính, 2 quan hai, 2 quan ba, 1 xe gíp, 1 xe du lịch (tối có lính trong thành ra gác).

38. Số 40 Phùng Hưng (Cơ quan Quân bưu): hàng ngày có 4 xe vận tải và 2 xe gíp đến liên lạc (tối có 4 lính gác).

39. Nha Tài chính: 1 trung đội đủ vũ khí.

40. Nhà đèn Bờ Hồ: 1 tiểu đội gác chung với Vệ Quốc Đoàn.

41. Nhà máy điện Yên Phụ: 1 tiểu đội gác chung với Vệ Quốc Đoàn.

42. Nhà máy nước: 1 tiểu đội gác chung với Vệ Quốc Đoàn.

43. Phố Tôn Thất Thuyết (nay là đại lộ Lê Hồng Phong): 1 trung đội.

44. Phà Đen: 1 trung đội.

45. Nhà chiếu bóng Majestic (nay là rạp Tháng 8 ): 1 trung đội.

(Ngoài ra còn các tổ ở một số nhà thờ và nhà Pháp kiểu khác)...

 

VỊ TRÍ VÀ LỰC LƯỢNG CỦA TA TRƯỚC NGÀY GIẶC PHÁP KHỞI CHIẾN

(Chỉ tính bộ đội chính quy Vệ Quốc Đoàn)

Tổng số: 5 tiểu đoàn (2.515 người chiến đấu được).

Vũ khí: 1.516 súng trường, 7 pháo cao xạ 75 ly của các pháo đài do Pháp để lại, nay ta dùng làm pháo mặt đất và 1 sơn pháo 75 ly, 1 pháo chống tăng 25 ly. Số đạn còn lại rất ít. Tất cả đều không có máy ngắm và dụng cụ đo đạc.

Bố trí như sau:

Liên khu I (Đông Bắc thành phố)

   Tổng số: 463 người do đồng chí Toàn Vinh và đồng chí Nguyễn Văn Triệu chỉ huy.

   Căn cứ: Hàng Bè.

   1. Yên Phụ (Nhà máy điện): 2 tiểu đội 25 người (gác chung với quân Pháp).

   2. Yên Phụ: 2 tiểu đội 34 người.

   3. Nguyễn Thái Học: một nửa tiểu đội 6 người (giữ đường Nguyễn Thái Học, đê Yên Phụ và đường Cổ Ngư).

   3. Nhà máy nước: 1 tiểu đội 13 người (gác chung với quân Pháp).

   4. Nhà in Viễn Đông: 1 tiểu đội 12 người (gác chung với quân Pháp)

   5. Trường Hàng Than: 2 tiểu đội 25 người.

   6. Đầu cầu Long Biên (Trần Nhật Duật): 1 trung đội 45 người (gác chung với quân Pháp).

   7. Giữa cầu Long Biên: 1 trung đội 32 người (gác chung với quân Pháp).

   8. Cuối cầu Long Biên (Gia Lâm): 1 trung đội 38 người (gác chung với quân Pháp).

   9. Bộ Ngoại giao: 1 tiểu đội 13 người.

   10. Nhà máy đèn Bờ Hồ: 1 tiểu đội 12 người gác (gác chung với quân Pháp).

   11. Kho bạc Lê Lai (nay là Sở Thương nghiệp Hà Nội): 1 tiểu đội 15 người.

   12. Nhà băng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước): 1 tiểu đội 15 người (gác chung với quân Pháp).

   13. Nha Thương chính (nay là Bảo tàng Cách mạng): 1 tiểu đội 16 người (gác chung với quân Pháp)..

   14. Quân huấn cục (số 18 phố Tôn Đản): 1 tiểu đội 16 người.

   15. Nhà dầu Sen (39 Trần Hưng Đạo): 1 trung đội 48 người.

   16. Tòa Thị chính (nay là Ủy ban nhân dân Hà Nội): 1 trung đội rưỡi 57 người.

   17. Bắc Bộ phủ (nay là khu vực Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Vụ Lễ tân): 1 đại đội 98 người.

Liên khu II (phía Nam thành phố)

   Tổng số: 1.074 người, do đồng chí Bùi Sinh và Quang Tuấn chỉ huy. Về sau đồng chí Phùng Thế Tài chỉ huy.

   Căn cứ: Chợ Hôm và trại Hàn Lân.

   18. Viện Bảo tàng lịch sử: 1 tiểu đội 11 người.

   19. Sở Khoáng chất (nay là Tổng cục địa chất): 2 tiểu đội 23 người.

   20. Bộ Quốc dân kinh tế (nay là Bộ Tài chính): 2 tiểu đội 26 người.

   21. Nhà thương Đồn Thủy (nay là Quân y viện 108): 2 tiểu đội 25 người.

   22. Phía Nam nhà thương Đồn Thủy: 1 đại đội 147 người.

   23. Khu Lò Lợn (nay là Lò sát sinh): 308 người (Khu bộ).

   24. Nhà Đúc Tiền (nay là Thêu ren xuất khẩu, phố Lò Đúc): 1 tiểu đội 11 người.

   25. Nhà Rượu (phố Nguyễn Công Trứ): 1 tiểu đội 16 người.

   26. Trại Vệ Quốc Đoàn Trung ương (40 phố Hàng Bài): 2 trung đội 63 người.

   27. Thư viện Bác Cổ (nay là Thư viện khoa học): 1 tiểu đội 11 người.

   28. Trường Đồng Khánh (nay là trường Trưng Vương): 1 trung đội 40 người.

   29. Trụ sở liên lạc Việt - Pháp (số 21 Bà Triệu): 2 tiểu đội 27 người (gác chung với quân Pháp).

   30. Thông tin tuyên truyền (ở phố Trần Hưng Đạo): 1 tiểu đội 12 người.

   31. Quân y viện Trung ương (nay là Bệnh viện C): 1 tiểu đội 13 người.

   32. Đề lao Trung ương (Hỏa Lò): 1 trung đội 44 người.

   33. Nhà ga: 1 tiểu đội 11 người (gác chung với quân Pháp)...

   34. Nhà công binh Star (góc đại lộ Lý Thường Kiệt và phố Phan Bội Châu): 1 tiểu đội 11 người.

   35. Số 52,54 Trần Nhân Tôn: 1 trung đội 51 người.

   36. Trường Phan Sào Nam: 3 tiểu đội 38 người.

   37. Thanh niên cứu quốc (ở phố Lê Đại Hành): 1 tiểu đội 15 người.

   38. Trại Hàn Lân: 1 trung đội 35 người.

   39. Làng Tám: 1 tiểu đội 13 người.

   40. Làng Sét: 1 tiểu đội 14 người.

   41. Pháo đài Bạch Mai: 1 trung đội 37 người.

   42. Vĩnh Tuy: 1 tiểu đội 11 người.

   43. Sở Vô tuyến điện (Ngã tư Vọng): 2 trung đội 60 người.

   44. Kim Liên: 2 tiểu đội 23 người.

Liên khu III (phía Tây thành phố)

   Tổng số: 978 người do đồng chí An Giao chỉ huy. Về sau đồng chí Lê Quân chỉ huy.

   Căn cứ: ô Cầu Giấy.

   45. Trường bay Bạch Mai: 1 đại đội.

   46. Ngã Tư Sở: 1 trung đội 33 người.

   47. Khương Hạ: 1 tiểu đội 11 người.

   48. Khương Thượng: 1 tiểu đội.

   49. Khương Trung: 1 trung đội 30 người.

   50. Cự Lộc: 1 trung đội 40 người.

   57. Nhà máy tóc (Ô Chợ Dừa): 1 trung đội 32 người.

   52. Phố Hàng Bột: 1 trung đội 42 người.

   53. Trại Khách (Ô Chợ Dừa): 1 trung đội 41 người.

   54. Nhà dầu Khâm Thiên: 1 tiểu đội 17 người.

   55. Sở Tài chính (gần đường Hùng Vương và Ngọc Hà): 2 tiểu đội 26 người.

   56. Kho Bưu điện phố Tôn Thất Thuyết: 1 tiểu đội 10 người.

   57. Sở Đúc Tiền (gần bến ô tô Kim Mã): 1 trung đội 41 người.

   58. Đình làng Kim Mã: 1 trung đội 39 người.

   59. Trại con gái Ngọc Hà: 1 tiểu đội 12 người.

   60. Nhà Đông Hải: một nửa tiểu đội 4 người.

   61. Quần Ngựa: 2 tiểu đội 24 người.

   62. Nhà dầu Tam Đa: 1 tiểu đội 12 người.

   63. Đường Cam Lộ: 2 tiểu đội 28 người.

   64. Ngã tư Cầu Giấy: 2 trung đội 53 người.

 

VỤ ÔN NHƯ HẦU, ĐƯỜNG QUÁN THÁNH, CHÂU LONG, SÀO HUYỆT CỦA BỌN PHẢN ĐỘNG QUỐC DÂN ĐẢNG

          Sau khi bọn Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam lục tục trốn theo bọn Tàu Tưởng rút khỏi Việt Nam thì bọn Việt Nam Quốc dân đảng còn lại trong nước và bọn Đại Việt liền họp với nhau để hợp nhất hai đảng và đổi tên là Quốc dân đảng. Quốc dân đảng bầu Trương Tử Anh, thủ lĩnh Đại Việt, làm đảng trưởng. Giặc Pháp ra sức giúp đỡ bọn Quốc dân đảng, trong đó chủ yếu là bọn Đại Việt, ráo riết thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền ta. Chúng thường tổ chức ám sát những Pháp kiều hoặc lính Pháp đi lẻ tẻ để mượn bàn tay Pháp tiêu diệt dần dần lực lượng của ta làm cho chúng ta suy yếu. Đến mức độ nào, giặc Pháp sẽ giúp đỡ bọn phản động lật đổ Chính phủ ta, lập chính quyền bù nhìn tay sai. Mặt khác, chúng ra sức tìm cách ám sát các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ ta. Về hoạt động công khai, chúng tổ chức lực lượng vũ trang riêng, đóng trụ sở riêng, xuất bản báo chí riêng. Sau khi ta lấy đầy đủ tài liệu chứng cứ về kế hoạch lật đổ Chính phủ ta của chúng vào ngày 14 tháng 7 do thực dân Pháp chủ mưu, thì trước đó 2 ngày, tức là 5 giờ sáng ngày 12 tháng 7, chúng ta đã tấn công trụ sở bọn Đại Việt ở số 132 phố Đuyvinhô (Duvigneau), bắt sống hơn 20 tên mình trần, đang nằm ngủ ngổn ngang với một chiếc máy in chưa khô mực, khuôn chữ chưa kịp tháo ra và từng đống truyền đơn, yết thị kêu gọi lật đổ Chính phủ ta, lập chính quyền phản động.

           Bảy giờ sáng ngày 12 tháng 7, các lực lượng vũ trang nhân dân lại tiếp tục tấn công vào 3 trụ sở Quốc dân đảng ở hồ Thuyền Quang. Ở đây có một tên phát xít Nhật làm cố vấn và một lớp huấn luyện trên 70 tên thường được chúng tung đi rải truyền đơn khiêu khích. Bọn này dùng trung liên bắn lại tự vệ và công an ta rất kịch liệt. Đến khi ta phong tỏa mạnh, uy hiếp hỏa lực của chúng thì chúng đầu hàng. Tại nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, ta bắt được tên Phan Kích Nam, ủy viên ban chấp hành trung ương của Việt Nam Quốc dân đảng, cầm đầu bọn này. Đây là sào huyệt của bọn chuyên nghề bắt cóc, giết người, tống tiền. Một buồng tắm nhỏ có đủ dụng cụ tra tấn ngổn ngang, máu me bê bết chung quanh tường. Ngoài vườn, từng đống xác người bị chặt vụn chôn dưới bụi chuối. Trong nhà để xe có một người hàng giò bị trói, vất nằm còng queo dưới đất. Trong những xác người bị rữa, có người đạp xích lô, bà hàng rong và những người mà chúng nghi là có nhiều tiền của v.v.

          Tám giờ tối hôm đó, ta tiếp tục đánh vào các trụ sở của chúng ở khu vực Quán Thánh, nhất là căn nhà số 80 phố Quán Thánh là cơ quan báo chí của chúng. Trong ngày 12 tháng 7, bọn phản động tập trung về Quán Thánh để dựa vào thế lực giặc Pháp trong thành. Khi ta bao vây, chúng dùng súng trường, súng máy bắn trả lại ta kịch liệt. Một mặt, chúng cho người đi cầu giặc Pháp cứu viện. Khoảng 10 giờ đêm, xe thiết giáp của Pháp lù lù tiến đến. Pháo binh, súng cối của Pháp bắn liên hồi vào vị trí của ta. Nhưng đại biểu của ta trong phái đoàn Liên kiểm lập tức đến can thiệp. Không có lý do gì để nhúng tay vào công việc nội trị của chúng ta, lại không muốn tự lật tẩy mình, nên bọn Pháp bắt buộc phải rút lui. Trong lúc đó, chúng ta xung phong vào bắt toàn bộ bọn đầu sỏ, trong đó có tên Xuân Tùng, Khải Hưng, Phan Khôi, v.v. Ở đây, ta cũng phát hiện ra rất nhiều người bị chúng bắt cóc, chôn sống, chôn đứng, chặt nửa người, vùi người dưới sân trường Yên Thành và trong các trụ sở của bọn chúng. Nhân dân Hà Nội đều được chứng kiến những sự thật dã man vô nhân đạo của bọn bán nước này.

               Đêm 12 tháng 7, mọi việc thanh toán bọn phản động Quốc dân đảng ở Hà Nội đều làm gọn. Cuộc diễu binh ngày 14 tháng 7 của giặc Pháp không có nữa. Âm mưu thâm độc của thực dân Pháp định cùng bọn tay sai phản động lật đổ Chính phủ ta bị hoàn toàn thất bại.

 

CHỈ THỊ

Về việc chuẩn bị phá hoại cầu cống, đường sá...

Xét tình thế nhiệm vụ, trong mỗi khu cần phải có một tiểu ban phá hoại, đặt trong tổ tác chiến của Bộ tham mưu khu.

Tiểu ban phải:

          1. Nghiên cứu đề đặt một kế hoạch phá hoại những đường nào cần phá, quãng đường nào cần phải phá ngay. Muốn như thế, các nhân viên trong tiểu ban trước hết phải nghiên cứu trên bản đồ chung. Rồi đích thân đến tận nơi để nhận xét địa thế. Những nơi ở ruộng khô, không nên phá mà chọn những nơi hai bên là ao hay hồ hoặc những nơi hai bên có cây cối rậm rạp có thể lợi dụng chiến đấu được. Nếu ở rừng núi thì chọn những nơi dưới thấp, trên cao, dưới suối, trên rừng hoặc những đường độc đạo ngoắt ngoéo. Mỗi nơi định phá, phải đặt kế hoạch rõ ràng như phá rộng bao nhiêu, đào sâu bao nhiêu, dài bao nhiêu.

          2. Giao nhiệm vụ rõ ràng. Nơi có bộ đội đóng thì đặt kế hoạch giao bộ đội phụ trách phối hợp với dân quân. Nơi không có bộ đội thì phải giao kế hoạch cho ủy ban bảo vệ, rồi ủy ban bảo vệ chia cho dân làng, như mỗi làng phụ trách một quãng dài bao nhiêu để lúc có lệnh phải phá là họ đã biết cách phá và nơi phá.

          3. Đi kiểm tra. Nhiệm vụ giao rồi phải đi kiểm tra xem nơi đó đã làm hay chưa, đồng thời phải đặt cho họ những phương tiện như tập trung các dụng cụ để lúc cần có thể làm được ngay hoặc sau khi ra lệnh phá hoại rồi, phải xem có đúng như ý định của tiểu ban không.

Khi nào phá và ai ra lệnh phá? - Chỉ khi chiến sự đã bùng nổ và cần phải ngăn cản sự tiến quân của địch thì lúc đó mới được hạ lệnh phá hoại. Lệnh này sẽ do Bộ chỉ huy khu hạ xuống. Phải đặc biệt chú ý đến đường rút lui của các cơ quan. Trong những khu an toàn phải bảo vệ đường sá để sự giao thông khỏi bị ngừng trệ.

Riêng về phá cầu cống phải liên lạc với các kỹ sư hoặc nhân viên công chính để họ giúp đỡ kế hoạch. Chỗ nào khó phá hoặc phá mất nhiều công thì phải dùng mìn. Những cầu dài bốn thước không nên phá.

Phá đường sắt: nên tháo những đường ray mang vứt xuống sông hay ao, như thế đến khi cần thiết lại lấy lên dùng được. Những nơi đó nên cuốc nền đá rải ở đường và lật những khúc gỗ đặt dưới thanh "tà vẹt" (traverses). Nên chú ý phá hoại những nơi bẻ ghi thì có kết quả hơn.

Chỉ thị này các khu phải triệt để thi hành.

Hà Nội, ngày 9 tháng 12 năm 1946

Tổng tham mưu trưởng

HOÀNG VĂN THÁI

 

MỆNH LỆNH CHUẨN BỊ

(Gửi toàn thể Vệ Quốc Đoàn, dân quân, tự vệ và công an xung phong toàn thành)

Mấy ngày nay, địch đã có một âm mưu khởi hấn.

Chứng cớ là chúng đã chuẩn bị gấp về quân sự như đặt ổ súng ở các phố, các nhà tư nhân, và vận chuyển lương thực, khí giới để tích trữ ở các nơi đó. Chúng chuyển quân đến các nơi như nhà thương Đồn Thủy, trường Bưởi, Ôten Mêtơrôpôn (Hotel Métropole), v.v.

Gần đây, ngày 17 tháng 12 năm 1946, chúng đã vây bắn các tự vệ phố Hàng Bún. Ngày 18 tháng 12 năm 1946, chúng chiếm Sở Tài chính và đòi tước vũ khí của cả bộ đội ta. Hơn nữa, chúng hạ tối hậu thư cho Chính phủ ta hẹn tới ngày 20 tháng 12 năm 1946 sẽ tước hết quyền trị an.

Những sự chuẩn bị ráo riết và hành động khiêu khích ấy là một triệu chứng chúng sắp đánh úp ta thực sự.

Vì danh dự của Tổ quốc, vì quyền lợi của dân tộc, chúng ta quyết không chịu lùi bước.

Vậy hạ lệnh cho toàn thể:

Vệ Quốc Đoàn, dân quân, tự vệ và công an xung phong toàn thành từ giờ phút này phải chuẩn bị gấp để chờ lệnh. Bất kỳ lúc nào, nếu nhận được lệnh: Toàn thể bộ đội, dân quân cũng như tự vệ, công an phải anh dũng đánh lại địch theo như nhiệm vụ của từng đơn vị đã định trong kế hoạch.

Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 1946

Chủ tịch ủy ban kháng chiến khu XI

Chính trị ủy viên khu XI

Khu trưởng kiêm

Phó Chủ tịch Ủy ban

kháng chiến khu XI

NGUYỄN VĂN TRÂN

TRẦN ĐỘ

VƯƠNG THỪA VŨ

 

Mệnh lệnh của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp

 

MỆNH LỆNH CHIẾN ĐẤU

(Gửi các đơn vị Vệ Quốc quân, dân quân, tự vệ Trung, Nam, Bắc)

 

   Tổ quốc lâm nguy

   Giờ chiến đấu đã đến!

   Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi ra lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ Quốc quân, dân quân, tự vệ Trung, Nam, Bắc phải nhất tề đứng dậy.

   Phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.

   Hy sinh đến giọt máu cuối cùng.

   Luôn luôn khăng khít với đồng bào.

   Cuộc kháng chiến sẽ trường kỳ và vô cùng gian khổ, nhưng chính nghĩa thuộc về ta, chúng ta nhất định thắng lợi.

   Tiêu diệt thực dân Pháp!

   Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

   Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

 

Quyết chiến!

Ngày 19 tháng 12 năm 1946

VÕ NGUYÊN GIÁP

 

Trích. KẾ HOẠCH TÁC CHIẾN

 

Chương trình đối phó với kế hoạch trên của địch

   1. Triệt để thực hiện thuật nhà không vườn trống.

   2. Tuyệt đối phá hoại nhà gác hai tầng và đường giao thông (cắt đường, đào hầm, đắp ụ).

   3. Triệt để áp dụng vận động chiến cho thật linh hoạt.

I. Mấy điểm cần phải làm ngay

   1. Phải mắc liên lạc giữa các trung, đại đội, tiểu, trung đoàn với Bộ chỉ huy cho thật chặt chẽ ngay.

   2. Một chiến đấu viên phải luôn luôn mang theo trong mình từ 2 ngày đến 3 ngày lương khô.

   3. Một đội phải chọn lọc lấy ban trinh sát để làm tai mắt cho mình đi sục sạo các động tĩnh của địch (xích hầu).

   4. Đạn không được giữ cả hòm, để một chỗ, phải chia ra làm nhiều phần và giao cho người phụ trách vận chuyển cho thật nhanh.

   5. Bỏ hết những đồ kềnh càng, chỉ mang theo mỗi người một gói nhỏ rất nhẹ: chăn, quần áo, thuốc, lương khô, vũ khí, v.v. Còn bàn giấy của các tiểu đoàn cần đem đi những vật gì cần thiết như máy chữ, giấy má quan hệ. Mang theo nhẹ nhàng bao nhiêu, chuyển động sẽ được nhanh chóng bấy nhiêu.

II. Mấy phép dùng binh1 (Phần này viết dài, giải thích tỉ mỉ về cách đánh, ở đây chỉ nêu lên đầu đề)

   - Tập kích - Phục kích - Đánh chẹn đường, bố trí phục binh yểm hộ rút lui - Đánh quấy rối - Dương đông kích tây - Di động vị trí, v.v.

III. Mấy điểm không nên đánh

   1. Không rõ được địch thì không nên đánh.

   2. Không đánh trận địa chiến với địch.

   3. Không đương đầu với hỏa lực mạnh của địch.

   4. Không có kế hoạch rõ ràng, chắc chắn, không nên đánh.

   5. Không thủ hiểm ở một chỗ nào lâu.

IV. Nhận mấy mục đích này để diệt địch

   1. Làm tiêu hao rất nhiều đạn dược của địch.

   2. Tiêu diệt lực lượng địch.

   3. Cướp súng đạn của địch để diệt địch.


Nguồn: https://www.quansuvn.net/index.php/topic,31989.40.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét