Trang

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2019

Ngô Tuấn-Lý Thường Kiệt một nhân tài kiệt xuất


          Ông vốn họ Ngô tên Tuấn, tên chữ là Thường Kiệt, do có nhiều công lao to lớn, được vua ban Quốc tính (mang họ nhà vua) nên mới có tên là Lý Thường Kiệt. Phả xưa chép ông sinh ra và lớn lên ở phường Thái Hòa, từ nhỏ đã tỏ ra có tài năng, chuyên cần học tập, ngày học võ đêm ôn văn, theo học Lý Công Ẩn, một thân vương nhà Lý; lại được chồng của người cô là Tạ Đức truyền thụ binh pháp võ nghệ gia truyền. Năm 16 tuổi lấy vợ, chẳng may khi lâm bồn cả mẹ lẫn con đều chết. Năm 20 tuổi lấy vợ khác, một bà họ Tạ, một bà là Lý Thị Duy Mỹ. Về việc Lý Thường Kiệt có lấy vợ hay không cũng còn có những ý kiến khác nhau, nhưng hai sắc phong thời Nguyễn cho vị nữ thần được thờ ở Nghè A Đô (nay thuộc làng A Đô, xã Yên Trung, huyện Yên Định, Thanh Hóa)  mới được Phạm Tấn phát hiện đã chứng minh việc Lý Thường Kiệt có lấy vợ trước khi vào nội đình như bia Ngọ Xá và phả đã chép là có cơ sở.
          Phả xưa có đoạn: “Ngô Tuấn mặt mũi khôi ngô, dáng điệu đường hoàng, tính tình nhã nhặn khiêm tốn, có tài cả văn lẫn võ, lại siêng năng cần mẫn, hết lòng trung thành nên vua Lý Thái Tông tin yêu, muốn có Ngô Tuấn luôn gần gũi, nên khuyên Ngô Tuấn tự yêm để có thể ở lại trong cung cấm thường xuyên. Năm 23 tuổi Ngô Tuấn tự yêm”.
          Ngay sau khi vào nơi cung cấm, Ngô Tuấn được sung chức Hoàng môn chi hậu, theo hầu Thái Tông, sau thăng đến chức Đô tri ở Nội sảnh. Sau Lý Thái Tông phong ông làm Thái bảo và trao cho tiết việt. Năm Thiên Huống Bảo Tượng thứ 2 (1069), Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, ông làm tướng quân tiên phong, bắt tù Chế Củ. Do công đó được phong Phụ quốc Thái phó, đồng thời được phong đồng trung thư môn hạ, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ, Phụ quốc Thượng tướng quân, Khai Quốc công và nhận chức Tiết độ sứ các trấn xa. Năm Thái Ninh thứ 4 (1075) đời vua Lý Nhân Tông, ông cùng Tông Đản đánh Tống, lĩnh 10 vạn quân chia đường tiến đánh, vây chặt châu Khâm, châu Liêm. Viên Đô giám tỉnh Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu, ông đón đánh ở Côn Luân phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận, phá thành Ung Châu. Trong trận này, ông đem trọng binh vào đất người, mà người Tống sợ không dám động binh, tiếng tăm lừng lẫy khắp nơi, là một võ công bậc nhất xưa nay. Sau khi rút quân về, ông lại thống lĩnh đại quân đi đánh Chiêm Thành, vẽ bản đồ ba châu mà trước kia Chế Củ đã dâng cho ta, di dân đến ở rồi rút quân về.
          Lý Thường Kiệt được hậu thế đánh giá là một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Việt Nam hồi thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII.. Để thấy rõ hơn sự đánh giá này, ta hãy nhìn lại giai đoạn lịch sử những năm 1075 – 1076: Ở nước Tống, vua Tống Thần Tông lên ngôi năm 1064 khi mới 20 tuổi, lòng đầy nhiệt huyết chấn hưng đất nước, nên năm sau liền mời Vương An Thạch, một nhà chính trị và văn học nổi tiếng thời ấy về triều phong làm Phó Tể tướng, cho được quyền cải cách pháp luật. Việc cải cách pháp luật đã bị các đại thần trong triều phản đối, vua Tống sinh ra dao động, Vương An Thạch bực bội xin từ chức sau 6 năm nắm quyền. Nhưng năm sau (1075) Tống Thần Tông lại triệu Vương An Thạch về triều phong làm Tể tướng. Vừa nắm được quyền trong tay, để củng cố địa vị của mình, Vương An Thạch xui vua Tống đánh chiếm Đại Việt và khẩn trương chuẩn bị kho tàng quân lương cho cuộc chiến tranh sắp được phát động ở cả vùng biên giới Tống - Việt, nhưng cuối năm ấy đã bị Lý Thường kiệt đem quân sang phá hủy hết. Dù vậy đến tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết hợp binh với Chiêm Thành, Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến Như Nguyệt để phòng thủ. Quân Tống tổ chức vượt phòng tuyến bị thua. Những tưởng có thể nuốt sống được nước  ta, nào ngờ lại bị thua đau, không còn cách nào khác, Tống Thần Tông buộc phải để cho Vương An Thạch từ chức Tể tướng. Vương An Thạch buồn tủi, uất hận và chết ngay trong năm đó (1076). Điều đáng nói ở đây là Vương An Thạch là một trong “Đường, Tống bát đại gia”, tức là một trong 8 nhân vật kiệt xuất của đất nước Trung Hoa trong hơn 600 năm dưới triều đại nhà Đường và nhà Tống.
          Tóm tắt thân thế sự nghiệp lẫy lừng của Lý Thường Kiệt, bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn dựng vào năm 1126 sau khi ông mất 23 năm, nhưng văn bia được soạn khi Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa (trước năm 1101) bởi Hải Chiếu Đại sư (tức Giác Hải), một người làm việc dưới quyền ông trong những năm làm Tổng trấn Thanh Hóa đã từng chứng kiến tận mắt những việc ông làm cho nên mới có những lời ngợi ca cụ thể hết lời trong bia Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn (nay là xã Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa) như: “Lúc quan Thái úy còn trẻ được chọn vào cấm đình, hầu vua Thái Tông, chưa đầy một kỷ, tiếng khen đã nức ở nội đình. Đến khi vua Thánh Tông nối ngôi trị nước, Thái úy hết lòng giúp đỡ. Ra sức siêng năng, nổi bật trong hàng tả hữu, được thăng chức Kiểm hiệu thái bảo. Khi nước Phật Thệ (tức nước Chiêm Thành) khinh nhờn phép tắc, không chịu vào chầu, vương sư rầm rộ tiến đánh. Thái úy thao lược hơn người, vào cung vua mà nhận mưu chước, chế quân luật mà đuổi đánh quân thù. Hoàn Vương không đường chạy trốn, đành tự bó tay mà chịu cắt tai. Bắt được y rồi, Thái úy mới rút quân về. Vua nghĩ công lớn ấy, bèn ban khen và thăng chức. Giữa khoảng niên hiệu Thần Vũ (1069 - 1072) được phong chức Thái úy Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự giúp đỡ việc chính sự của nước nhà, muôn dân được nhờ ơn rất nhiều vậỵ. Đầu niên hiệu Thái Ninh (1072 - 1075), đức Kim thượng Minh hiếu hoàng đế lên ngôi (tức Lý Nhân Tông), Thái úy lấy tư cách là Y Doãn(1), Hoắc Quang(2) được nhà vua giao phó nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc. Bỗng chốc quân biên giới nhà Tống dòm ngó nước ta. Thái úy nắm sẵn mưu chước của triều đình thống lĩnh quân sĩ, diệt ba châu, bốn trại dễ dàng như bẻ cành gỗ mục. Chẳng bao lâu quân giặc ồ ạt kéo đến sông Như Nguyệt, thề trả thù cho ba châu. Thái úy lại cầm quân chống giặc. Thái úy lấy tư cách biện sĩ mà phân tích cho giặc, không vất vả mà bọn đầu sỏ rã rời nhụt chí. Thế là giữ được an ninh cho xã tắc. Vua mến Thái úy dũng cảm nên càng thêm sủng kính. Đầu năm Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 - 1084), Thái úy được phong làm em vua, trông nom mọi việc quân ở các châu thuộc trấn Thanh Hóa, quận Cửu Chân, châu Ái và phong cho thái ấp một vạn hộ ở Việt Thường. Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ giản dị. Những việc đổi dời phong tục, nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ quân chúng, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ bọn gian ác, đem minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết dân lấy ấm no làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được an thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự đẹp tốt đều ở đây cả. Giúp chính sự cho ba triều, dẹp yên loạn biên tái, chỉ khoảng vài năm mà tám phương yên lặng, công thật to lớn”.
          Tấm bia chùa Báo Ân núi An Hoạch (nay thuộc thị trấn Đông Hưng, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa) dựng năm 1100 cũng có đoạn ca ngợi Lý Thường Kiệt rất súc tích: “Nay có Thái úy Lý Công, giúp vua thứ tư triều Lý (tức Lý Nhân Tông), được trao chức: Suy thành, Hiệp mưu, Bảo tiết thủ chính, Tá lý, Dực đới công thần, Thủ thượng thư lệnh, Khai phủ khâm đồng tam ty, Nhập nội nội thị sảnh đô đô tri, Kiểm hiệu Thái úy, kiêm Ngự sử đại phu, Dao thụ chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ, khai quốc Thượng tướng quân, Việt quốc công, thực ấp một vạn hộ, thực thực phong bốn ngàn hộ. Ông đứng trước tiết lớn, vâng mệnh phù nguy, là người có thể gửi gắm đứa con côi, ủy thác mệnh lệnh ngoài trăm dặm. Rồi ông thề trước ba quân: phía Bắc đánh quân Tống xâm lược, phía Tây đánh bọn không lai chầu, giỏi thắng địch bằng sách lược bảy lần bắt bảy lần đều thả. Đâu phải riêng nhà Hán có công huân Hàn(3), Bành(4), nước Tề có sự nghiệp của Quản(5), Án(6). Riêng ông giúp vua thì nước nhà giàu thịnh nhiều năm. Đó chính là công tích rực rỡ của đạo làm tôi có thể để lại nghìn đời sau vậy. Đến năm Nhâm Tuất (1082), nhà vua đặc biệt ban thêm một quận Thanh Hóa cho ông làm phong ấp, châu mục đều ngưỡng mộ phong thanh, muôn dân đều mến đức chính”.
          Về đức độ và tấm lòng trung trinh một dạ của Thái uý Lý Thường Kiệt đối với quốc gia dân tộc và đối với nhà Lý, thì học giả Hoàng Xuân Hãn đã có một sự đánh giá hết sức xác đáng rằng: “Công Lý Thường Kiệt là to. Tài cầm quân Lý Thường Kiệt là cao đã đành, mà đến chính sách nội trị và ngoại giao của Thường Kiệt cũng khéo. Thường Kiệt lại cũng không tự ái quá, biết trọng quyền lợi chung. Nếu không thì sao khi vua còn nhỏ, ông cầm hết quyền bính và quân đội trong tay mà không bắt chước Lê Hoàn hay Lý Công Uẩn, chỉ ra một lệnh là cướp được ngai vàng? Nếu không, thì sau khi thấy tình thế ngoại giao với Tống trở nên khó khăn bởi mình, ông lại chịu bỏ ngôi tể phụ mà ra lủi thủi ở trấn Thanh Hóa. Tuy sách sử ta chép chuyện sơ sài, nhưng xét qua những sự còn ghi trong sách Tống ta cũng hiểu được ít nhiều đức tính của Lý Thường Kiệt. Chỉ tiếc rằng về cá nhân của ông thì không có những chứng làm cho ta biết rõ ràng hơn. Ngoài cái bia chùa Linh Xứng ở Thanh Hóa, còn lại tuyệt nhiên không có vật gì kỷ niệm một vị ân nhân của dân tộc ta. Tưởng nay đã đến lúc ta có thể đền bù công đức của Lý Thường Kiệt”.
         Lý Thường Kiệt trong thời gian trấn trị ở Thanh Hóa (1082 - 1101), ngoài việc làm cho vùng đất phên dậu của đất nước được yên ổn, vững mạnh, ông còn có công rất lớn trong việc phát triển chùa chiền và làm cho đạo Phật ở đây hưng thịnh hơn bao giờ hết. Như lời Hải Chiếu Đại sư nói trong bia Linh Xứng thì ông “Tuy thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo Phật”. Và chính vì có tấm lòng và tư tưởng hướng Phật ấy mà đã thôi thúc ông chuyên làm những điều thiện đối với dân, với nước. Về việc phát triển Phật giáo, trong thời gian chưa làm tổng trấn Thanh Hóa, Lý Thường Kiệt đã giúp sư Đạo Dung sửa chữa lại chùa Hương Nghiêm ở giáp Bối Lý (nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa) theo lời thỉnh cầu của Thái Phó Lưu Công (tức Lưu Khánh Đàm - vị quan đồng triều với Lý Thường Kiệt, người Ngũ huyện giang - Cửu Chân) vào năm 1077 (tức là năm Lý Thường Kiệt vẫn còn ở Thăng Long). Còn trong thời gian làm tổng trấn ở Thanh Hóa (1082 - 1101), Lý Thường Kiệt chính là người trực tiếp xây dựng chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng Sơn. Vì vậy dân địa phương còn gọi tên là chùa Lý Thái Úy (tức chùa Lý Thường Kiệt).


*Ghi chú:
(1)  Y Doãn là tướng của Thành Thang có công giúp Thành Thang tiêu diệt nhà Hạ mà lập ra nhà Thương.
(2)  Hoắc Quang là quan đại thần thời Hán Vũ Đế, được Vũ Đế ủy thác Phụ chính giúp người con nhỏ của mình là Hán Chiêu Đế.
(3)  Hàn tức Hàn Tín, vị tướng tài của Lưu Bang nhà Hán.
(4)  Bành tức Bành Việt là công thần khai quốc của Nhà Hán, là một tướng tài
(5) Quản tức Quản Trọng giúp Tề Hoàn công làm nên nghiệp bá.
(6)  Án tức Tề Án Anh là Tể tướng nước Tề thời  Tề Cảnh công, có tài xử thế và ngoại giao.
Nguồn gia phả họ Ngô của Ngô Vui

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét