Trang

Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2019

Ba người lính ngự lâm (Chương 15-27)


BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 15

Phái quan tòa và phái quân nhân (1).

Hôm sau ngày xảy ra những biến cố ấy, Athos vẫn không thấy có mặt, ông De Treville đã được D' Artagnan và Porthos báo cho biết về việc chàng mất tăm.

Còn Aramis thì đã xin nghỉ năm ngày về Ruăng, nghe nói có việc gia đình.

Ông De Treville là người cha của quân lính ông. Phàm đã mang bộ đồng phục ngự lâm quân trên người thì dù nổi tiếng hoặc vô danh nhất cũng chắc chắn được ông giúp đỡ, phù trợ như thể chính em ông.

Vậy nên ông đi ngay đến viên trợ úy hình sự. Viên sĩ quan chỉ huy đồn Hồng thập tự được gọi đến và những tin tức kế tiếp nhau cho biết Athos lúc này đang ở đồn Pho-lêvếch.

Athos đã trải qua tất cả những thử thách mà Bonacieux phải chịu.

Chúng ta đã dự cảnh đối chất giữa hai người bị giam. Cho tới lúc đó Athos vẫn không nói gì vì sợ D' Artagnan chưa đủ thì giờ cần có, và bấy giờ Athos mới khai mình là Athos không phải D' Artagnan.

Chàng nói thêm chàng không quen biết cả ông lẫn bà Bonacieux, chẳng bao giờ nói chuyện với họ. Lúc mười giờ chàng đến là để thăm D' Artagnan, bạn chàng, nhưng trước lúc đó, chàng vẫn ở nhà ông Treville và ăn trưa ở đấy, chàng nói thêm, hai mươi nhân chứng có thể xác nhận điều ấy, và kể ra tên tuổi nhiều nhà quý tộc nổi tiếng, trong số họ có Công tước De la Trênui.

Viên đồn trưởng thứ hai cũng ngơ ngác như viên thứ nhất trước lời khai đơn giản và quả quyết của người ngự lâm quân này. Vì hắn vẫn có ý định dựa vào người ngự lâm này để nhân đó mở trận phục thù mà phái quan tòa mong thắng bọn quân nhân biết mấy. Nhưng cái tên ông De Treville và Công tước De La Trênui đáng để y suy nghĩ.

Athos cũng được chuyển đến chỗ Giáo chủ, nhưng rủi thay, Giáo chủ lại ở chỗ Nhà Vua tại điện Louvre.

Cũng chính lúc đó, ông De Treville ra khỏi chỗ viên trợ úy hình sự và viên đội trưởng của Pholêvếch, mà vẫn không thấy Athos, liền đi tới chỗ Hoàng thượng.

Ai cũng biết những việc phòng bị của Nhà Vua chống lại Hoàng hậu, nhưng việc phòng bị được Giáo chủ khéo léo điều hành, mà về mặt cơ mưu, lại phòng ngừa đàn bà hơn đàn ông nhiều. Một trong những nguyên nhân lớn nhất của sự đề phòng này là tình bạn giữa Anne d' Autriche với bà De Chevreuse. Hai người đàn bà này khiến Đức ông lo lắng hơn cả những cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, những việc xích mích với Anh quốc và những bê bối về tài chính. Trong con mắt và trong thâm tâm ông, bà De Chevreuse phục vụ Hoàng hậu không những trong những âm mưu chính trị mà còn cả trong những âm mưu tình ái, điều làm ông còn quay cuồng điên đảo hơn nhiều.

Mới nghe Giáo chủ tâu lại, bà De Chevreuse bị lưu đày ở thành Tours và tưởng bà vẫn ở đó, nhưng bà đã đến Paris, đánh lạc hướng cảnh sát, lưu lại đây năm ngày, nhà Vua đã đùng đùng nổi giận. Tính khí thất thường, không chung thủy, Nhà Vua lại muốn được gọi là Louis chí công và Louis trong trắng. Hậu thế khó hiểu nổi tính cách ấy, mà sử sách lại chỉ giải thích bằng các sự kiện chứ không bao giờ bằng lý giải.

Nhưng khi Giáo chủ thêm rằng không những bà De Chevreuse đã đến Paris, mà Hoàng hậu còn nối lại với bà ta một mối quan hệ bí mật mà thời kỳ đó người ta gọi là bè đảng, và khi ông khẳng định chính ông, Giáo chủ, sắp gỡ ra nước manh mối đen tối nhất của âm mưu đó, lúc đang bắt quả tang, mật sứ của Hoàng hậu bên cạnh người đàn bà bị lưu đày, với đầy đủ chứng cứ thì một tên ngự lâm quân đã dám bạo hành chặn đứng việc thi hành công lý, vung gươm nhẩy bổ vào những con người trung thực của luật pháp được ủy nhiệm cứu xét vô tư toàn bộ vụ việc này để tâu lên đức Vua. Louis XIII nghe vậy không kiềm chế được nữa, ông bước một bước về phía phòng của Hoàng hậu, mặt tái đi vì phẫn nộ, không nói ra được thành lời mà khi nó bùng nổ sẽ dẫn Nhà Vua đến một sự tàn bạo lạnh lùng nhất.

Và tuy vậy, trong mọi chuyện đó, Giáo chủ còn chưa động một lời về Công tước De Buckingham.

Đang lúc đó thì ông De Treville đi vào, lạnh lùng, lễ phép, quần áo chỉnh tề.

Sự hiện diện của Giáo chủ, và nét mặt thất sắc của Nhà Vua, cảnh báo điều gì vừa mới xảy ra, Nhưng ông De Treville tự cảm thấy vững tâm như Xăm xơn trước bọn Philistin(2).

Louis XIII đã đặt tay lên núm cửa, nghe thấy tiếng ông De Treville đi vào, lại quay lại. Nhà Vua không biết che giấu những xúc cảm giận dữ khi nó đã dâng lên tới mức nào đó, liền nói ngay:

- Ông đến thật đúng lúc, ông Treville ạ, ta vừa được biết khối chuyện hay ho về lũ ngự lâm quân của ông.

- Và thần - Ông De Treville lạnh lùng đáp lại - thần cũng có khối chuyện hay ho để tâu lên Hoàng thượng về bọn quan tòa của Hoàng thượng.

- Ông nói cái gì vậy? - Nhà Vua ngạo nghễ nói.

Ông De Treville tiếp tục vẫn bằng giọng lạnh lùng:

- Thần có vinh dự được tâu với Hoàng thượng là cả bè đảng công tố viên, đồn trưởng và nhân viên cảnh sát, toàn những người đáng kính nhưng hình như lại rất gay gắt đối với giới quân nhân, tự cho phép mình vào nhà bắt bớ, điệu đi công khai trên đường phố rồi tống vào đồn Pholêvếch một ngự lâm quân của thần, đúng hơn là của Hoàng thượng, một ngự lâm quân đạo đức miễn chê, danh tiếng vang lừng, theo một lệnh bắt mà họ từ chối không cho thần biết, người bị bắt đó chính là Athos, người mà Hoàng thượng đã từng ưu ái.

- Athos ư? - Nhà Vua nói như thể một cái máy - Ừ, thật ra, ta có quen biết cái tên đó.

- Xin Hoàng thượng nhớ cho - Ông De Treville nói - Athos là người ngự lâm quân trong trận đấu kiếm bất đắc dĩ mà Ngài đã biết đấy, chẳng may đã làm ông De Cahuxắc bị trọng thương.

Ông De Treville chuyển sang nói với Giáo chủ:

- Thưa Đức ông, nhân tiện, xin Đức ông cho biết ông Cahuxắc đã hoàn toàn bình phục, phải không ạ?

- Cám ơn! - Giáo chủ mím môi giận dữ nói.

Ông De Treville nói tiếp:

- Hôm ấy, ông Athos đến thăm một người bạn lúc đó lại không có nhà, đó là một chàng trai người Bearn, đang là lính tập sự cận vệ của Hoàng thượng, trong đại đội ông des Essarts, nhưng ông Athos vừa mới đặt chân vào nhà bạn, vớ lấy cuốn sách chờ bạn, thì một đám những sai nha, cảnh sát lẫn lộn cùng nhau kéo đến vây nhà, phá tung cửa giả…

Giáo chủ ra hiệu cho Nhà Vua ý nói: "Chính là để làm cái công việc mà thần đã nói với Hoàng thượng".

- Chúng ta đã biết cả rồi - Nhà Vua đáp - bởi tất cả những việc đó được làm để phục vụ chúng ta.

- Thế là, - ông Treville nói - Thế là để phục vụ Hoàng thượng, người ta đã giữ mất của thần một ngự lâm quân vô tội, người ta kè kè hai bên hai tên gác như đối với một tên gian phi, và điệu đi giữa đám dân đen hỗn láo con người hào hoa phong nhã đã mười lần đổ máu đề phục vụ Hoàng thượng, và sẵn sàng đổ máu nữa.

- Chà! - Nhà Vua nao núng nói - mọi việc lại đến thế kia ư?

Giáo chủ với vẻ mặt tỉnh bơ nói:

- Ông De Treville lại không nói rằng gã ngự lâm quân vô tội ấy, rằng con người hào hoa ấy, một giờ trước đó đã vung gươm đánh bốn điều tra viên do tôi phái đến để điều tra một việc tối quan trọng.

Ông De Treville la lên với tính ngay thẳng hết sức Gátxcông và sự thô bạo rất lính tráng của mình:

- Đức ông có dám chứng minh điều đó không, bởi một giờ trước đó, ông Athos, người mà tôi sẽ tiến cử lên Hoàng thượng, là một người có phẩm chất cao quý, sau khi dùng bữa trưa tại nhà tôi, đã cho tôi vinh dự trò chuyện với Công tước De la Trênui và Bá tước De Saluy cũng có mặt ở đấy.

Nhà Vua nhìn Giáo chủ. Đáp lại câu hỏi ngầm của Hoàng thượng, Giáo chủ lớn tiếng nói:

- Có biên bản hẳn hoi đây, và những người bị ngược đãi đã lập tờ biên bản sau đây mà thần có vinh dự tâu lên Hoàng thượng.

Ông De Treville kiêu hãnh đáp lại:

- Biên bản của phái quan tòa có giá trị bằng lời thề danh dự của giới quân nhân không?

- Thôi nào, thôi nào, Treville, ông im đi - Nhà Vua nói.

- Nếu Đức ông có chút nghi ngờ nào chống lại một trong số ngự lâm quân của tôi - Ông Treville nói - công lý của Giáo chủ đã quá quen thuộc khiến chính tôi, tôi yêu cầu mở một cuộc điều tra.

Giáo chủ vẫn trơ ra tiếp tục:

- Trong ngôi nhà mà công lý đã bị tấn công, ở đó tôi tin có một người Bearn, bạn của tay ngự lâm kia thuê.

- Đức ông muốn nói về ông D' Artagnan?

- Tôi muốn nói đến một chàng trai trẻ được ông che chở, ông De Treville ạ.

- Vâng, thưa Đức ông, vẫn là con người ấy.

- Thế ông không ngờ con người trẻ tuổi ấy đã có những lời khuyên láo lếu…

- Khuyên ông Athos, một người gấp đôi tuổi anh ta ư? - Ông De Treville ngắt lời - Không, thưa Đức ông. Vả lại, ông D' Artagnan đã ở nhà tôi tối hôm đó.

- Thế kia ư? - Giáo chủ nói - Vậy ra tất cả mọi người tối ấy đều ở nhà ông?

Ông Treville giận tím mặt nói:

- Đức ông nghi ngờ lời nói của tôi ư?

- Không, lạy Chúa chứng giám? - Giáo chủ nói - nhưng chỉ hỏi ông anh ta ở nhà ông lúc mấy giờ?

- Ồ, chuyện đó, tôi có thể nói thẳng thừng ra với Đức ông, bởi khi anh ta vào, tôi nhìn đồng hồ và lúc đó là chín giờ rưỡi, mặc dầu tôi tưởng là muộn hơn thế.

- Và vào lúc mấy giờ anh ta ra khỏi nhà ông?

- Mười giờ rưỡi, một tiếng đồng hồ sau biến cố đó.

Không một chút nghi ngờ lòng trung thực của ông De Treville, Giáo chủ cảm thấy chiến thắng đã tuột khỏi tay mình, ông nói:

- Nhưng rốt cuộc, Athos đã bị giữ trong ngôi nhà ở phố Phu đào huyệt.

- Thế một người bạn bị cấm đến thăm bạn mình sao? Cấm một ngự lâm quân của tôi kết bạn với một lính cận vệ ở đại đội ông des Essarts ư?

- Có đấy! Khi một ngôi nhà mà anh ta tới kết bạn với người bạn kia bị tình nghi.

- Chính vì ngôi nhà đó bị tình nghi, Treville ạ! - Nhà Vua nói - có thể ông không biết chăng?

- Quả nhiên, tâu Bệ hạ, thần không biết. Thôi thì nó có thể bị tình nghi ở chỗ nào cũng được, nhưng lại bị tình nghi ở cái phần ông D' Artagnan ở thì thần không công nhận bởi vì thần có thể khẳng định với Bệ hạ rằng, nếu như thần tin ở điều ông ta nói thì không có ai tận trung với Bệ hạ bằng ông ta, không có ai ngưỡng mộ Giáo chủ sâu sắc hơn ông ta.

Nhà Vua liếc nhìn Giáo chủ đang đỏ mặt lên, tức tối rồi hỏi:

- Có phải cái gã Đáctanháng một hôm đã đâm bị thương Jussac trong cuộc chạm trán khốn khổ ở gần Tu viện Cácmơ tháo giầy không?

- Và ngày hôm sau, Bécnaju nữa. Vâng, tâu Bệ hạ, đúng thế ạ, Bệ hạ nhớ tốt lắm ạ.

- Vậy bây giờ giải quyết thế nào nào? - Nhà Vua hỏi.

- Việc đó liên quan đến Bệ hạ hơn là đến thần. - Giáo chủ nói - Thần sẽ khẳng định là phạm tội.

- Còn tôi, tôi phủ nhận - Treville nói - Mà Hoàng thượng có các thẩm phán, và các thẩm phán của người sẽ quyết định.

- Phải đấy - Nhà Vua nói - hãy di lý sang các thẩm phán. Công việc của họ là xét xử và họ sẽ xét xử.

- Có điều Treville lắp lại - thật rất đáng buồn trong cái thời buổi khốn khổ mà chúng ta đang sống này, một cuộc sống trong sạch nhất, một đức hạnh không thể chối cãi được nhất vẫn không tránh được cho một con người khỏi bị nhục mạ và bị ngược đãi. Vì vậy, quân đội sẽ không mấy hài lòng khi cứ phải đương đầu với những đối xử nghiệt ngã vì những công việc của cảnh sát.

Câu nói có vẻ không thận trọng, nhưng ông De Treville đã tung ra có chủ định. Ông muốn nổ tung bởi chỉ có thế thuốc nổ mới bén lửa và lửa sẽ làm sáng tỏ mọi việc.

- Những việc của cảnh sát ư? - Nhà Vua hét lên, nêu lại lời của ông De Treville - Những việc của cảnh sát? Ông biết gì về chuyện này? Những việc của cảnh sát! Hãy lo chuyện bọn ngự lâm quân của ông ấy, và đừng làm ta đau đầu nữa. Nghe ông nói thì hình như nếu không may người ta bắt giữ một ngự lâm quân, nước Pháp sẽ lâm nguy. Hừm, om sòm lên vì một lính ngự lâm. Ta sẽ cho bắt mười tên, một trăm, mẹ kiếp, tất cả đại đội! Vì ta chẳng muốn ai hé miệng nửa lời.

- Trong lúc họ bị Hoàng thượng tình nghi - Ông Treville - ngự lâm quân đều phạm tội hết, như vậy xin Hoàng thượng xem xét cho thần xin trao lại thanh gươm, bởi vì sau khi đã cáo buộc binh lính của thần, thần tin chắc, Giáo chủ cuối cùng sẽ buộc tội cả thần nữa. Như thế, thà rằng thần xin nộp mình như là một tù nhân cùng với ông Athos đã bị bắt rồi, và ông D' Artagnan chắc chắn cũng sắp bị bắt.

- Cái đồ Gátxcông cứng đầu, có thôi đi không? - Nhà Vua nói.

- Tâu - Treville không hạ giọng trả lời - xin Hoàng thượng trả lại người ngự lâm quân của thần cho thần, hoặc ông ta phải được xét xử?

- Người ta sẽ xét xử hắn - Giáo chủ nói.

- Thế thì càng tốt! Vì trong trường hợp ấy thần xin Hoàng thượng cho phép bào chữa cho ông ta.

Nhà Vua sợ chuyện vỡ ra, nên bảo Giáo chủ.

- Nếu Đức ông không có những động cơ cá nhân…

Giáo chủ thấy nhà Vua có ý muốn giải quyết thế nào, liền đi đến trước mặt nhà Vua. Ông nói:

- Xin Hoàng thượng tha lỗi, nhưng lúc nào Hoàng thượng thấy ở thần một phán quan thiên kiến, thì thần xin rút lui.

- Thôi được - Nhà Vua nói - Treville, ông thề với ta, trước cha ta rằng Athos đã ở nhà ông trong lúc xảy ra sự cố, và không hề dính dáng gì vào đấy chứ?

- Trước tiên đế vinh quang và trước Hoàng thượng là những người thần yêu và sùng kính nhất trên đời, thần xin thề như vậy!

- Tâu Hoàng thượng, xin Ngài hãy suy nghĩ - Giáo chủ nói - Nếu chúng ta thả tên tù nhân ra như thế, sẽ không thể biết được sự thật nữa.

Ông De Treville nói:

- Ông Athos vẫn luôn ở đó, sẵn sàng trả lời để làm đẹp lòng các vị phán quan thẩm vấn ông ta. Ông ta sẽ không đào tẩu đâu, thưa Giáo chủ, xin ông cứ yên tâm, tôi, chính tôi xin bảo lãnh cho ông ấy.

Nhà Vua nói:

- Thật ra, hắn sẽ không đào tẩu mất đâu, lúc nào chả tìm được ra hắn, như ông Treville nói đấy.

Rồi hạ giọng, nhìn Giáo chủ, bằng giọng cầu khẩn, nhà Vua nói tiếp:

- Ta cho họ được an toàn, thế mới là chính trị.

Thứ chính trị ấy của nhà Vua khiến Giáo chủ mỉm cười, ông ta nói:

- Xin Hoàng thượng cứ ra lệnh. Hoàng thượng có quyền ân xá mà!

Ông De Treville vẫn còn chưa chịu:

- Quyền ân xá chỉ áp dụng với những kẻ phạm tội. Còn người lính ngự lâm của thần vô tội. Vậy đây không phải là Hoàng thượng sắp làm việc ân xá mà là lập lại công bằng.

- Thế ông ta vẫn ở Pholêvếch à? - Nhà Vua hỏi.

- Vâng, tâu Hoàng thượng, mà lại bí mật, trong hầm tối như một kẻ phạm trọng tội.

- Quỷ thật! Quỷ thật? - Nhà Vua lẩm bẩm - Phải làm thế nào đây?

Giáo chủ nói:

- Ký lệnh thả tự do. Thế là xong chuyện. Thần cũng tin, như Hoàng thượng, việc ông De Treville xin bảo lãnh thế là quá đủ.

Treville kính cẩn nghiêng mình đáo lễ với một niềm vui không phải không pha lẫn lo sợ. Ông thích Giáo chủ khăng khăng chống lại hơn là sự dễ dãi bất ngờ ấy.

Nhà Vua ký lệnh phóng thích. Ông Treville mang đi không chút chậm trễ.

Đúng lúc ông sắp đi ra, Giáo chủ mỉm cười thân ái với ông và bảo Nhà Vua:

- Một sự hài hòa tuyệt vời được duy trì giữa các chỉ huy và binh lính, trong ngự lâm quân của Hoàng thượng. Thật là thuận lợi cho công việc và rất vinh dự cho tất cả.

Ông De Treville tự nhủ: "Lão ta sẽ chơi lại trò đểu ngay thôi. Chẳng bao giờ biết được cái gì sẽ xảy ra với con người như thế. Nhưng thôi mau lên, bởi nhà Vua có thể đổi ý ngay đấy, và xét cho cùng tống giam lại một con người vào ngục Bastille hay Pholêvếch khó hơn cứ giữ nguyên không thả".

Ông De Treville bước vào đồn Pholêvếch một cách đắc thắng giải thoát người lính ngự lâm vẫn còn nguyên vẻ thờ ơ bình thản.

Rồi, lần đầu tiên gặp lại D' Artagnan, ông nói với chàng:

- Anh trốn cừ thật đấy? Đây là trả giá nhát gươm anh đâm Jussac đấy. Vẫn còn một nhát với Bécnaju.

Rốt cuộc, ông De Treville có lý khi không tin Giáo chủ và khi nghĩ mọi chuyện còn chưa kết thúc, bởi vì đại úy ngự lâm quân vừa khép cửa đi ra, Đức ông đã nói với Nhà Vua:

- Bây giờ thì chỉ có hai người chúng ta, chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm túc, nếu Hoàng thượng vui lòng. Tâu Hoàng thượng, ông De Buckingham đã ở Paris được năm ngày nay và tận sáng nay mới đi.

Chú thích:
(1) Gens de robe et gens d'épée - Bản tiếng Anh dịch là: Civilians and soldiers: nghĩa là phái dân sự và phái quân nhân. Trong tiếng Pháp: Noblesse de robe: Quý tộc cung đình. Noblesse dépée: quý tộc kiếm cung - De robe có nghĩa làm nghề pháp lý, nên chúng tôi tạm dịch Gens de robe = pháp quan.
(2) Xăm xơn, thẩm phán của dân Hêbrơ, có thể dùng chùy đập chết một lúc hàng nghìn bọn Philistin, sức khỏe nằm ngay trong bộ tóc, yêu Đalila, bị cô gái điếm này phản bội cắt mất bộ tóc ấy và trao nộp Xăm Xơn cho bọn Philistin. Trong một cuộc lễ tôn giáo ở Đền thờ Đagông, tại chỗ người Philistin. Ông đã lật đổ những cột đền và tự chôn vùi mình.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 16

Viên chưởng ấn Xécghiê tìm mấy lần vẫn không thấy chuông ở đâu để rung lên, như ngày trước vẫn quen làm

- Không thể nghĩ nổi việc mấy câu nói kia đã tác động lên nét mặt của vua Louis XIII thế nào. Mặt nhà Vua hết đỏ lên rồi lại tái đi và Giáo chủ thấy ngay mình chỉ bằng một đòn đã chiếm lại được địa bàn đã mất.

Nhà Vua hét lên:

- Ông Buckingham ở Paris. Và hắn đến để làm gì?

- Chắc hẳn là để âm mưu với lũ kẻ thù của Hoàng thượng, bọn giáo phái Canvanh và bọn Tây Ban Nha…

- Không, chó chết, không? Âm mưu chống lại danh dự của ta, cùng với lũ bà De Chevreuse, bà Lônggơvin và bọn Côngđê(1) ư?

- Ồ tâu Hoàng thượng, Ngài nghĩ gì vậy? Hoàng hậu quá khôn ngoan và nhất là quá yêu Hoàng thượng.

- Giống đàn bà họ mềm yếu, ngài Giáo chủ ơi, còn về việc quá yêu ta, ta cũng có ý kiến riêng của ta về mối tình đó rồi.

Giáo chủ nói:

- Thần cũng không đến mức cho rằng Huân tước De Buckingham đã đến Paris vì một dự định hoàn toàn chính trị.

- Còn ta, ta đoán chắc hắn đến vì một chuyện khác, Giáo chủ ạ. Nhưng nếu Hoàng hậu phạm tội, bà ấy hãy liệu hồn.

- Thật ra - Giáo chủ nói - Dù thấy ghê tởm khiến thần phải dừng ngay không dám nghĩ đến sự phản bội như vậy, nhưng Hoàng thượng làm thần vẫn phải nghĩ tới nó. Bà De Lanoa mà theo lệnh của Hoàng thượng thần đã hỏi nhiều lần, đã nói với thần sáng nay rằng đêm qua Hoàng hậu đã khóc rất nhiều và bà viết suốt ngày.

- Chính thế đó - nhà Vua nói - hẳn là viết cho hắn. Giáo chủ, ta muốn có những giấy tở của Hoàng hậu.

- Tâu, nhưng làm thế nào lấy được? Hình như không những chỉ thần mà cả Hoàng thượng cũng không thể đảm nhiệm một việc như thế

- Thế người ta đã làm thế nào với bà Thống chế De Ăngcrơ?

Nhà Vua hét lên giận dữ đến tột cùng:

- Người ta lục soát hòm tư của bà ta, cuối cùng lục soát cả chính người bà ta đấy thôi.

- Bà Thống chế De Ăngcrơ chỉ là bà Thống chế De Ăngcrơ, một mụ Florăng(2) phiêu bạt, có thế thôi, tâu Hoàng thượng. Còn như phu nhân tôn kính của Hoàng thượng, là Anne d' Autriche, Hoàng hậu của nước Pháp, nghĩa là một trong những bà Hoàng hậu bậc nhất của thế giới.

- Bà ta chỉ tổ nặng tội thêm, Giáo chủ ạ! Càng quên địa vị cao sang mình được đặt lên bao nhiêu, bà ta càng bị hạ bệ tồi tệ bấy nhiêu. Vả lại, từ lâu ta đã quyết định thanh toán tất cả những âm mưu nhỏ nhen về chính trị và ái tình ấy. Bà ta cũng có một kẻ đồng lõa La Porte nào đó…

Giáo chủ nói:

- Thần thú thật, thần tin rằng hắn là kẻ chủ chốt trong mọi việc.

Nhà Vua hỏi:

- Vậy cũng như ta, ông nghĩ bà ta lừa dối ta chứ?

- Thần tin, và thần xin nhắc lại với Hoàng thượng rằng Hoàng hậu âm mưu chống lại quyền lực của nhà Vua, nhưng thần không nói chống lại danh dự của Hoàng thượng.

- Còn ta, ta nói với ông rằng chống lại cả hai. Ta đã nói với ông rằng Hoàng hậu không yêu ta, ta nói với ông bà ta yêu một kẻ khác, ta nói với ông bà ta yêu cái tên Buckingham bỉ ổi đó?

- Tại sao ông không cho bắt giữ hắn lúc hắn ở Paris?

- Bắt ông Công tước! Bắt giữ Thủ tướng của Nhà Vua Charles đệ nhất? Hoàng thượng có nghĩ đến điều đó không? To chuyện biết mấy! Và nếu như những ngờ vực của Hoàng thượng cái điều mà thần vẫn chưa tin đâu, lại có cơ sở nào đấy, thì thật tai tiếng khủng khiếp! Một sự bê bối thật đáng xấu hổ!

- Nhưng một khi hắn bất cần đời như một kẻ lang thang và một thằng ăn cắp, thì phải…

Louis XIII tự dừng lại, sợ ngay cả điều mình sắp nói ra, còn Richelieu thì ngỏng cổ ra ngóng đợi cái điều bị ngưng lại trên đôi môi của nhà Vua.

- Thì phải sao ạ?

- Chẳng sao cả - Nhà Vua nói - Nhưng trong suốt thời gian hắn ở Paris, ông không rời mắt khỏi hắn chứ?

- Không ạ.

- Hắn cư trú ở đâu?

- Số nhà 75 phố Đàn Thụ cầm.

- Phố ấy ở chỗ nào nhỉ?

- Cạnh vườn Luxembourg.

- Và ông chắc Hoàng hậu và hắn không gặp nhau?

- Thần nghĩ Hoàng hậu quá gắn bó với nghĩa vụ của mình.

- Nhưng họ đã liên lạc với nhau, Hoàng hậu viết suốt ngày chính là cho hắn, ông Quận công ạ, ta phải có được những bức thư đó?

- Tâu Bệ hạ, thế nhưng…

- Ông Quận công, ta muốn có những thư đó với bất cứ giá nào.

- Tuy nhiên thần xin lưu ý Bệ hạ…

- Ông cũng phản ta ư, ông Giáo chủ, mà cứ luôn chống lại những ý nguyện của ta thế? Ông cũng tán đồng với bọn Tây Ban Nha, bọn Anh, với bà De Chevreuse, với Hoàng hậu ư?

Giáo chủ thở dài:

- Tâu Bệ hạ, thần tin không đáng bị nghi ngờ như thế.

- Ông Giáo chủ, ông nghe ta nói rồi đấy, ta muốn những bức thư đó.

- Có lẽ chỉ có một cách.

- Cách nào?

- Sẽ trao nhiệm vụ ấy cho viên chưởng ấn Xécghiê. Việc ấy sẽ được hoàn toàn đặt trong chức trách của ông ta.

- Cho tìm ngay ông ta đi!

- Ông ta chắc đang ở chỗ thần, thần đã sai người yêu cầu ông ấy đến và khi thần đi đến điện Louvre, đã dặn lại, nếu ông ta đến thì cứ chờ ở đó.

- Đi tìm ông ấy đến ngay đi!

- Lệnh của Hoàng thượng sẽ được thi hành, nhưng…

- Nhưng sao?

- Nhưng có thể Hoàng hậu sẽ không chịu tuân…

- Lệnh của ta ư?

- Vâng, nếu bà không biết lệnh ấy là của Nhà Vua.

- Thôi được, để bà ấy khỏi nghi ngờ, chính ta đến báo cho bà ấy biết.

- Hoàng thượng sẽ không quên rằng thần đã làm tất cả những gì mà thần có thể làm để ngăn ngừa một sự tan vỡ.

- Phải, Quận công ạ, ta biết ông rất độ lượng với Hoàng hậu, có lẽ quá độ lượng đấy. Và ta báo cho ông biết, sau này chúng ta sẽ có chuyện để nói về việc ấy đấy.

- Khi nào việc ấy làm vui lòng Hoàng thượng. Nhưng thần sẽ luôn sung sướng và tự hào được xả thân vì sự thuận hòa mà thần ao ước được duy trì giữa Hoàng thượng và Hoàng hậu nước Pháp.

- Tốt, Giáo chủ, tốt, nhưng trong khi chờ đợi, hãy cho đi tìm chưởng ấn đến đây, còn ta, ta đến chỗ Hoàng hậu.

Và Louis XIII mở cửa bên đi vào hành lang thông từ chỗ Ngài đến phòng Anne d' Autriche.

Hoàng hậu đang ở giữa đám phu nhân tùy tùng, bà De Ghitô, bà De Xablê, bà De Môngtazông và bà De Ghêmơnê.

Trong một góc là thị nữ hầu phòng Tây Ban Nha Đônha Stéphanie, đi theo Hoàng hậu từ Madris. Bà De Ghêmơnê đọc sách và mọi người đang chăm chú lắng nghe, chỉ trừ có Hoàng hậu, người đã bày vẽ ra việc đọc sách này cốt để có thể, trái lại vừa giả vờ lắng nghe vừa thả theo những suy nghĩ riêng của mình.

Những ý nghĩ ấy hết thảy đều nạm vàng bởi một ánh hồi quang tình ái, vẫn không kém phần sầu não. Anne d' Autriche không được chồng tin cậy, bị lòng hận thù của Giáo chủ đeo đuổi, người không thể tha thứ cho nàng vì đã không thèm có một tình cảm, dịu dàng hơn, trước mắt nàng là tấm gương của thái hậu mà mối hằn thù đó đã làm thái hậu, Marie de Médicis(3) điên đảo suốt đời, cho dù thái hậu, nếu như tin vào những hồi ký thời đó, lúc đầu đã ban cho Giáo chủ thứ tình cảm mà Anne d' Autriche rốt cuộc vẫn từ chối ông ta. Anne d' Autriche đã nhìn thấy rơi rụng quanh mình những bầy tôi trung thành nhất, những người tri kỷ tâm đắc nhất, những người sủng ái thân quý nhất của mình. Giống như những kẻ khốn khổ ấy được phú cho một thiên tư bi thảm, nàng chỉ đem bất hạnh đến cho tất cả những gì nàng tiếp xúc. Tình bạn bè của nàng là một dấu hiệu định mệnh dẫn đến sự ngược đãi. Bà De Chevreuse và bà De Vécnê bị lưu đày. Cuối cùng ông La Porte cũng không giấu nữ chủ nhân của mình ông vẫn đợi trước sau gì cũng bị bắt. Chính lúc nàng đang đắm chìm trong những ý nghĩ sâu xa nhất và u ám nhất ấy thì cửa phòng mở và Nhà Vua đi vào.

Người đọc sách im ngay tức khắc, tất cả các bà đều đứng dậy, căn phòng im phăng phắc.

Còn Nhà vua, ông không hề có một biểu hiện lịch sự nào, mà chỉ dừng lại trước Hoàng hậu và lạc giọng nói:

- Thưa bà, bà sắp được ông chánh án tối cao(4) đến thăm, ông ta sẽ thông báo với bà một số công việc mà tôi đã ủy nhiệm cho ông đó.

Bà Hoàng hậu khốn khổ, mà người ta không ngừng đe dọa ly dị, lưu đầy và cả xét xử, tái mặt đi dưới lớp phấn hồng và không ngàn nổi nói ra:

- Nhưng tại sao lại có cuộc thăm viếng đó, tâu Hoàng thượng? Ông chánh án tối cao sẽ nói với tôi điều gì mà Hoàng thượng không thể tự mình nói với tôi được?

Nhà Vua quay gót không trả lời, và hầu như cùng lúc đó, đại úy quân cận vệ, ông De Ghitô thông báo cuộc viếng thăm của ông chánh án tối cao.

Khi ông ta hiện ra thì Nhà Vua đã ra khỏi bằng một cửa khác.

Viên chánh án đi vào, nửa tươi cười nửa ngượng ngùng. Vì có thể chúng ta sẽ lại thấy ông trong câu chuyện này, không có gì đáng ngại để ngay từ bây giờ làm quen với ông ta.

Viên chánh án là một con người kỳ dị. Chính ông De Rốtsơ Lơ Malơ, giáo chức ở nhà thờ Đức Bà, trước kia từng là hầu phòng cho Giáo chủ, đã tiến cử ông ta với Đức ông như một con người hết mực trung thành. Giáo chủ tin cậy ngay và thấy rất hài lòng.

Người ta kể về ông ta nhiều chuyện trong đó có những chuyện sau: Sau một thời trai trẻ phong ba, ông ta rút lui vào một tu viện để ăn năn hối lỗi, ít nhất trong một khoảng thời gian nào đó, về những thói điên rồ của tuổi thanh xuân. Nhưng vào nơi đất thánh, kẻ sám hối không thể đóng lại thật nhanh cánh cửa, khiến những đam mê mà ông ta chạy trốn lại vào cùng với ông. Ông bị chúng ám ảnh mãi không thôi, và vị bề trên được ông thổ lộ điều bất hạnh đó, rất mong bảo vệ ông tránh khỏi những đam mê đó đã khuyên ông để tống khứ được con quỷ cám dỗ, hãy cầu cứu cái dây thừng kéo chuông, và khua lên cho hết cỡ. Nghe tiếng chuông tố giác, các thày tu sẽ được báo trước sự cám dỗ đang bao vây một đạo hữu, và tất cả giáo đoàn sẽ lên tiếng cầu nguyện.

Lời khuyên có vẻ tốt đối với tương lai ông chánh án tối cao. Ông ta giải trừ tâm tính ma quái dựa vào sự hỗ trợ lớn lao của những lời nguyện của các thày tu. Nhưng con quỷ không dễ để bị tước mất cái vị trí mà nó đã dồn trú. Dần dần người ta tăng gấp đôi những lễ trừ tà, con quỷ cũng tăng gấp đôi cám dỗ, đến nỗi ngày đêm chuông cứ réo lên hết cỡ, thông báo nỗi khát khao cực điểm được hành xác mà kẻ ăn năn đang thể nghiệm.

Các thầy tu không còn nổi một phút nghỉ ngơi. Ban ngày, họ chỉ còn việc lên lên xuống xuống chiếc cầu thang dẫn đến tiểu giáo đường. Ban đêm, ngoài những lề lối và lễ sớm, họ còn buộc phải nhảy từ trên giường xuống hai chục lần quỳ xuống gạch lát nền phòng tăng để cầu nguyện.

Người ta không biết liệu con quỷ đã buông tha hay các thày tu đã mệt mỏi, nhưng khoảng ba tháng sau, kẻ ăn năn lại tái hiện trong thế tục, mang theo những tiếng tăm khủng khiếp nhất, chưa từng thấy bao giờ.

Ra khỏi tu viện, ông ta vào ngành tòa án, trở thành chánh tòa án thế chân ông chú, ôm chân đảng phái của Giáo chủ, điều đó không chứng tỏ ông ít sáng suốt, rồi trở thành chánh án tối cao nhiệt tình phục vụ Đức ông trong mối căm hận chống lại Thái hậu Marie de Médicis và mối thù chống lại Anne d' Autriche, kích động các thẩm phán chống lại Hầu tước de Salê(5) nhà sản xuất túi dết lớn của nước Pháp, rồi cuối cùng chiếm được sự tin tưởng hoàn toàn của giáo chủ, nên đã đạt đến việc được nhận một nhiệm vụ kỳ quặc và ông đang có mặt ở chỗ Hoàng hậu để thực hiện nhiệm vụ đó.

Khi ông ta vào Hoàng hậu còn đang đứng, nhưng vừa thấy ông ta, nàng liền ngồi xuống chiếc ghếbành của mình và ra hiệu cho các bà cũng ngồi xuống những tấm nệm và ghế đẩu của họ, rồi bằng một giọng tối kiêu kỳ hỏi ông ta:

- Ông muốn gì và ông có mặt ở đây với mục đích gì?

- Thưa Hoàng hậu, để làm việc nhân danh Đức Vua, xin thất kính với lệnh bà, là lục soát kỹ các giấy tờ của lệnh bà.

- Sao! Ông nói lục soát các giấy tờ của ta… Với ta ư? Nhưng đó là một điều bỉ ổi!

- Mong lệnh bà thứ lỗi, nhưng trong trường hợp này, tôi chỉ là một công cụ Đức Vua sử dụng thôi. Hoàng thượng chẳng vừa ra khỏi đây sao và chẳng phải chính Ngài đã dặn lệnh bà chuẩn bị cho cuộc thăm viếng này sao?

- Vậy ông lục soát đi! Xem ra ta là một phạm nhân mất rồi! Stéphanie, đưa chùm chìa khóa bàn và tủ sách của ta ra đây.

Viên chánh án xem xét các đồ gỗ một cách chiếu lệ, nhưng ông ta biết thừa không phải trong hòm tủ, Hoàng hậu đã khóa giữ bức thư quan trọng mà nàng đã viết ngày hôm ấy.

Khi ông ta đã mở ra khóa vào đến hai chục lần các ngăn kéo của tủ sách thì dù có cảm thấy do dự đến mấy cũng cứ phải đi đến đoạn kết của công việc nghĩa là khám người chính Hoàng hậu. Thế rồi viên chánh án tiến lại chỗ Anne d' Autriche và bằng một giọng rất đỗi băn khoăn và với vẻ cực kỳ lúng túng, ông ta nói:

- Và bây giờ, còn lại cuộc lục soát chính yếu.

- Cuộc lục soát nào? - Hoàng hậu hỏi, như thể không hiểu hoặc đúng hơn là không muốn hiểu.

- Hoàng thượng đinh ninh có một bức thư mà lệnh bà đã viết ngày hôm nay. Ngài biết bức thư đó chưa được gửi tới địa chỉ của nó. Bức thư đó không có trong bàn, cũng không có trong tủ sách, thế thì nó phải ở đâu đó.

- Ông dám đặt tay lên Hoàng hậu của ông ư? - Anne d' Autriche đứng thẳng người lên, nhìn xoáy vào viên chánh án, bằng đôi mắt có vẻ gần như hăm dọa, hỏi ông ta.

- Thưa lệnh bà, tôi là thần tử trung thành của Hoàng thượng, và tất cả những gì Hoàng thượng ra lệnh, tôi sẽ làm.

- Thế thì đúng rồi! - Anne d' Autriche nói - Và những tên gián điệp của ông Giáo chủ đã phục vụ ông ta đắc lực. Hôm nay ta đã viết một bức thư, bức thư ấy chưa hề gửi đi. Nó ở đây này.

- Và Hoàng hậu đưa bàn tay kiều diễm của mình lên chỗ nịt ngực.

- Vậy xin lệnh bà đưa cho tôi bức thư đó - viên chánh án nói.

- Ta sẽ chỉ đưa nó cho Nhà Vua - Anne nói.

- Thưa lệnh bà, nếu Đức Vua muốn bức thư đó được trao lại cho chính Người thì Ngài đã thân chinh đòi hỏi. Nhưng tôi xin nhắc lại, chính tôi đã được Đức Vua ủy thác đòi hỏi lệnh bà thư đó, và nếu lệnh bà không trao nó cho tôi…

- Thì sao?

- Cũng chính tôi, nhà Vua trao việc đoạt lấy bức thư ấy ở lệnh bà.

- Sao, ông muốn nói thế nào?

- Thưa lệnh bà, là lệnh ban cho tôi phải đi xa hơn, là tôi sẽ được phép tìm mảnh giấy khả nghi đó ngay trên thân thể của lệnh bà.

- Kinh tởm chưa? - Hoàng hậu kêu lên.

- Vậy mong lệnh bà hành động dễ dàng hơn.

- Lối xử sự này là lối bạo lực bỉ ổi, ông biết thế chứ?

- Xin lệnh bà thứ lỗi cho tôi, đây là Đức Vua chỉ dụ.

- Ta sẽ không chịu điều đó đâu, không, không, thà chết còn hơn! - Hoàng hậu thét lên, dòng máu hoàng đế Tây Ban Nha và của nước Áo nổi dậy trong người này.

Viên chánh án nghiêng mình rất kính cẩn, nhưng vẫn rành rành có ý không lùi nữa bước trong việc hoàn thành sứ mệnh ông ta được trao, và có thể làm như một tên hầu của đao phủ trong phòng xét hỏi, hắn xấn lại gần Anne d' Autriche. Ngay lúc ấy, người ta thấy những giọt nước mắt ứa ra trong đôi mắt sôi lên điên giận.

Như đã nói, Hoàng hậu có một sắc đẹp tuyệt trần. Cái sứ mệnh này có thể diễn ra một cách tế nhị nhưng vì quá ghen với Buckingham, nhà Vua đi đến mức không thiết ghen với ai nữa.

Không còn nghi ngờ gì nữa, viên chánh án Xécghiê lúc đó đưa mắt tìm chiếc dây thừng của quả chuông trứ danh, nhưng không thấy nên đành quả quyết đưa tay tới chỗ mà Hoàng hậu đã thú nhận bức thư đang ở đó.

Anne d' Autriche lùi lại một bước, tái nhợt đi như thể sắp chết và phải chống tay trái lên cái bàn ở phía sau để khỏi ngã rồi dùng bàn tay phải rút tờ giấy ra khỏi ngực mình và chìa ra cho viên chánh án, rồi bằng một giọng đứt hơi run rẩy, nói với y:

- Đây! Thư ấy đây, cầm lấy, và hãy giải thoát cho ta bộ mặt bỉ ổi của ông!

Viên chánh án, về phía mình, dễ nhận thấy y cũng đang run rẩy xúc động, cầm lấy bức thư, cúi rạp đất chào và rút lui.

Cánh cửa vừa khép lại đằng sau viên chánh án, hoàng hậu liền quỵ ngã, nửa mê nửa tỉnh trong tay đám phu nhân tùy tùng.

Viên chánh án đem thẳng bức thư đến cho nhà Vua, không hề đọc một chữ. Nhà Vua, tay run rẩy cầm bức thư, tìm địa chỉ không thấy ghi, tái nhợt đi, chậm rãi mở ra, rồi qua mấy chữ đầu, thấy ngay là gừi cho quốc vương Tây Ban Nha liền đọc rất nhanh, là cả một kế hoạch tấn công Giáo chủ. Hoàng hậu yêu cầu anh mình và Hoàng đế nước Áo, những người từng vì cái chính sách của Richelieu luôn luôn nhằm hạ uy thế hoàng tộc Áo, làm tổn thương, giả bộ tuyên chiến với nưôc Pháp và đặt điều kiện hòa bình là tống khứ Giáo chủ. Còn tình yêu, không hề có một chữ trong toàn bộ bức thư.

Nhà Vua, rất đỗi vui mừng, hỏi xem liệu Giáo chủ có còn ở điện Louvre không và được cho biết Đức ông vẫn đang chờ lệnh của nhà Vua trong phòng làm việc.

Nhà Vua trở về ngay chỗ Giáo chủ, nói với ông ta.

- Này, Quận công, ông có lý, chính ta đã nhầm. Toàn bộ âm mưu này là chính trị, không hề có vấn đề tình yêu trong bức thư, đây này. Đổi lại, vấn đề lại mạnh về ông.

Giáo chủ cầm bức thư và đọc hết sức chăm chú. Đọc xong, ông ta lại đọc lại lần nữa, rồi nói:

- Đấy nhé, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng thấy lũ kẻ thù của thần đi đến đâu rồi đó. Họ hăm dọa Hoàng thượng bằng hai cuộc chiến tranh nếu không tống khứ thần. Ở địa vị Hoàng thượng, thật tình, thần sẽ nhượng bộ những yêu sách mạnh mẽ đến như thế, và về phía mình, thần sẽ thật sự vui sướng được rút khỏi những công việc mình đảm nhiệm.

- Ông nói gì vậy, Quận công?

- Tâu Bệ hạ, thần nói rằng sức khỏe của thần đã suy sụp trong những cuộc đấu tranh quá căng thẳng và những công việc liên miên. Thần nói rằng, nếu có thể, thần sẽ không kham nổi những mệt mỏi trong cuộc bao vây La Rochelle, và tốt hơn hết là Bệ hạ chỉ định hoặc ông De Côngđê, hoặc ông De Bassompirre, nếu không thì một con người dũng mãnh nào đó thạo nghề chỉ đạo chiến tranh, chứ không phải thần, vốn chỉ là một kẻ tu hành không ngừng bị lái chệch ra ngoài thiên hướng của mình để đưa vào những việc mà thần không đủ sức. Như vậy, đối nội Bệ hạ sẽ được sung sướng hơn, và đối ngoại, thần tin chắc, Bệ hạ sẽ vĩ đại hơn.

- Ông Quận công - Nhà Vua nói - ta hiểu, ông hãy bình tĩnh, tất cả những kẻ được nêu trong bức thư sẽ bị trừng phạt cho xứng đáng và cả chính Hoàng hậu nữa.

- Bệ hạ nói gì vậy? Cầu Chúa giữ cho Hoàng hậu bớt xung khắc tới thần. Hoàng hậu vẫn luôn tin thần cho là kẻ thủ của bà cho dù Bệ hạ có thể chứng giám cho thần luôn nhiệt tình đứng về phía bà, ngay cả khi phải chống lại Bệ hạ. Ôi! Nếu như Hoàng hậu phản bội Bệ hạ, đúng nơi danh dự của Bệ hạ, lại là chuyện khác, và thần sẽ là người đầu tiên lên tiếng: "Không dung thứ, tâu Bệ hạ, không dung thứ đối với người đàn bà phạm tội". May sao, lại không hề có chuyện ấy, và Bệ hạ vừa thu được một bằng chứng mới như vậy.

- Đúng vậy, Giáo chủ ạ - nhà Vua nói - và ông luôn luôn có lý. Nhưng không vì thế mà Hoàng hậu không làm ta tức giận kém đi hơn đâu.

- Chính Ngài, tâu Bệ hạ, mới đáng để Hoàng hậu tức giận, và thật ra khi Hoàng hậu hờn dỗi nặng nề Bệ hạ, thì thần hiểu được điều đó, đó là vì Bệ hạ đã đối xử với bà có chiều khắc nghiệt!

- Ta luôn luôn sẽ đối xử với kẻ thù của ta và kẻ thù của ông như thế, Quận công ạ, cho dù chúng có cao sang đến đâu và cho dù hiểm nguy đến mấy ta phải chịu khi hành xử khắc nghiệt với chúng!

- Hoàng hậu là kẻ thù của thần, nhưng không phải của Bệ hạ. Trái lại bà là một người vợ chung thủy, nhu mì và không thể chê trách. Vậy Bệ hạ cho phép thần xin giùm Hoàng hậu, tâu Bệ hạ.

- Thì bà ấy cứ tự hạ mình đi và phải làm lành với ta trước.

- Trái lại, tâu Bệ hạ, Bệ hạ hãy làm gương. Bệ hạ là người phạm lỗi trước vì chính Bệ hạ đã nghi ngờ Hoàng hậu.

Nhà Vua nói:

- Ta làm lành trước ư! Không bao giờ?

- Tâu Bệ hạ, thần van xin Bệ hạ đấy.

- Hơn nữa, ta làm lành trước như thế nào đây?

- Làm một điều gì đó mà Bệ hạ biết sẽ làm Hoàng hậu hài lòng.

- Việc gì?

- Ban cho một buổi khiêu vũ. Bệ hạ biết Hoàng hậu thích khiêu vũ biết mấy. Thần cam đoan, sự hờn giận của bà sẽ không trụ nổi trước một sự quan tâm như vậy.

- Ông Giáo chủ, ông cũng biết ta không thích mọi vui thú thời lưu.

- Hoàng hậu sẽ lại càng biết ơn Bệ hạ hơn một khi bà biết Bệ hạ mất thiện cảm đối với thú vui ấy. Hơn nữa, đó sẽ là một dịp để Hoàng hậu đeo những hạt kim cương rất đẹp mà Bệ hạ ban cho Hoàng hậu nhân ngày lễ của bà và bà còn chưa có dịp đem dùng.

Nhà Vua, đang mừng thấy Hoàng hậu phạm một tội mà ông không quan tâm mấy, và vô tội đối với một lỗi lầm mà ông rất ghê sợ, đang sẵn sàng hòa giải với bà. Ngài nói:

- Để xem đã, ông Giáo chủ, để xem sao đã, nhưng ta lấy danh dự ra mà nói nhé, ông quá độ lượng đấy.

Giáo chủ nói:

- Tâu Bệ hạ, xin hãy để sự khắc nghiệt ấy cho các thượng thư. Sự khoan dung là đức tính đế vương. Xin hãy tỏ ra như vậy, Bệ hạ sẽ thấy dễ chịu.

Tới đây, nghe đồng hồ điểm mười một giờ, Giáo chủ van nài xin nhà Vua hòa giải với Hoàng hậu rồi eúi rạp mình xin phép được cáo lui.

Anne d' Autriche, sau khi bị lấy mất bức thư, đang đợi sự khiển trách nào đó, bỗng hết sức ngạc nhiên thấy nhà Vua hôm sau lân la muốn đến gần nàng. Lúc đầu, nàng tỏ vẻ ghê tởm, sự kiêu ngạo của đàn bà, và phẩm giá Hoàng hậu, cả hai đều bị xúc phạm quá ư tàn nhẫn khiến nàng không thể bình tâm trở lại ngay được, nhưng rồi bị các phu nhân tùy tùng thuyết phục, cuối cùng nàng cũng có vẻ bắt đầu khuây đi. Nhà Vua lợi dụng ngay cái khoảnh khắc đầu tiên của sự bình tâm trở lại ấy để nói với nàng rằng Ngài đang tính tổ chức một dạ hội.

Dạ hội là một điều hiếm thấy đối với nàng Anne d' Autriche tội nghiệp. Đúng như Giáo chủ đã nghĩ trước, nghe thông báo như vậy, dấu vết cuối cùng của những nỗi oán hờn biến mất nếu không ở trong lòng, ít ra cũng trên nét mặt. Nàng hỏi, dạ hội định tổ chức vào ngày nào, nhưng nhà Vua lại trả lời về điểm này nhà Vua cần phải thỏa thuận với Giáo chủ đã.

Quả vậy, ngày nào nhà Vua cũng hỏi Giáo chủ xem nên tổ chức dạ hội vào lúc nào, và ngày nào, Giáo chủ cũng vin vào một cớ gì đó lần khần ấn định.

Mười ngày như thế trôi đi.

Ngày thứ tám sau cái cảnh chúng tôi đã kể, Giáo chủ nhận được một bức thư dán tem London, bên trong chỉ có mấy dòng:

"Tôi đã có những vật đó. Nhưng tôi không thể rời London bởi vì thiếu tiền. Gửi cho tôi năm trăm đồng vàng. Và bốn hoặc năm ngày sau khi nhận được tiền, tôi sẽ ở Paris".

Vẫn hôm Giáo chủ nhận được thư đó, nhà Vua lại hỏi ông câu hỏi thường lệ.

Richelieu bấm đốt ngón tay và khẽ nói với mình: "Cô ta nói, bốn năm ngày sau khi nhận được tiền, cô ta sẽ đến nơi. Tiền đi phải mất bốn năm ngày, bốn năm ngày nữa để cô ta trở về, vị chi mất mười ngày. Bây giờ phải tính cả phần ngược gió, những rủi ro bất ngờ, những yếu đuối của đàn bà… cứ cho tất cả là mười hai ngày".

- Thế nào? Ông Quận công - nhà Vua nói - Ông tính toán xong rồi chứ?

- Vâng, tâu Bệ hạ, hôm nay là 20 tháng chín, các thẩm phán của thành phố tổ chức một ngày hội ngày 3 tháng mười. Như thể sẽ càng tốt, bởi Bệ hạ sẽ không phải tỏ ra làm lành với Hoàng hậu.

Rồi Giáo chủ nói thêm:

- Nhân thể, tâu Bệ hạ, xin đừng quên nói với lệnh bà đêm trước hôm dạ hội Bệ hạ muốn thấy chuỗi kim cương có hợp với lệnh bà không.

Chú thích:
(1) Bọn Công đê: thuộc dòng họ Bourbon, một số là thủ lĩnh và chiến đấu trong hàng ngũ giáo phái Canvanh.
(2) Florăng: thủ phủ cũ của vùng Tốtxcan, Italia
(3) Marie de Médicis, vợ vua Henri IV, mẹ Louis XIII, khi chổng chết được nghị viện cử làm nhiếp chính, bà đã đuổi nhưng bộ trưởng thời Henri IV, tin dùng Côngcini, cưới Anne d' Autriche cho Louis XIII, chiếm hết quyền lực cho đến khi thống chế De Ăngcrơ bị ám sát. Tiến hành chiến tranh với con trai từ nãm 1617 đến 1620, cuối cùng thỏa thuận với vua Louis XIII cho vị giáo sĩ tư tế của mình là Richelieu làm thủ tướng (1624). Bị đi đày và chết ở Côlônhơ năm 1642
(4) Từ đây tác giả dùng từ Chancelier có nghĩa là chánh án tối cao cho nhân vật Xécghiê, chứ không dùng từ garde dessceaux người giữ các con dấu, gọi là chưởng ấn nữa, tuy Chancelier cũng có nghĩa là giữ các con dấu nhưng ở địa vị thấp hơn
(5) Hầu tước de Salê, tức Henri De Talâyrăng - Sủng thần của Louis XIII, bị buộc tội chống lại Giáo chủ Richelieu - bị bắt ở Năngtơ và bị chặt đầu năm 1626.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 17

Vợ chồng nhà Bonacieux

Đây là lần thứ hai Giáo chủ trở lại vấn đề những nút kim cương với nhà Vua. Louis vì thế không hiểu nổi tại sao ông ta cứ nài nỉ và nghĩ rằng sự khuyến nghị này ắt che giấu một điều bí mật.

Đã nhiều lần nhà Vua từng bị xấu hổ vì Giáo chủ lại tỏ ra thông hiểu hơn cả bản thân nhà Vua về những gì diễn ra trong cuộc sống vợ chồng riêng tư của nhà Vua, do cảnh sát của ông ta hiện đại nhưng cũng rất ưu việt. Vì vậy, nhà Vua hy vọng trong một buổi trò chuyện với Anne d' Autriche sẽ làm lóe ra một tia sáng nào đó, tiếp đó đến ngay bên Giáo chủ cùng với một bí mật nào đó mà ông ta đã biết hoặc không biết, thì dù trường hợp này hay trường hợp kia, việc đó cũng sẽ tôn cao nhà Vua trước mắt viên Thủ tướng của mình.

Nhà Vua liền đi gặp Hoàng hậu và theo thói quen, bắt chuyện với Hoàng hậu bằng những đe dọa mới chống lại những người thân cận của nàng. Anne d' Autriche cúi đầu mặc cho thác lũ tuôn trào, không đáp, và hy vọng cuối cùng cơn lũ cũng phải dừng. Nhưng đó không phải là điều Louis XIII muốn, Louis XIII muốn một cuộc tranh cãi từ đó lóe ra một tia sáng nào đó. Nhà Vua đinh ninh rằng Giáo chủ có một ẩn ý nào đó và trù tính đặt nhà Vua trước một sự bất ngờ ghê gớm như ông ta vẫn quen làm.

Nhà Vua tính đạt tới mục đích đó bằng sự kiên trì cáo buộc. Nhưng, Anne d' Autriche mệt mỏi vì những đòn công kích vu vơ ấy kêu lên:

- Nhưng tâu Bệ hạ, Bệ hạ không nói hết ra những điều chất chứa trong lòng. Tôi đã làm cái gì cơ chứ? Tôi đã phạm tội gì nào? Bệ hạ không thể làm ầm lên như thế về bức thư viết cho anh tôi?

Nhà Vua đến lượt mình bị tấn công trực tiếp đến thế không biết trả lời sao, liền nghĩ đây là lúc đưa lời khuyến nghị mà ông chỉ được làm đêm trước hôm dạ hội.

Nhà Vua nói với vẻ uy nghiêm:

- Thưa bà, vũ hội chỉ nay mai thôi sẽ được tổ chức ở tòa thị chính. Tôi muốn rằng để tôn vinh các thẩm phán nghiêm túc của chúng ta, bà hãy mặc lễ phục và nhất là trang sức bằng những nút kim cương mà tôi đã ban tặng bà vào ngày lễ sinh nhật của bà. Đó là câu trả lời của tôi đó.

Câu trả lời thật khủng khiếp. Anne d' Autriche tin rằng Louis XIII đã biết tất cả, và Giáo chủ đã thuyết phục được nhà Vua che giấu lâu đến bẩy hoặc tám ngày, vả chăng nó cũng nằm trong bản tính của nhà Vua, Hoàng hậu tái nhợt hẳn đi, bàn tay đẹp tuyệt mỹ lúc này nhợt tựa bàn tay sáp tỳ lên chiếc đôn, nhìn nhà Vua bằng đôi mắt kinh hoàng không trả lời nổi một tiếng.

Nhà Vua vui mừng ra mặt vì sự bối rối này, tuy vẫn chưa đoán ra nguyên nhân.

- Thưa bà, bà nghe rõ chứ?

- Vâng, tâu… tôi nghe rõ - Hoàng hậu ấp súng.

- Bà sẽ có mặt ở vũ hội ấy chứ?

- Vâng.

- Với những nút kim cương của bà?

- Vâng.

Sắc mặt tái nhợt của Hoàng hậu càng tăng thêm đến cùng cực Nhà Vua thấy rõ điều đó và khoái trá với vẻ tàn nhẫn lạnh lùng vốn là một trong những tật xấu của tính cách nhà Vua.

- Thế là thỏa thuận rồi đấy nhé - Nhà Vua nói - đó là tất cả những gì tôi cần nói với bà.

- Nhưng vũ hội sẽ mở vào ngày nào? - Anne d' Autriche hỏi.

Bằng linh tính, nhà Vua cảm thấy không cần phải trả lời thẳng câu hỏi Hoàng hậu hỏi bằng một giọng như của người sắp chết.

- Sắp thôi mà - nhà Vua nói - nhưng tôi không nhớ chính xác ngày nào, để tôi hỏi Giáo chủ xem.

- Vậy ra chính Giáo chủ đã thông báo vũ hội đó với Bệ hạ? - Hoàng hậu kêu lên.

- Vâng, thưa bà -Nhà Vua ngạc nhiên trả lời - nhưng có chuyện gì vậy?

- Chính ông ta bảo Bệ hạ mời tôi dự hội với những nút kim cương ấy?

- Nghĩa là, bà…

- Chính ông ta, tâu Bệ hạ, chính ông ta?

- Ô hay? Do ông ta hay do tôi thì sao nào? Mời như thế thì mắc tội sao?

- Thưa không.

- Vậy bà dự chứ?

- Vâng.

- Tốt lắm! - Nhà Vua vừa nói vừa rút lui - Tốt lắm, tôi mong như thế đấy.

Hoàng hậu trịnh trọng thi lễ vì nghi thức thì ít mà hai gối nàng rời rã thì nhiều.

Nhà Vua khoái trá bỏ đi.

- Ta nguy mất! - Hoàng hậu lẩm bẩm - nguy mất, bởi Giáo chủ biết tất và chính lão ta đã thúc giục nhà Vua vốn còn chưa biết gì nhưng rồi sẽ biết ngay tất cả. Ta chết mất! Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi!

Nàng quỳ lên trên một cái nệm và cầu nguyện, đầu gục sâu giữa hai cánh tay run rẩy.

Quả vậy, tình thế thật khủng khiếp. Buckingham đã trở về London. Bà De Chevreuse đã ở Tours bị giám sát ngặt nghèo hơn bao giờ hết, Hoàng hậu thầm cảm thấy có một người trong đám phu nhân tùy tùng của mình đã phản bội mình mà chưa biết đó là ai. La Porte không thể rời khỏi điện Louvre. Nàng không có một ai trên đời để tin cậy.

Thế là trước bất hạnh đang đe dọa, và tình cảnh bị bỏ rơi, nàng òa lên nức nở.

Bỗng nhiên vang lên một giọng nói đầy lòng thương cảm và hết sức dịu dàng:

- Em không thể có ích chút nào cho Hoàng hậu hay sao?

Hoàng hậu quay phảt lại, bởi không thể nào nhầm với giọng nói này được, chỉ là bạn mới nói được như thế.

Quả nhiên, tại một cửa đi vào phòng Hoàng hậu, hiện ra bà Bonacieux xinh đẹp. Bà ta đang bận sắp xếp khăn áo trong một căn phòng thì nhà Vua đi vào. Bà ta không thể ra được và đã nghe thấy hết.

Hoàng hậu rú lên một tiếng chói tai vì bị bất ngờ, bởi trong lúc bối rối, lúc đầu nàng không nhận ra thiếu phụ mà La Porte đã dâng cho mình.

Người đàn bà trẻ chắp hai tay lại vừa khóe vì chia sẻ những lo âu của Hoàng hậu vừa nói:

- Ồ xin lệnh bà đừng sợ gì hết. Em xin đem hết linh hồn và thể xác dâng lệnh bà, và cho dù lệnh bà có quá cao sang và thân phận em hèn mọn đến đâu, em tin rằng em đã tìm được một cách giúp lệnh bà thoát ra khỏi những khó khăn.

- Em đấy ư? Trời ơi! Em đấy ư? - Hoàng hậu reo lên - Nhưng xem nào, hãy nhìn thẳng vào mặt ta. Ta bị phản bội tứ phía. Liệu ta có thể tin cậy vào em không?

- Ôi, thưa lệnh bà! - người đàn bà trẻ vừa quỳ xuống - vừa kêu lên - Em xin thề trên linh hồn em, em xin sẵn sàng chết vì lệnh bà!

Tiếng kêu đó thốt ra từ cõi lòng sâu thăm, và cũng như lời nói ban đầu, không thể có chuyện lầm lẫn được.

- Vâng - bà Bonacieux tiếp tục - Vâng, ở đây có những tên phản bội, nhưng có đức mẹ Đồng trinh, em xin thề không có ai có thể trung thành như em với lệnh bà, những nút kim cương mà nhà Vua hỏi lại ấy, lệnh bà đã tặng cho Quận công De Buckingham, có phải không ạ? Những nút kim cương ấy được đựng trong một cái tráp nhỏ bằng gỗ hồng đào mà Quận công đã kẹp dưới cánh tay? Em có nhầm không ạ? Không phải như vậy sao?

- Ôi Chúa ơi! Chúa ơi!

Hoàng hậu thầm thì, răng va vào nhau lập cập vì sợ hãi.

- Thế thì! Bà Bonacieux tiếp tục - Những nút kim cương ấy phải được lấy lại.

- Phải, hẳn rồi, phải vậy thôi. - Hoàng hậu kêu lên - nhưng biết làm thế nào, làm thế nào để lấy lại?

- Phải cử một ai đến gặp Quận công.

- Nhưng ai?… ai?… Ta có thể tin ai đây?

- Xin lệnh bà cứ tin tưởng vào em. Hãy cho em được cái vinh dự ấy, Hoàng hậu của em ạ, và em, em sẽ tìm được sứ giả.

- Nhưng phải viết thư?

- Vâng, việc đó là cần thiết. Vài chữ từ chính tay lệnh bà viết và có đóng dấu riêng của lệnh bà.

- Nhưng vài cái chữ ấy, đó là bản án của ta, đó là sự ly dị, sự lưu đày!

- Vâng nếu nó rơi vào bàn tay lũ đê mạt. Nhưng em, em đảm bảo mấy chữ đó sẽ được trao đúng địa chỉ.

- Ôi, trời ơi! Vậy là ta phải trao tính mạng ta, danh dự ta và danh tiếng của ta vào tay em!

- Vâng, thưa bệnh bà, phải vậy thôi và chính em sẽ cứu vãn mọi cái đó!

- Nhưng như thế nào? Ít nhất em cũng nói cho ta biết chứ.

- Chồng em đã được trả tự do từ hai ba ngày nay. Em còn chưa có thì giờ về thăm ông ấy. Đó là một người đàn ông tử tế và lương thiện, không hằn thù ai, cũng chẳng yêu ai. Ông ấy sẽ làm cái gì em muốn. Ông ấy sẽ ra đi theo lệnh của em, mà không biết mình mang cái gì, và ông ấy sẽ chuyển bức thư của lệnh bà tới địa chỉ lệnh bà đã dặn.

Hoàng hậu nắm lấy hai tay người đàn bà trẻ với niềm phấn khởi dạt dào, nhìn nàng như thể đọc thấu tâm can và chỉ thấy lòng thành thực trong đôi mắt đẹp rồi ôm hôn nàng trìu mến và nói:

- Em cứ làm thế đi, em sẽ cứu được đời ta, cứu được danh dự của ta!

- Ồ xin đừng cường điệu cái công việc em vinh dự được làm cho lệnh bà. Em có cứu vớt lệnh bà chút gì đâu, chẳng qua lệnh bà chỉ là nạn nhân của những âm mưu nham hiểm.

- Đúng vậy, đúng vậy, em bé của chị - Hoàng hậu nói - Và em có lý.

- Vậy xin hãy trao cho em bức thư ấy đi, thời gian gấp lắm rồi.

Hoàng hậu chạy ngay đến chiếc bàn nhỏ, trên bàn có sẵn giấy bút mực. Nàng viết hai dòng, niêm phong bức thư bằng con dấu của mình và trao cho bà Bonacieux.

- Và bây giờ - Hoàng hậu nói - Chúng ta quên mất một điều tối cần thiết.

- Điều gì ạ?

- Tiền.

Bà Bonacieux đỏ mặt nói:

- Vâng, đúng vậy và em xin thú thực với lệnh bà rằng chồng em…

- Chồng em không có, em muốn nói thế chứ gì.

- Có chứ ạ, chồng em có, nhưng ông ấy keo kiệt lắm, đó chính là tật xấu của ông ấy. Tuy nhiên lệnh bà đừng lo, chúng ta sẽ tìm cách…

- Chính là vì ta cũng không có - Hoàng hậu ngàt lời - những ai đã đọc những tập hồi ký của bà De Mốttơvin sẽ không ngạc nhiên thấy ta trả lời như vậy, nhưng đợi đã.

Hoàng hậu chạy đến hộp đồ nữ trang của mình, và nói:

- Đây em cầm lấy, đây là chiếc nhẫn theo người ta cam đoan có giá trị rất lớn. Nó vốn của anh ta, Nhà Vua Tây Ban Nha, nó đã là của ta và ta có thể tùy ý dùng nó. Em hãy cầm chiếc nhẫn này bán lấy tiền để chồng em ra đi.

- Trong vòng một tiếng đồng hồ, lệnh của hoàng hậu sẽ được thi hành.

- Em nhìn rõ địa chỉ chứ - Hoàng hậu nói nhỏ thêm, chỉ vừa đủ nghe - Gửi Huân tước Quận công De Buckingham ở London".

- Bức thư sẽ được trao tận tay cho Huân tước.

- Em nhỏ thật là hào hiệp! - Anne d' Autriche reo lên.

Bà Bonacieux hôn đôi tay của Hoàng hậu, giấu bức thư trong nịt ngực và biến mất nhẹ nhàng như một cánh chim.

Mười phút sau, nàng đã về đến nhà. Như nàng đã nói với Hoàng hậu, từ lúc chồng nàng được trả tự do nàng chưa về thăm. Nàng không biết gì về sự thay đổi đã diễn ra trong lòng ông ta đối với Giáo chủ, sự thay đổi ấy đã được củng cố vững chắc thêm sau hai hay ba lần viếng thăm của Bá tước De Rochefort và ông ta đã trở thành bạn tốt nhất của Bonacieux đã không tốn công mấy làm cho Bonacieux tin rằng việc bắt cóc vợ ông chẳng phải do một tình cảm tội lỗi nào mà chỉ là một việc phòng ngừa chính trị.

Nàng thấy ông Bonacieux chỉ có một mình. Con người khốn khổ đó đang vất vả thu dọn lại nhà cửa mà ông ta thấy đồ đạc gần như gây vỡ hết và tủ giả gần như rỗng không. Công lý không hề là một trong ba điều mà vua Salomon(1) đã chỉ ra là không để lại một vết tích gì trên đường đi của nó. Còn như cô hầu gái thì cô ta đã trốn mất từ khi chủ bị bắt giữ. Sự kinh hoàng đã tác động đến cô gái tội nghiệp đến mức cô ta cuốc bộ một mạch từ Paris đến tận Buốcgônhơ, quê hương của mình.

Ngay lúc vợ mình vừa trở về nhà, ông hàng xén đáng khen đã chia sẻ với người vợ về sự trở về may mắn của mình, còn vợ ông thì đã đáp lại để mừng cho chồng và để nói với chồng rằng, ngay khi nàng có thể dứt ra khỏi công việc là đã nghĩ tới chuyện hiến tất cả thời gian cho việc về thăm chồng.

Cái việc ngay khi ấy cũng phải đợi mất đến năm ngày. Việc đó trong mọi tình huống khác có vẻ hơi dài đối với Bonacieux nhưng trong cuộc viếng thăm Giáo chủ và những cuộc thăm viếng của Rochefort, ông đã có một chủ đề phong phú để suy tư và như người ta biết không có gì khiến thời gian trôi nhanh bằng suy nghĩ.

Hơn thế nữa những suy nghĩ của Bonacieux lại toàn màu hồng. Rochefort gọi ông là bạn mình, bạn thân mến Bonacieux và không ngừng nói với ông rằng Giáo chủ đánh giá rất cao về ông.

Ông hàng xén nhìn thấy mình đang trên con đường vinh hiển và giàu sang.

Về phần mình, phải nói rằng bà Bonacieux lại nghĩ đến tất cả những gì khác ngoài tham vọng. Những ý nghĩ của nàng, bất chấp nàng muốn hay không, chỉ một mực hướng về chàng thanh niên đẹp trai rất đỗi can trường và cũng có vẻ rất đỗi si tình.

Cưới ông Bonacieux ở tuổi mười tám, luôn sống giữa đám bạn bè của chồng mình, là một thiếu phụ mà tấm lòng lại vượt lên trên địa vị của mình, bà Bonacieux vẫn trơ trơ trước những ve vãn tầm thường. Nhưng vào thời kỳ đó, cái danh hiệu quý tộc có một ảnh hưởng lớn đến giới thị dân và D' Artagnan lại là quý tộc, hơn nữa chàng mặc đồng phục quân cận vệ, là thứ được các bà ưa thích nhất chỉ sau có đồng phục ngự lâm quân. Chàng trẻ, đẹp, lại ưa mạo hiểm. Chàng nói về tình yêu như một người lớn đang yêu và đang khát được yêu. Thế là dư thừa những gì cần có để làm điên đảo một cái đầu hai mươi ba tuổi mà bà Bonacieux thì lại vừa đến cái tuổi sung sướng trần đời đó.

Hai vợ chồng, dù họ chưa được thấy nhau từ tám hôm rồi, và trong cái tuần lễ ấy, những biến cố nghiêm trọng từng xảy ra giữa họ, cho nên họ bắt chuyện với nhau mỗi người một mối bận tâm riêng. Tuy nhiên ông Bonacieux tỏ ra vui mừng thực sự và dang rộng hai tay tiến về phía vợ.

- Bà Bonacieux giơ trán cho chồng hôn, rồi nói:

- Ta nói chuyện với nhau một chút.

- Sao cơ? - Ông Bonacieux ngạc nhiên.

- Vâng - Em có một chuyện tối quan trọng muốn nói với anh.

- Thật ra, tôi cũng thế, tôi cũng có vài vấn đề khá nghiêm trọng muốn nói chuyện với mình. Mình hãy giải thích qua việc mình bị bắt cóc cho tôi nghe nào, tôi xin mình đấy.

- Lúc này không phải lúc đề cập đến chuyện đó - Bà Bonacieux nói.

- Vậy thì phải là chuyện gì nào?

- Chuyện tôi bị bắt ư? Ngay hôm ấy em đã biết chuyện rồi. Nhưng vì chẳng phạm một tội hình nào, mình chẳng dính líu đến một âm mưu nào, vì rốt cuộc mình chẳng biết chút gì ai có thể làm hại mình, không phải mình, cũng không phải bất cứ ai, mà em chỉ quan tâm đến tầm quan trọng đáng có của sự kiện ấy thôi.

- Thưa bà, bà nói dễ nghe nhỉ! - Bonacieux thấy vợ tỏ ra ít quan tâm đến mình tự ái nói - bà có biết tôi đã bị dìm một ngày một đêm trong hầm tối của ngục Bastille không?

- Một ngày một đêm ấy đã qua rồi, thôi hãy gác chuyện mình bị bắt lại, và ta trở lại cái việc khiến đưa em về đây với mình.

- Sao, cái việc khiến đưa bà về đây với tôi? Vậy chứ không phải lòng khát khao được gặp lại một người chồng mà bà đã phải xa cách tám ngày rồi sao? - Ông hàng xén tức tối hỏi.

- Chuyện đó trước, chuyện kia sau.

- Nói đi!

- Một việc quan trọng bậc nhất, có lẽ vận hội sắp tới của chúng ta tùy thuộc vào đấy.

- Vận hội của chúng ta đã thay đổi bộ mặt rất nhiều kể từ ngày tôi gặp bà, bà Bonacieux ạ, và tôi sẽ không ngạc nhiên khi chỉ mấy tháng nữa thôi, nó sẽ làm cho khối người thèm khát.

- Vâng, nhất là nếu mình muốn những chỉ dẫn mà em sắp đưa ra cho mình.

- Cho tôi?

- Vâng, cho mình. Có một việc tốt và thánh thiện cần làm, mình ạ, đồng thời lại kiếm được rất nhiều tiền.

- Bà Bonacieux biết rằng nói về tiền bạc với chồng tức là bà đã nắm lấy chỗ yếu của ông ta.

Nhưng một người, ngay cả khi là một ông hàng xén, một khi đã trò chuyện mươi phút với Giáo chủ, sẽ không còn là chính người ấy nữa.

- Kiếm được nhiều tiền ư? - Ông Bonacieux bĩu môi.

- Vâng, rất nhiều.

- Khoảng bộ bao nhiêu?

- Vậy cái việc mình yêu cầu tôi nghiêm trọng lắm sao?

- Vâng.

- Vậy phải làm gì?

- Mình sẽ phải đi ngay lập tức, em sẽ đưa cho mình một mảnh giấy mà mình sẽ không được rời khỏi nó với bất cứ lý do gì và phải trao tận tay người nhận.

- Và tôi phải đi đâu?

- Đi London.

- Tôi, đi London á? Thôi nào, mình đùa rồi, tôi chăng có việc gì ở London.

- Nhưng những người khác lại cần mình đi đến đó.

- Những người khác ấy là ai? Tôi xin báo để mình biết tôi sẽ không nhắm mắt làm bừa nữa đâu và tôi muốn biết không chỉ tôi liều đời cho cái gì mà còn liều đời vì ai nữa.

- Một nhân vật nổi tiếng cử mình đi, một nhân vật nổi tiếng khác đợi mình: phần thưởng sẽ vượt xa ước muốn của mình. Đó là tất cả những gì em có thể hứa với mình.

- Lại những âm mưu nữa rồi! Luôn luôn là những âm mưu!

- Cám ơn, bây giờ tôi không tin gì nữa, và Giáo chủ đã khai sáng cho tôi về việc đó rồi.

- Giáo chủ ư! - Bà Bonacieux kêu lên - mình đã gặp Giáo chủ?

- Ngài đã cho gọi tôi - Ông hàng xén kiêu hãnh trả lời.

- Và mình đã nhận lời mời đến đó, mình lại bất cẩn như thế?

- Tôi phải nói rằng, tôi không có sự lựa chọn là đến hay không đến, vì tôi bị kẹp giữa hai lính gác. Nói đúng hơn, vì lúc đó tôi không quen biết Đức ông, nếu như tôi có thể thoát khỏi cuộc viếng thăm đó, tôi hẳn đã cực kỳ sung sướng.

- Vậy ông ấy đã ngược đãi mình ư? Hay ông ta đã hăm dọa mình?

- Ngài chìa tay ra cho tôi bắt và gọi tôi là bạn ngài, bạn ngài, thưa bà, nghe rõ chưa? Tôi là bạn của Đại Giáo chủ!

- Của Đại Giáo chủ?

- Không chấp nhận cái tước vị ấy của ngài, tình cờ thôi đấy chứ, thưa bà!

- Em chẳng không chấp nhận cái gì cả, nhưng em nói với mình rằng sự sủng ái của một ông Thủ tướng chỉ là phù du, và chỉ có điên mới đi gắn bó với một ông Thủ tướng, còn có những quyền lực ở bên trên quyền lực của ông ta, nó không dựa trên tính bất trắc của một con người hoặc lối thoát của một biến cố, chính là những quyền lực ấy ta phải đi theo.

- Tôi thấy bực mình rồi đấy thưa bà, tôi không biết thứ quyền lực nào khác ngoài quyền lực của một bậc vĩ nhân mà tôi vinh dự được phụng sự.

- Ông phụng Giáo chủ?

- Vâng, thưa bà, và như một kẻ tôi tớ của ngài, tôi sẽ không cho phép bà lao vào những âm mưu chống lại sự an ninh của một quốc gia và bà, phải, chính bà, lại phụng sự những mưu mô của một người đàn bà không phải là phụ nữ Pháp và lòng dạ Tây Ban Nha. May thay Giáo chủ vĩ đại ở đó, con mắt cảnh giác của ngài canh chừng và xuyên thấu tận đáy lòng người khác.

Bonacieux nhắc lại nguyên si từng lời cái câu ông ta được nghe Bá tước Rochefort nói. Nhưng người vợ tội nghiệp đã trông mong vào chồng mình, và trong niềm hy vọng ấy, đã đảm bảo cho ông ta trước Hoàng hậu, không kém rùng mình về điều đó và nỗi nguy hiểm suýt nữa nàng đâm đầu vào, và cả sự bất lực nàng đang cảm thấy nữa. Tuy nhiên, biết được sự hèn yếu và nhất là lòng tham của chồng mình, nàng chưa hết hy vọng dẫn dụ ông ta tới những mục đích của mình.

- À! Thưa ông, thì ra ông thuộc phái Giáo chủ! - Nàng kêu lên - Thì ra ông phụng sự đảng phái của những kẻ đã ngược đãi vợ ông và lăng mạ Hoàng hậu!

Ông Bonacieux huyênh hoang nói chữ:

- Lợi ích riêng tư không là cái gì trước lợi ích của toàn thể. Tôi đứng về phía những người cứu quốc gia.

Đấy cũng lại là một câu nói khác của Bá tước Rochefort mà ông ta đã nhớ được. Và thấy có dịp đem dùng.

- Thế ông có biết cái quốc gia mà ông vừa nói nó là thế nào không? - Bà Bonacieux nhún vai nói - Hãy yên phận là một thị dân ít học đi, và hãy quay về phía nào cho ông nhiều lợi lộc hơn.

- Ông Bonacieux vừa nói vừa vỗ lên cái túi căng tròn cho xủng xoẻng tiếng bạc reo:

- Hà, hà! Bà nói sao về cái túi này, thưa bà thuyết sĩ?

- Ở đâu ra số bạc ấy?

- Bà không đoán ra ư?

- Của Giáo chủ?

- Của ngài và của bạn tôi, Bá tước De Rochefort.

- Bá tước De Rochefort ư? Nhưng chính ông ta đã bắt cóc tôi!

- Có thể đấy, thưa bà.

- Và ông nhận tiền từ con người ấy?

- Tôi đã chẳng bảo bà là việc bắt cóc đó hoàn toàn là chính trị sao.

- Phải, nhưng cuộc bắt cóc đó có mục đích làm cho tôi phản bội lại nữ chủ của mình, và bằng tra khảo để moi ở tôi ra những lời thú nhận có thể phương hại đến danh dự và có thể cả mạng sống của nữ chúa tôn kính của tôi.

- Thưa bà - Bonacieux nói tiếp - nữ chúa tôn kính của bà là một mụ đàn bà Tây Ban Nha điên đảo, và việc Giáo chủ làm là rất đúng.

- Thưa ông - thiếu phụ nói - tôi vẫn biết ông hèn nhát, keo bẩn và ngu xuẩn, nhưng tôi lại không biết ông còn đê tiện nữa?

- Thưa bà - Bonacieux chưa từng thấy vợ mình nối giận bao giờ, đã lùi bước trước cơn điên giận của người vợ - Thưa bà, bà bảo sao cơ?

- Tôi bảo ông là một tên khốn nạn! - Bà Bonacieux tiếp tục khi thấy mình đã lấy lại được chút ảnh hưởng nào đó với chồng mình – Chà, ông làm chính trị ư, ông hả! Và còn là thứ chính trị Giáo chủ nữa! Ôi chao, ông bán mình, cả thể xác lẫn linh hồn cho quỷ sứ vì tiền?

- Không, cho Giáo chủ chứ.

- Cũng thế cả thôi? Thiếu phụ kêu lên - Nói Richelieu là nói quỷ Satan.

- Bà im đi, im ngay đi, người ta nghe thấy đấy.

- Đúng, ông có lý, và tôi sẽ phải xấu hổ, vì sự hèn nhát của ông.

- Nhưng xem nào, bà đòi hỏi phải làm gì mới được chứ?

- Tôi đã bảo ông là ông sẽ phải đi ngay tức khắc, rằng ông phải hoàn thành một cách trung thực nhiệm vụ mà tôi đã vị nể mà trao cho ông, và với điều kiện sau, tôi sẽ quên hết, tôi tha thứ và còn thêm - nàng chìa tay ra cho ông - em sẽ trao lại mình tình thương mến của em.

Bonacieux hèn mạt và keo kiệt. Nhưng ông ta yêu vợ mình, và ông đã mềm lòng. Một người đàn ông năm mươi tuổi không giữ nổi hiềm thù lâu với một người vợ tuổi hăm ba. Bà Bonacieux thấy ông còn do dự, liền nói:

- Thôi được? Vậy thôi! Suy cho cùng, có lẽ mình có lý, một người đàn ông hiểu về chính trị nhiều hơn những người đàn bà, nhất là mình, người đã từng trò chuyện với Giáo chủ. - Tuy nhiên nàng nói thêm - Chồng tôi, người đàn ông mà tôi tưởng có thể trông cậy vào tình thương yêu lại đối xử với tôi bạc bẽo và chẳng chiều theo ý tôi chút nào, chả phải cứng rắn quá sao.

- Chính vì những ý nghĩ ngông cuồng của bà có thể dẫn đi quá xa - Bonacieux đắc thắng trả lời - nên tôi nghi ngờ những ý nghĩ ấy.

- Thì em đành từ bỏ vậy - Thiếu phụ vừa nói vừa thở dài - Thôi được, ta không nói chuyện ấy nữa.

Bonacieux bỗng thấy mình chậm nhớ ra là Rochefort đã dặn mình cố chộp lấy những bí mật của vợ, liền trả lời:

- Nói chứ, ít nhất, bà cũng cho biết tôi phải làm gì ở London chứ.

Linh tính khiến người thiếu phụ thấy nghi ngờ và đẩy nàng về tư thế phòng vệ. Nàng nói:

- Ông biết cũng vô ích thôi mà. Chỉ là một chuyện tầm phào mà đàn bà thường ao ước ấy mà, mua một món hàng vặt nhưng lời lãi lại khá nhiều.

Nhưng người vợ trẻ càng chống chế, thì Bonacieux trái lại càng nghĩ cái bí mật mà nàng không chịu thổ lộ cùng ông ta rất quan trọng. Vậy ông ta quyết định chạy ngay tới nhà Bá tước Rochefort để nói với Bá tước rằng Hoàng hậu đang tìm một sứ giả để phái tới London.

- Xin lỗi nhé nếu như tôi rời xa bà lúc này, bà Bonacieux thân mến của tôi ạ - Bonacieux nói - vì không biết bà về thăm tôi, tôi trót có cuộc hẹn với một người bạn, Tôi sẽ về ngay thôi và nếu bà có thể đợi tôi chỉ nửa phút thôi, xong việc với người bạn tôi sẽ về ngay đón bà, và vì lúc đó trời cũng đã muộn, tôi sẽ đưa bà về điện Louvre.

- Cám ơn ông - Bà Bonacieux trả lời - Ông đâu có đủ can trường để giúp ích cho tôi việc gì, và tôi thừa sức quay lạỉ Louvre một mình mà.

- Tùy bà thôi, bà Bonacieux - tay cựu hàng xén tiếp - Tôi sớm gặp lại bà chứ?

- Chắc chắn rồi, tuần sau, tôi hy vọng thế, công việc rỗi rãi, tôi sẽ nhân đó trở về sắp xếp lại việc nhà chắc vẫn còn hơi bề bộn.

- Tốt lắm, tôi sẽ đợi bà. Bà không giận tôi đấy chứ?

- Tôi ư! Không chút nào đâu.

- Vậy, sớm gặp lại chứ?

- Sớm gặp lại.

Bonacieux hôn tay vợ mình và vội vã ra đi. Khi cánh cửa ra ngoài phố đã khép lại còn lại một mình, bà Bonacieux nói:

- Thế đấy, cung cách này chắc chắn tên ngu xuẩn đó đã thuộc phái Giáo chủ rồi! Và ta, ta đã đảm bảo với Hoàng hậu, ta là người đã hứa với nữ chủ nhân tội nghiệp của ta. Ôi trời ơi! trời ơi! bà sẽ cho tôi cùng giuộc với lũ khốn nạn nhung nhúc như kiến trong cuIlg mà người ta cắt đặt bên bà để do thám bà. Ôi, ông Bonacieux! Tôi chưa bao giờ yêu ông nhiều. Bây giờ, còn tệ hơn nhiều: tôi căm ghét ông. Và tôi thề, ông sẽ phải trả giá.

Đúng lúc nàng nói ra những câu ấy, một tiếng gõ trên trần khiến nàng ngẩng đầu lên, và một giọng nói xuyên qua sàn gác đến tai nàng:

- Bà Bonacieux yêu quý, hãy mở chiếc cửa ngách ra lối đi, tôi sẽ xuống bên bà.

Chú thích:
(1) Con trai và là người kế vị vua David, vua Israel, sự thông thái của ông

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 18

Người tình và người chồng

- Ôi thưa bà! - D' Artagnan vừa bước qua chiếc cửa mà thiếu phụ vừa mở ra cho chàng, vừa nói - cho phép tôi được nói với bà, bà có một Đức ông chồng đáng buồn đấy?

- Vậy ra ông đã nghe hết câu chuyện của chúng tôi? - Bà Bonacieux lo lắng nhìn D' Artagnan và vội hỏi.

- Không sót một câu.

- Nhưng làm thế nào lại thế được, trời ơi!

- Bằng một phương sách chỉ có tôi biết, và cũng nhờ nó mà tôi cũng đã nghe được câu chuyện còn sôi nổi hơn giữa bà với bọn nha lại của Giáo chủ.

- Và ông hiểu thế nào về những điều chúng tôi nói?

- Hàng nghìn điều, nhá, trước hết chồng bà là một thằng đần, một kẻ điên khùng, may thay, rồi thì bà bối rối, việc này khiến tôi lại rất vui vì nó cho tôi cơ hội được phục vụ bà, và có trời mới biết liệu tôi có sẵn sàng lao vào lửa vì bà không, cuối cùng là Hoàng hậu cần một người can trường thông minh và tận tụy làm một cuộc hành trình đến London vì lệnh bà. Tôi có ít nhất hai trong số ba phẩm chất bà cần và tôi đây.

Bà Bonacieux không trả lời, nhưng trái tim rung động vì mừng vui, và một hy vọng thầm kín long lanh trong mắt nàng. Nàng hỏi:

- Và ông lấy gì đảm bảo với tôi, nếu tôi bằng lòng ủy thác cho ông nhiệm vụ đó?

- Tình yêu của tôi đối với bà. Thế nào, bà nói đi, ra lệnh đi: phải làm gì?

- Lạy Chúa! Lạy Chúa! - Thiếu phụ thầm thì - Tôi có nên thổ lộ với ông một bí mật như thế không? Ông hãy còn như một đứa trẻ.

- Rõ rồi, tôi thấy bà cần có một ai đó bảo đảm cho tôi với bà.

- Tôi xin thú thực là việc đó sẽ làm tôi yên tâm lắm.

- Bà có biết ông Athos không?

- Không.

- Porthos?

- Không.

- Aramis vậy?

- Không, những vị ấy là những người nào?

- Những ngự lâm quân của nhà Vua. Bà biết ông De Treville, đại úy của họ chứ?

- Ồ, vâng, ông ấy, tôi biết chứ, không phải quen riêng đâu, mà vì nhiều lần đã được nghe nói về ông ấy với Hoàng hậu như một nhà quý tộc chính trực và trung thực.

- Bà không sợ ông ấy phản bội bà vì Giáo chủ, phải không nào?

- Ồ chắc chắn không rồi.

- Vậy thì bà hãy thổ lộ bí mật của bà với ông ấy, và hãy hỏi ông ấy xem liệu có thể ký thác nó cho tôi được không, dù việc đó có quan trọng, có quý giá, có ghê gớm đến đâu.

- Nhưng bí mật đó không thuộc về tôi, tôi không thể tiết lộ như thế.

- Bà chẳng vừa thổ lộ với ông Bonacieux đấy sao! - D' Artagnan giận dỗi nói.

- Với ông ta, chẳng qua như ký thác vào một hốc cây, một cánh chim câu, một vòng cổ chó ấy mà.

- Trong khi ấy, bà thấy rõ là tôi yêu bà.

- Là ông nói thôi.

- Tôi là một người hào hoa.

- Tôi tin vậy.

- Tôi can trường.

- Ồ, điều đó, tôi tin chắc.

- Vậy thì đem tôi ra thử thách đi.

Bà Bonacieux nhìn chàng trai trẻ, vẫn còn chút do dự cuối cùng. Nhưng mắt chàng ánh lên nhiệt tình, giọng chàng đầy sức thuyết phục khiến nàng cảm thấy mình bị lôi cuốn tới chỗ tin cậy chàng. Vả lại, nàng đang trong một những tình thế phải liều để được ăn cả ngã về không. Hoàng hậu cũng đã từng bị mất mát nhiều, bởi quá giữ gìn cũng như quá tin tưởng. Rồi, cũng phải thú nhận rằng, mối cảm tình không chủ tâm mà nàng nghiệm thấy đối với người bảo vệ trẻ tuổi đã khiến nàng quyết định nói ra.

- Ông chú ý nghe đây. Tôi xin đầu hàng trước những cam kết của ông, và xin thua những đảm bảo của ông. Nhưng tôi thề với ông trước Thượng đế đang nghe chúng ta, nếu ông phản bội tôi và cho dù kẻ thù có tha thứ cho tôi, tôi sẽ tự sát để lấy cái chết buộc tội ông.

- Và tôi, tôi thề với bà trước Thượng đế - D' Artagnan nói - nếu như tôi bị bắt khi đang hoàn thành những mệnh lệnh của bà, tôi sẽ chết trước khi làm hoặc nói điều gì phương hại đến bất kỳ ai.

Lúc đó người đàn bà trẻ mới thổ lộ với chàng điều bí mật ghê gớm mà do tình cờ đã để lộ một phần với chàng ở trước mặt nhà thờ Samaritain.

Đó là sự tỏ tình giữa họ với nhau.

D' Artagnan rạng rỡ niềm vui và kiêu hãnh. Điều bí mật chàng đang nắm, người đàn bà chàng đang yêu, sự tin tưởng và tình yêu, biến chàng thành một người khổng lồ.

- Tôi đi đây - Chàng nói - Tôi đi ngay lập tức.

- Sao! Ông đi ngay ư? - Bà Bonacieux kêu lên - Thế còn binh đoàn của ông, đại úy của ông?

- Thề trên linh hồn tôi, bà đã làm tôi quên tất những cái đó, Constance yêu quý ạ! Đúng, bà nói đúng, tôi phải xin nghỉ phép.

- Còn một trở ngại nữa - Bà Bonacieux đau đớn nói.

- Ô, cái việc đó - Sau một lúc suy nghĩ, D' Artagnan nói - Tôi sẽ vượt qua. Bà cứ yên tâm.

- Vượt qua như thế nào?

- Ngay tối nay, tôi sẽ đến nhà ông Treville, tôi sẽ nhờ ông xin hộ tôi sự chiếu cố ấy với em rể ông là ông des Essarts.

- Bây giờ còn chuyện khác nữa.

- Chuyện gì? - D' Artagnan hỏi vì thấy bà Bonacieux ngập ngừng không nói tiếp.

- Có lẽ ông không có tiền?

- Nói có lẽ là thừa - D' Artagnan vừa nói vừa mỉm cười.

- Bà Bonacieux mở tủ lôi ra cái túi mà nửa giờ trước đấy chồng bà âu yếm vuốt ve nó, bảo chàng:

- Vậy thì, ông hãy cầm lấy cái túi này.

- Túi tiền của Giáo chủ! - D' Artagnan phá lên cười và reo lên, vì chàng đã không bỏ sót một vần trong câu chuyện giữa ông hàng xén và vợ mình, nhờ bóc đi mấy viên gạch lát.

- Đúng, túi tiền của Giáo chủ - bà Bonacieux trả lời - Ông thấy nó có vẻ bề thế đấy chứ.

- Mẹ kiếp! - D' Artagnan kêu lên - Sẽ khoái trá gấp đôi đem tiền của Giáo chủ đi cứu Hoàng hậu đấy?

- Ông là một chàng trai trẻ đáng yêu và duyên dáng - Bà Bonacieux nói - Ông hãy tin là Hoàng hậu sẽ không vô ơn đâu.

- Ồ, tôi đã được thưởng lớn rồi! - D' Artagnan nói - Tôi yêu cầu bà, hãy cho phép tôi nói ra điều đó với bà, như thế đã hạnh phúc hơn cả điều tôi dám hy vọng rồi.

- Im nào! - Bà Bonacieux giật mình nói.

- Cái gì?

- Người ta nói ở ngoài phố.

- Chính là giọng…

- … của chồng tôi. Đúng, tôi đã nhận ra.

D' Artagnan chạy ra cửa, đóng chốt lại. Chàng nói:

- Hắn sẽ không vào được khi tôi chưa đi, khi tôi đi rồi, bà hãy mở.

- Nhưng tôi, tôi cũng phải đi thôi. Túi tiền biến mất, nếu tôi còn ở đây, sẽ biện minh ra sao?

- Bà nói đúng. Phải ra thôi.

- Ra ư? Ra thế nào? Ông ta sẽ trông thấy chúng ta nếu chúng ta đi ra.

- Vậy, phải lên nhà tôi thôi.

- Ôi! - Bà Bonacieux kêu lên - Ông nói với tôi chuyện đó bằng cái giọng khiến tôi phát sợ. - Bà Bonacieux rớm nước mắt khi thốt ra những lời ấy.

D' Artagnan nhìn thấy nước mắt, cảm thấy mủi lòng, bối rối, chàng liền quỳ xuống dưới chân nàng và nói:

- Ở nhà tôi, bà sẽ được an toàn như trong một ngôi đền, tôi xin thề với lời thề của một nhà quý tộc.

- Ta đi thôi - Nàng nói - tôi tin ở ông, bạn tôi ạ.

D' Artagnan thận trọng mở chốt cửa, và cả hai nhẹ nhàng như hai cái bóng luồn qua cửa trong ra lối đi, rón rén lên cầu thang vào phòng của D' Artagnan.

Một khi đã ở đó rồi, để an toàn hơn, chàng trai trẻ chèn cửa lại rồi hai người đến gần cửa sổ, qua khe cánh cửa, họ nhìn thấy Bonacieux đang nói chuyện với một người mặc áo choàng.

Vừa nhìn thấy người mặc áo choàng. D' Artagnan đã chồm lên, nhích gươm, và lao về phía cửa.

Đó chính là người ở Măng.

- Ông định làm gì vậy? - Bà Bonacieux kêu lên - Ông làm hại chúng ta mất.

D' Artagnan nói:

- Nhưng tôi đã thề phải giết con người đó?

- Lúc này sinh mạng ông đã được dâng hiến rồi, nó không còn là của ông nữa. Nhân danh Hoàng hậu, tôi cấm ông không được lao vào bất cứ mối hiểm nguy nào ngoài hiểm nguy trong chuyến đi.

- Còn nhân danh mình bà không ra lệnh gì ư?

- Nhân danh tôi, tôi xin ông thế đấy. - Bà Bonacieux hết sức xúc động nói. Nhưng nghe đã, hình như họ đang nói về tôi.

D' Artagnan lại gần cửa sổ, áp tai vào.

Lão Bonacieux đã mở được cửa, thấy nhà trống không lại quay lại chỗ người mặc áo choàng, mà lão đã để đứng đấy một mình trong giây lát. Lão nói:

- Cô ta đi rồi. Cô ta quay lại điện Louvre.

- Ông có chắc vợ ông không nghi ngờ ông bỏ đi với ý đồ nào không? - Người lạ mặt hỏi.

- Chắc chứ! - Bonacieux đáp với vẻ tự mãn - đó là một người đàn bà quá ư nông nổi.

- Tên cận vệ tập sự có ở nhà không?

- Chắc là không, ông thấy đấy, cửa sổ đóng và không có chút ánh sáng nào lọt qua khe cửa.

- Mặc kệ, cứ phải chắc chắn.

- Nhưng làm thế nào?

- Đến gõ cửa phòng nó.

- Để tôi hỏi tên hầu xem.

- Đi đi!

Bonacieux trở vào nhà, đi qua cái cửa mà hai kẻ chạy trốn đã đi qua, trèo lên tận thềm nghỉ cầu thang phòng D' Artagnan, chàng đã cẩn thận không để lộ ra dấu hiệu nào đang có mặt ở nhà.

- Đúng lúc ngón tay Bonacieux gõ ầm lên cánh cửa, đôi bạn trẻ cảm thấy thót tim.

- Chẳng có ai ở nhà - Bonacieux nói.

- Thôi, không cần, ta xuống dưới nhà ông đi, sẽ chắc hơn là cứ đứng ở ngưỡng cửa.

- Ôi, lạy Chúa - Bà Bonacieux thầm thì - Chúng ta không nghe thấy gì nữa rồi.

- Trái lại - D' Artagnan nói - Chúng ta chỉ càng nghe rõ hơn thôi.

D' Artagnan lật ba bốn viên gạch lát tạo thành ở phòng chàng một cái tai khác của Denis(1), trải một tấm thảm lên nền nhà, quỳ xuống và ra hiệu cho bà Bonacieux cúi xuống như mình, về phía lỗ nghe.

- Ông tin chắc không có ai chứ? - Người lạ mặt nói.

- Tôi đảm bảo vậy - Bonacieux trả lời.

- Và ông nghĩ vợ ông đã?…

- Đã quay lại Louvre.

- Không nói gì với người nào ngoài ông?

- Tôi chắc chắn thế.

- Một điểm quan trọng đấy, ông có hiểu không?

- Như thế tức là cái tin tôi mang đến cho ông có một giá trị…

- Rất lớn, ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi không giấu ông điều đó.

- Vậy Giáo chủ sẽ bằng lòng về tôi?

- Tôi không nghi ngờ gì điều đó.

- Giáo chủ vĩ đại!

- Ông có chắc trong khi nói chuyện với ông, vợ ông không buột miệng nói ra những cái tên riêng nào chứ?

- Hình như thế.

- Bà ấy không nhắc đến bà De Chevreuse, ông De Buckingham và cả bà De Vécne nữa chứ?

- Không, cô ta chỉ nói với tôi cô ta muốn phái tôi đi London để phục vụ lợi ích của một nhân vật danh tiếng.

- Quân phản phúc! - Bà Bonacieux thầm thì.

- Im nào! - D' Artagnan vừa nói vừa nằm lấy tay nàng còn nàng lơ đãng cứ để mặc.

- Không sao - người mặc áo choàng tiếp tục - Ông thật ngớ ngẩn, không biết giả vờ chấp nhận nhiệm vụ đó, và bây giờ ông đã có bức thư, quốc gia mà họ đe dọa được cứu thoát và ông…

- Và tôi?

- Và ông ấy à! Giáo chủ sẽ ban tước hiệu quý tộc cho ông…

- Ngài nói với ông như thế?

- Phải, tôi biết ngài muốn làm ông bị bất ngờ.

- Ông yên tâm - Bonacieux nói tiếp - vợ tôi tôn thờ tôi, vẫn còn kịp mà.

- Tên đần độn! - Bà Bonacieux lẩm bẩm.

- Có im không! - D' Artagnan vừa nói vừa siết chặt tay nàng hơn nữa.

- Còn kịp là thế nào? - Người mặc áo choàng hỏi lại.

- Tôi cũng quay lại Louvre, tôi yêu cầu gặp bà Bonacieux, tôi nói tôi đã nghĩ lại rồi, tôi lại nhận việc đó, và tôi sẽ lấy được bức thư rồi chạy ngay đến chỗ Giáo chủ.

- Thế thì đi mau lên! Tôi sẽ quay lại ngay để biết kết quả tiến hành thế nào.

Người lạ đi ra.

- Đồ đê mạt? - Bà Bonacieux nói.

- Im nào! - D' Artagnan nhắc lại và siết mạnh tay nàng hơn trước nữa.

Một tiếng hét lên khủng khiếp làm gián đoạn những suy nghĩ của D' Artagnan và bà Bonacieux. Chính là chồng nàng thấy túi tiền biến mất và đang hô hoán kêu bắt kẻ cắp.

- Ôi, lạy Chúa! - Bà Bonacieux khẽ kêu lên.

- Lão ta khuấy đảo cả khu phố lên mất. Bonacieux kêu gào mãi, nhưng vì những tiếng kêu như thế xảy ra luôn, nên chẳng thu hút được ai trong phố Phu đào huyệt, hơn nữa ngôi nhà ông hàng xén lâu nay lại khá tai tiếng. Thấy chẳng ai đến, lão vừa đi ra vừa tiếp tục kêu gào, và người ta nghe thấy tiếng kêu cứ xa dần, theo hướng phố Bến phà.

- Thôi bây giờ lão ta đã đi rồi, đến lượt ông cũng phải ra đi thôi - Bà Bonacieux nói - Hãy can đảm, nhưng cất nhất phải thận trọng, nên nhớ ông có nghĩa vụ với Hoàng hậu.

- Với Hoàng hậu và với bà! - D' Artagnan nói - cứ yên tâm nàng Constance kiều diễm ạ, tôi sẽ trở về xứng đáng với sự biết ơn của Hoàng hậu, nhưng chẳng lẽ tôi lại không trở về xứng đáng với tình yêu của nàng sao.

Người đàn bà trẻ chỉ trả lời bằng đôi má đỏ hồng lên. Mấy phút sau, D' Artagnan đến lượt mình cũng ra đi, mình trùm một chiếc áo choàng lớn, bao gươm dài bên trong đội lên một cách ngang tàng.

Bà Bonacieux nhìn theo không dứt với con mắt thấm đượm tình yêu mà người đàn bà đưa tiễn người đàn ông mình cảm thấy yêu thương. Nhưng khi chàng đã khi khuất khỏi góc phố, nàng liền quỳ xuống, chắp hai tay lại và kêu lên:

- Ôi lạy Chúa? Xin người che chở cho Hoàng hậu, che chở cho con!

Chú thích:
(1) Bạo chúa của Xyraquy (405-367 trước công nguyên) - rất đa nghi. luôn mặc áo giáp, không dùng thợ cắt tóc, không ngủ một nơi quá hai đêm. Đào một hầm lao dưới đất để giam tội phạm. Nấp trong một địa điểm bí mật được xây theo hình cái tai, có thể nghe thấy hết những tiếng kêu than, những ý nghĩ thầm kín của tù nhân.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 19

Kế hoạch tác chiến.

D' Artagnan đi thẳng đến nhà ông De Treville. Chàng nghĩ rằng chỉ ít phút nữa, Giáo chủ sẽ được tên lạ mặt khốn kiếp kia, hính như là mật vụ của ông ta thông báo, vì vậy chàng nghĩ không thể để chậm trễ một giây phút nào.

Lòng chàng tràn ngập niềm vui. Một cơ hội vừa giành được vinh quang, vừa kiếm được tiền đang hiện ra trước mắt chàng, và còn là sự cổ vũ ban đầu đưa chàng gần lại người phụ nữ chàng ngưỡng mộ. Sự run rủi hầu như ngay từ lần đầu tiên vậy là đã đem lại cho chàng hơn cả chàng dám cầu xin ở Chúa cứu thế.

Ông De Treville đang trong phòng khách với cuộc hội kiến thường lệ của các nhà quý tộc. D' Artagnan đã như người thân trong nhà, đi thẳng đến phòng làm việc của ông và nhờ báo cho ông chàng đang chờ vì một việc quan trọng.

D' Artagnan ở đó được năm phút thì ông De Treville đi vào, thoáng nhìn thấy niềm vui trải mượt trên khuôn mặt chàng ông đại úy tôn kính hiểu ngay rõ ràng có điều gì mới mẻ đã xảy ra.

Suốt dọc đường, D' Artagnan đã tự hỏi liệu chàng có nên thổ lộ với ông De Treville không hay chỉ xin ông cho phép được tự do hành động vì một công việc bí mật. Nhưng vì ông De Treville đã từng quá chu toàn với chàng, ông lại quá tận tụy với nhà Vua và Hoàng hậu, ông rất đỗi căm ghét Giáo chủ nên chàng trai trẻ quyết định nói hết với ông.

- Anh bạn trẻ, anh yêu cầu gặp tôi? - Ông hỏi.

- Vâng, thưa ông và hy vọng xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy ông, khiông biết rõ vấn đề là chuyện quan trọng gì.

- Anh nói đi, ta nghe đây.

D' Artagnan hạ giọng nói:

- Chuyện không kém liên quan đến danh dự và có lẽ cả tính mạng của Hoàng hậu.

- Anh nói gì vậy? - Ông De Treville vừa hỏi vừa nhìn xung quanh xem có ai không và đưa mắt nhìn D' Artagnan như muốn hỏi rõ chàng.

- Thưa ông, tôi nói, tình cờ khiến tôi đang làm chủ một bí mật…

- Anh phải giữ kín, ta hy vọng thế, anh bạn trẻ ạ, bằng tính mạng của anh đấy.

- Nhưng tôi lại phải thổ lộ với ông, thưa ông, với chính ông, bởi chỉ có ông mới có thể giúp tôi trong nhiệm vụ mà tôi vừa mới nhận được của Hoàng hậu.

- Cái bí mật ấy là của anh ư?

- Không, thưa ông, của Hoàng hậu.

- Anh được phép của Hoàng hậu?

- Không, thưa ông, trái lại, bởi vì sự tuyệt mật đã được tôi đảm bảo.

- Vậy tại sao anh lại đi phản bội lại ngay trước mặt tôi?

- Bởi vì, tôi đã nói với ông rồi đó, không có ông, tôi chẳng thể làm gì, và tôi sợ rằng ông sẽ từ chối cái ân huệ mà tôi yêu cầu ông, nếu ông không biết rõ tôi yêu cầu ông điều đó với mục đích gì.

- Anh cứ giữ lấy cái bí mật ấy của anh, chàng trai trẻ ạ, và nói cho ta hay anh muốn gì ở ta.

- Tôi muốn ông dành cho tôi một kỳ nghỉ phép mười lăm ngày ở ông des Essarts.

- Khi nào?

- Ngay đêm nay.

- Anh rời Paris?

- Tôi đi làm nhiệm vụ.

- Có thể nói cho tôi ở đâu được không?

- Ở London.

- Liệu có kẻ nào quan tâm đến việc anh không đạt được mục đích không?

- Giáo chủ, tôi tin như vậy, sẽ cho hết mọi thứ trên đời để ngăn tôi thành công.

- Và anh đi một mình?

- Tôi đi một mình.

Trong trường hợp ấy, anh sẽ không qua nổi Bôngđy đâu, chính tôi là người nói với anh như vậy, lời nói của Treville đấy.

- Sao lại thế được?

- Người ta sẽ cho ám sát anh.

- Tôi sẽ chết khi làm nghĩa vụ của mình.

- Nhưng sứ mạng của anh không được làm tròn.

- Đúng vậy - D' Artagnan nói.

- Tin tôi đi - Ông Treville tiếp tục - trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, phải có bốn để đến được một.

- Ôi! Thưa ông, sao ông nói đúng thế. Nhưng ông đã biết Athos, Porthos và Aramis, ông thấy liệu tôi có sừ dụng họ được không?

- Không thổ lộ với họ cái bí mật mà chính tôi cũng không muốn biết chứ?

- Chúng tôi đã thề với nhau, một lần cho mọi lần, nhắm mắt tin nhau, hết lòng vì nhau trước mọi thử thách. Vả lại, ông có thể nói với họ rằng ông hoàn toàn tin tưởng ở tôi, và họ sẽ không kém tin tôi hơn ông đâu.

- Tôi có thể cho họ mỗi người một kỳ phép mười lăm ngày, tất cả là thế này: cho Athos, vì vết thương vẫn luôn luôn nhức nhối, để đến vùng suối nóng ở Foócgiơ, cho Porthos và Aramis để đi theo bạn vì không muốn bỏ mặc bạn trong một tình cảnh đau đớn đến như vậy. Gửi cho họ giấy phép sẽ là bằng chứng tôi cho phép cuộc hành trình của họ.

- Xin cám ơn ông, ông thật muôn vàn lần tốt.

- Vậy anh hãy đi tìm họ ngay lúc này đi và tất cả phải được thi hành ngay đêm nay. À, trước hết, hãy viết cho tôi đơn xin ông des Essarts. Có thể anh đã bị một tên do thám theo dõi, và việc anh đến thăm tôi, trong trường hợp Giáo chủ đã biết sẽ được hợp pháp hóa.

D' Artagnan viết đơn xin, và ông De Treville nhận đơn từ tay chàng, đảm bảo trước hai giờ sáng bốn giấy phép sẽ đến đúng địa chỉ các lữ khách.

- Làm ơn gửi giấy phép của tôi đến chỗ Athos - D' Artagnan nói - Tôi sợ rằng trở về nhà tôi sẽ gặp chuyện chẳng lành.

- Anh yên tâm. Vĩnh biệt, chúc thượng lộ bình an! À mà? - Ông De Treville gọi chàng lại.

D' Artagnan rảo bước quay lại.

- Anh có tiền không?

- Ba trăm đồng vàng!

- Tốt lắm, với số tiền ấy có thể đi tận cùng thế giới. Thôi đi đi.

D' Artagnan chào ông De Treville đang chìa tay bắt tay chàng. Chàng siết chặt tay ông với lòng kính trọng xen lẫn sự biết ơn. Từ khi tới Paris, chàng chỉ một mực ca ngợi con người ưu tú ấy con người chàng luôn luôn thấy đáng tôn kính, trung thực và vĩ đại.

Đầu tiên chàng đến thăm Aramis. Từ cái buổi tối tuyệt diệu chàng bám theo bà Bonacieux, chàng chưa trở lại nhà bạn mình.

Còn thêm điều này nữa: Mới thoạt nhìn chàng ngự lâm trẻ ấy và mỗi lần gặp lại, chàng tưởng như nhận thấy một nỗi buồn sâu sắc in trên gương mặt bạn mình.

Tối nay nữa, Aramis vẫn thức, vẻ mặt sầm tối, mơ màng. D' Artagnan hỏi bạn mình mấy câu về nỗi buồn sâu xa ấy.

Aramis phân trần chàng buộc phải viết bằng tiếng Latinh một bài bình luận về chương thứ 18 kinh Thánh Augustin cho tuần sau, khiến chàng phải bận tâm nhiều.

Đôi bạn chuyện trò được một lát thì một đầy tớ của ông De Treville bước vào cầm theo một gói kín có dấu niêm phong.

- Cái gì thế này? - Aramis hỏi.

- Giấy phép ngài yêu cầu - người hầu trả lời.

- Tôi hả, tôi có xin phép nghỉ đâu.

- Im đi và cầm lấy. - D' Artagnan nói - Và anh, anh bạn, đây là nửa đồng vàng thưởng công cho anh, anh về nói với ông Treville là ông Aramis thành thật và rất đỗi cám ơn ông. Thôi về!

Người hầu cúi rạp đất chào và đi ra.

- Thế nghĩa là thế nào? - Aramis hỏi.

- Anh hãy cầm lấy cái cần thiết cho một cuộc hành trình mười lăm ngày và đi theo tôi.

- Nhưng tôi không thể rời Paris lúc này mà không biết… - Aramis dừng lại.

- Không biết bây giờ nàng ra sao, có phải không? - D' Artagnan tiếp tục.

- Ai cơ?

Người đàn bà đã ở đây, người đàn bà có chiếc khăn tay thêu đó.

- Ai bảo cậu có một người đàn bà ở đây? - Aramis cãi, mặt nhợt như người chết.

- Tôi đã trông thấy.

- Và cậu có biết là ai không?

- Tôi ngờ ngợ thôi, ít ra là như vậy.

- Nghe đây - Aramis nói - một khi cậu nắm được bao nhiêu chuyện như vậy, hẳn cậu phải biết người đàn bà ấy bây giờ ra sao?

- Tôi cho là nàng đã trở về Tours.

- Về Tours? Phải, đúng thế, cậu biết nàng rồi. Nhưng làm sao nàng lại trở về Tours mà không nói gì với tôi.

- Bởi nàng sợ bị bắt.

- Làm sao nàng không viết cho tôi?

- Bởi vì nàng sợ làm hại anh.

- D' Artagnan, cậu cứu sống tôi rồi! - Aramis reo lên - Tôi cứ tưởng mình bị khinh bỉ, phản bội. Tôi đã sung sướng biết mấy khi gặp lại nàng! Tôi không thể ngờ rằng nàng đã hy sinh tự dọ của mình vì tôi, tuy nhiên nàng trở lại Paris là vì nguyên cớ gì?

- Vì cái nguyên cớ mà hôm nay chúng ta phải đi sang nước Anh.

- Nhưng nó là gì mới được chứ? - Aramis hỏi.

- Rồi có ngày anh sẽ biết, Aramis ạ, nhưng còn lúc này, tôi sẽ bắt chước tính dè dặt của cháu gái ông tiến sĩ.

Aramis mỉm cười, vì chàng nhớ lại câu chuyện mình đã bịa ra tối hôm đó cho các bạn nghe.

- Thôi được, vậy một khi nàng đã rời Paris, và cậu đã chắc như vậy, D' Artagnan, không có gì ngăn tôi được nữa, tôi sẵn sàng đi theo cậu. Cậu nói chúng ta đi…

- Lúc này hãy đến Athos đã, và nếu anh muốn đến cùng thì nhanh nhanh lên, bởi chúng ta đã mất khá nhiều thời gian rồi.

- À mà, anh báo cho Bazin nữa.

- Bazin đi cùng chúng ta? - Aramis hỏi.

- Có thể. Dẫu sao, lúc này Bazin đi theo chúng ta đến nhà Athos cũng tốt.

Aramis gọi Bazin, và sau khi đã ra lệnh cho y đi theo đến nhà Athos, chàng vơ áo choàng, cầm lấy gươm và ba khẩu súng ngắn, rồi mở đi mở lại ba bốn cái ngăn kéo xem có sót một đồng vàng nào không, chẳng thấy, chàng nói:

- Vậy ta đi thôi.

Sau khi đã chắc chắn việc tìm kiếm tiền còn sót lại chỉ là thừa, Aramis đi theo D' Artagnan, vừa đi vừa tự hỏi làm thế nào mà cái tay tập sự trẻ ở đội cận vệ cũng biết rõ như chàng người phụ nữ đã trọ ở nhà chàng là ai, và còn biết rõ hơn chàng nàng đã ra sao.

Chỉ đến lúc ra khỏi nhà, Aramis mới đặt tay lên cánh tay D' Artagnan, và nhìn thẳng vào mặt bạn và nói:

- Cậu không nói về người đàn bà ấy với ai chứ?

- Không một ai hết.

- Không cả với Athos và Porthos chứ?

- Không hé một nửa lời.

- Khá lắm!

Yên tâm về cái điều quan trọng ấy, Aramis tiếp tục lên đường cùng D' Artagnan, chẳng mấy chốc cả hai đã đến nhà Athos.

Họ thấy Athos đang cầm một giấy phép trong tay và tay kia là bức thư của ông De Treville.

"Athos thân mến của tôi.

Vì sức khỏe của anh tuyệt đối đòi hỏi phải như vậy, tôi rất muốn anh phải nghỉ ngơ mười lăm ngày. Vậy hãy đến vùng suối nóng Foócgiơ hoặc chỗ nào khác hợp với anh, và hãy nhanh chóng bình phục.

Thân ái

Treville"

- Anh Athos ơi, cái giấy phép và bức thư đó có nghĩa là phải đi theo tôi đấy.

- Đến suối nóng Foócgiơ?

- Đấy hoặc chỗ khác.

- Để phục vụ nhà Vua ư?

Nhà Vua hoặc Hoàng hậu, chả phải chúng ta là bầy tôi của hai vị sao?

Đúng lúc ấy thì Porthos vào. Chàng nói:

- Mẹ kiếp! Chuyện kỳ quá đi thôi. Chả hiểu từ bao giờ trong ngự lâm quân, người ta lại cho quân nghỉ phép không cần xin xỏ gì thế này.

D' Artagnan nói:

- Từ khi họ có những người bạn xin hộ họ.

- Chà chà! - Porthos nói - Hình như có chuyện gì mới ở đây chăng?

- Phải, chúng ta ra đi - Aramis nói.

- Đến nước nào? - Porthos hỏi.

- Thật tình, tôi chẳng biết gì lắm - Athos nói - hỏi D' Artagnan ấy.

- Đến London, thưa các vị.

Đến London? - Porthos kêu lên - Và chúng ta sẽ làm gì ở London đây?

- Đó lại là điều tôi không thể nói với các vị được. Các vị phải tin vào tôi thôi.

- Nhưng để đi đến London - Porthos thêm - Cần phải có tiền, mà tôi thì chẳng có một xu nào cả.

- Tôi cũng vậy - Aramis nói.

- Tôi cũng thế - Athos nói.

- Tôi có - D' Artagnan vừa nói vừa rút kho báu từ trong túi mình ra và đặt lên bàn - Trong túi này có ba trăm đồng vàng. Mỗi người hãy cầm lấy, thế là đủ để đi đến London và cho lúc trở về. Vả lại, cứ yên tâm, chúng ta sẽ không đến London tất cả đâu?

- Tại sao thế?

- Bởi vì rất có thể, có một vài người trong chúng ta sẽ ở lại dọc đường.

- Nhưng như vậy phải chăng chúng ta đang tiến hành một chiến dịch?

- Và nguy hiểm nhất, tôi xin báo trước như vậy.

- Ra thế! Porthos nói - Nhưng một khi nhỡ ra chúng ta bị giết chết, ít ra tôi cũng muốn biết tại sao chứ?

- Cậu vội quá đấy! - Athos nói.

- Tuy nhiên tôi đồng ý với Porthos! - Aramis nói.

- Nhà Vua phải chăng có lệ phải trình bày với cái vị? Không, Ngài chỉ nói thẳng ra thế này: "Các vị, người ta đang chiến đấu ở Gátxcônhơ, hay ở Flăngđrơ, hãy lên đường!" và các vị lên đường đến đấy. Tại sao ư? Các vị chẳng áy náy gì đâu.

- D' Artagnan nói đúng - Athos nói - Đây là ba giấy phép của chúng ta do ông De Treville cấp, và đây là ba trăm đồng vàng chẳng biết từ đâu ra. Vậy ta đi thôi, và sẵn sàng chết ở nơi người ta bảo ta đi. Cuộc đời có đáng đặt ra bao nhiêu câu hỏi như vậy không? D' Artagnan, tôi sẵn sàng đi theo cậu.

- Cả tôi nữa - Porthos nói.

- Tôi cũng vậy - Aramis nói - Tôi cũng chẳng buồn bực phải rời khỏi Paris đâu. Tôi đang cần tiêu khiển.

D' Artagnan nói:

- Yên trí, các vị sẽ được tiêu khiển.

- Còn bây giờ, khi nào chúng ta đi đây? - Athos hỏi.

- Ngay lập tức - D' Artagnan trả lời - Không còn một chút nào để mất đâu.

Bốn chàng trai trẻ hô lên gọi những người hầu của mình:

- Ê này, Grimaud, Planchet, Mousqueton, Bazin! Hãy đánh xi những đôi ủng cho chúng ta, và đem ngựa từ dinh quán đến.

Quả thật, mỗi lính ngự lâm đều để ngựa của mình và của người hầu ở tổng dinh như ở doanh trại.

Planchet, Grimaud, Mousqueton, Bazin vội vàng đi ngay.

- Bây giờ, chúng ta phải vạch kế hoạch tác chiến - Porthos nói - Chúng ta đi đâu trước nào?

- Đến Cale - D' Artagnan nói - đó là con đường đi thẳng đến London.

Porthos nói:

- Tôi có ý kiến.

- Nói đi.

- Bốn người đi cùng nhau sẽ bị nghi ngờ. D' Artagnan sẽ hướng dẫn riêng từng người. Tôi đi tiên phong theo đường Bulônhơ để thám thính. Hai giờ sau Athos khởi hành theo đường Amiêng. Aramis sẽ đi theo chúng ta bằng đường Noayông. Còn D' Artagnan, cậu ấy sẽ đi bằng đường nào thì đi, bằng y phục của Planchet, còn Planchet sẽ đi theo chúng ta thành D' Artagnan và với đồng phục quân cận vệ.

- Thưa các vị - Athos nói - tôi thấy mang theo bọn người hầu trong "một việc hệ trọng" như thế này sẽ chẳng hay ho gì. Một bí mật không may có thể bị một nhà quý tộc để lộ. Còn bọn người hầu, hầu như luôn luôn bán rẻ nó.

D' Artagnan nói:

- Tôi thấy kế hoạch của Porthos hình như không thể thực hiện được ở chỗ bản thân tôi cũng không biết chỉ dẫn các anh điều gì. Tôi chỉ là người mang theo một bức thư, có thế thôi. Tôi không có và cũng không thể làm ra ba bản sao bức thư ấy, vì nó đã được niêm phong. Vậy theo ý tôi, ta cứ nên đi thành đoàn. Thư ấy ở đây, trong cái túi này (và chàng chỉ cái túi có bức thư). Nếu tôi bị giết, một trong các anh sẽ giữ lấy và các anh tiếp tục lên đường. Nếu anh ấy bị giết, sẽ đến lượt anh khác, và cứ thế tiếp theo, miễn là một người đến được. Đó là tất cả việc cần làm.

- Hoan hô D' Artagnan! Ý kiến cậu cũng là ý kiến tôi! - Athos nói. Hơn nữa phải trước sau như một, tôi đi nghỉ ở suối nóng, các cậu đi cùng, đáng lẽ ở suối nóng Foócgiơ, tôi lại ra biển nghỉ, tôi được tự do cơ mà. Họ muốn bắt giữ chúng ta, chúng ta sẽ chống trả. Họ xét xử chúng ta, chúng ta cứ một mực không có ý định nào khác ngoài việc trầm mình ngày mấy lần trong nước biển. Bốn người mỗi người một phương thì sẽ rẻ mạt, còn như bốn người thống nhất lại thì thành một đội quân. Chúng ta sẽ trang bị cho bốn tên hầu cả súng ngán, lẫn súng trường. Nếu họ phái một đạo quân tới chống lại chúng ta, chúng ta sẽ giao chiến, và người nào sống sót, như D' Artagnan nói sẽ mang thư đi.

- Nói hay lắm! - Aramít~ reo lên - Anh không hay nói, Athos ạ, nhưng khi anh nói, thì cứ như thánh Jean miệng vàng. Tôi tán thành kế hoạch của Athos. Còn cậu, Porthos?

- Tôi cũng vậy, nếu hợp ý D' Artagnan. D' Artagnan là người mang thư tất nhiên phải là chỉ huy cuộc mạo hiểm, cậu ấy quyết định và chúng ta thi hành.

- Vậy thì tôi quyết định chúng ta chấp nhận kế hoạch của Athos và nửa giờ nữa chúng ta lên đường.

- Chấp nhận! - Ba người ngự lâm đồng thanh hô lên.

- Và mỗi người vươn tay tới cái túi, lấy bẩy nhăm đồng vàng, chuẩn bị hành lý để khởi hành đủng giờ.


BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 20

Du hành

- Đúng hai giờ sáng, bốn chàng phiêu lưu của chúng ta ra khỏi Paris, qua cửa ô Saint-Denis. Chừng nào vẫn còn là đêm, họ vẫn phải câm lặng. Dẫu không nói, họ vẫn chịu ảnh hưởng của bóng đêm và nhìn đâu cũng thấy ổ phục kích.

Vừa rạng sáng, lưỡi họ mới như được cởi trói. Cùng với mặt trời, niềm vui trở lại. Thật giống như đêm trước một cuộc giao chiến, tim đập mạnh, mắt long lanh, người ta cảm thấy cuộc đời mình sắp lìa bỏ suy cho cùng vẫn là một cái gì tốt đẹp.

Cảnh tượng đoàn người ngựa xem ra thật dữ dội. Những con ngựa ô của ngự lâm quân, dáng dấp hiếu chiến, rồi thói quen bước đều trong đội kỵ binh của những đồng đội cao quý ay, tất cả những cái đó có thể làm lộ một sự giả dạng chặt chẽ nhất. Những tên hầu theo sau, vũ trang đến tận răng.

Mọi việc đều ổn thỏa cho tới khi đến Sángtily vào lúc tám giờ sáng. Phải ăn sáng đã. Họ xuống ngựa trước một quán ăn trưng một biển hiệu vẽ Saint-Martin chia một nửa tấm áo khoác cho một người nghèo. Bọn người hầu được lệnh không được tháo yên cương ngựa và ở tư thế sẵn sàng đi ngay.

Bọn họ vào căn phòng công cộng và ngồi vào bàn. Một nhà quý tộc theo đường D' Artagnan vừa tới cũng vào ngồi cùng bàn và điểm tâm. Hắn gợi chuyện về trời mưa và nắng ráo. Các lữ khách đáp chuyện. Hắn uống chúc họ sức khoẻ. Các lữ khách cũng đáp lễ lại.

Nhưng khi Mousqueton vào báo ngựa đã sẵn sàng, và khi mọi người đứng lên, người lạ đề nghị Porthos nâng cốc chúc sức khỏe Giáo chủ. Porthos trả lời chàng không đòi hỏi gì hơn nếu người lạ đến lượt mình cũng xuống chúc sức khỏe nhà Vua.

Người lạ hét lên hắn không biết nhà Vua nào ngoài Giáo chủ.

Porthos gọi hắn là thằng say rượu. Người lạ rút gươm.

- Cậu lại làm một chuyện dại dột rồi - Athos nói - thôi kệ vậy, lúc này có lùi cũng không được rồi, giết nó đi rồi đuổi kịp bọn mình càng nhanh càng tốt.

Và cả ba đều lên ngựa phi nước đại ra đi trong khi Porthos hứa với đối thủ sẽ đâm xuyên qua người hắn bằng tất cả các thế của thuật đấu gươm.

Đi được khoảng năm trăm bước, Athos nói:

- Thế là xong một tên?

- Nhưng tại sao tên đó lại tấn công vào Porthos thay vì mọi người khác? - Aramis hỏi.

- Tại vì - Porthos nói to hơn tất cả chúng ta, nó tưởng anh ấy là chỉ huy - D' Artagnan nói.

Athos lẩm nhẩm:

- Mình luôn bảo, cái cậu tập sự Gátxcông này là một tay khôn ngoan thâm thúy mà.

Các lữ khách lại tiếp tục lên đường.

Đến Bôve, họ dừng lại hai giờ, vừa để cho ngựa thở, vừa để chờ Porthos. Không thấy Porthos đến, cũng chẳng có tin gì về chàng, họ lại lên đường.

Đi khỏi Bôve chừng một dặm, đến một chỗ đường đi thắt lại giữa hai vạt đất, họ gặp một bọn tám đến mười người, lợi dụng đoạn đường bị bong đá lát có vẻ như đang làm việc ở đó bằng việc đào hố và xẻ rãnh bùn.

Aramis sợ bẩn ủng trong lớp vữa nhân tạo ấy, quát mắng bọn họ thậm tệ. Athos muốn ngăn chàng lại, nhưng đã quá muộn. Những người thợ bèn châm chọc các lữ khách, sự cấc lấc của họ làm điên đầu cả đến chàng Athos tính lạnh, đến mức thúc ngựa xông vào một người trong bọn.

Thế là mỗi người trong bọn họ đều lùi lại đến tận cái hố, và vồ lấy một khẩu hỏa mai giấu ở đấy. Kết quả là bẩy lữ khách của chúng ta chẳng khác gì được đem ra để thử súng. Aramis nhận một viên đạn xuyên qua vai và Mousqueton bị một viên cắm vào thịt vùng dưới thận. Tuy nhiên chỉ có mỗi Mousqueton ngã ngựa không phải vì bị trọng thương, mà vì hắn không thể nhìn thấy vết thương, chắc hắn tưởng nguy hiểm chứ đâu phải thường.

- Đây là một ổ phục kích - D' Artagnan nói - Đừng bắn nữa, lên đường thôi.

Aramis tuy bị thương vẫn giữ chặt bờm ngựa, đi theo những người khác. Ngựa của Mousqueton cũng đuổi kịp đoàn và phi một mình không chủ.

- Chúng ta sẽ có một con ngựa để thay đây. Athos nói.

- Giá tôi có một chiếc mũ thì tốt quá - D' Artagnan nói - Mũ của tôi bị đạn làm bay mất rồi. Kể cũng may chán, vì bức thư không để ở trong mũ.

Aramis nói:

- Nhưng bọn chúng sẽ giết Porthos khi cậu ấy qua đây mất.

- Nếu Porthos còn đứng vững trên đôi chân của mình, có lẽ cậu ấy bây giờ đã đuổi kịp chúng ta - Athos nói - Tôi nghĩ lúc giao tranh, tên say sẽ tỉnh rượu.

Rồi họ lại phi ngựa trong hai tiếng nữa, cho dù ngựa đã quá mệt đến nỗi họ sợ chúng không chịu cho cưỡi nữa.

Các lữ khách đi theo lối tắt hy vọng sẽ bớt lo. Nhưng đến Crevơcơ (Crève - Vỡ tim), Aramis tuyên bố chàng không thể đi xa hơn được nữa. Quả thật, để đi được đến đây, chàng đã phải lấy hết can đảm được che giấu dưới bề ngoài trang nhã và cung cách lịch thiệp của mình. Mỗi lúc chàng càng tái nhợt đi và mọi người phải đỡ chàng ngồi vửng trên mình ngựa. Họ để chàng xuống ngựa trước cửa một tửu quán, cho Bazin ở lại với chàng, vả chăng hắn chỉ tổ vướng chân nếu xảy ra đụng độ chứ chẳng được ích lợi gì. Rồi họ lại lên đường với hy vọng đến ngủ ở Amiêng.

Rong ruổi trên đường, lúc này chỉ còn Grimaud, Planchet và hai ông chủ, Athos nói:

- Mẹ kiếp! Bọn chúng sẽ không lừa nổi mình nữa đâu, mình đảm bảo với cậu từ đây đến Cale, chúng đừng hòng cậy nổi răng mình hoặc làm mình rút gươm khỏi vỏ.

- Thôi đừng thề thốt nữa - D' Artagnan nói - Hãy phi lên, nếu lũ ngựa còn chịu.

Các du khách thúc đinh vào bụng ngựa, lũ ngựa được kích thích mạnh, lấy lại được sức. Họ đến Amiêng vào lúc nửa đêm và xuống ngựa ở quán trọ Huệ vàng.

Chủ quán có vẻ là một người lương thiện nhất trên đời. Lão ta tay mang cây đèn nến, tay kia ngả mũ bông chào đón khách. Hắn muốn để hai vị khách, mỗi người ngủ một căn phòng duyên dáng, nhưng chán nỗi mỗi phòng lại ở mỗi đầu quán trọ.

D' Artagnan và Athos từ chối. Chủ quán nài mãi. Lừ khách vẫn một mực như thế. Đành phải tùy lữ khách vậy.

Họ vừa xếp đặt chỗ ngủ và chặn cửa phía trong xong thì có tiếng gõ cửa sổ trông ra sân, họ hỏi xem ai thì nhận ra tiếng nói của những người hầu, và mở ra.

Quả nhiên đó là Planchet và Grimaud. Planchet nói:

- Một mình Grimaud thôi cũng đủ để canh ngựa, và nếu các ông muốn, tôi sẽ nằm chắn cửa, như thế các ông sẽ yên trí không ai lọt vào chỗ các ông được.

- Thế anh ngủ trên cái gì? - D' Artagnan hỏi.

Planchet trả lời:

- Giường tôi đây. - Và anh ta chỉ một bó rơm.

- Vậy vào đi! - D' Artagnan nói - Anh có lý đấy, cái bộ mặt lão chủ quán làm ta không ưa, trông thớ lợ quá.

Athos nói:

- Cả tôi nữa cũng thấy thế.

Planchet trèo qua cửa sổ, nằm chắn ngang cửa, còn Grimaud thì chui vào chồng ngựa đảm bảo năm giờ sáng anh ta và ngựa đã sẵn sàng.

Đêm khá yên tĩnh. Khoảng hai giờ sáng, có kẻ định mở cửa thật. Nhưng Planchet giật mình chồm dậy, và kêu lên: "Ai đó?". Kẻ kia trả lời mình nhầm và bỏ đi.

Lúc bốn giờ sáng, có tiếng ầm ầm ở chuồng ngựa. Grimaud muốn đánh thức bọn trai coi ngựa, và bọn chúng đã đánh hắn.

Khi mấy người mở cửa sổ, thì thấy gã hầu tội nghiệp nằm bất tỉnh, đầu bị một đòn cán chĩa đánh vỡ.

Planchet đi xuống sân và định gióng lại yên cương cho ngựa.

Chân ngựa đều bị tụ máu. Chỉ còn mỗi con của Mousqueton chạy không chủ trong năm sáu tiếng đồng hồ đêm trước có lẽ có thể tiếp tục lên đường. Nhưng do một sự nhầm lẫn không thể chấp nhận được, kẻ có vẻ là thú y giải phẫu mà người ta sai đi tìm để trích máu cho con ngựa của chủ quán, lại trích ngay con ngựa của Mousqueton.

Việc đó khiến mọi người trở nên lo lắng. Tất cả những tai họa kế tiếp nhau có thể do rủi ro, nhưng cũng rất có thể là kết quả của một âm mưu. Athos và D' Artagnan ra ngoài, trong khi đó Planchet hỏi thăm xem xung quanh đây, có ba con ngựa nào muốn bán không? Ở ngoài cửa có hai con ngựa yên cương sẵn sàng, sung sức và lực lưỡng. Đúng là nắng hạn gặp mưa rào. Gã hỏi chủ ngựa đâu, người ta trả lời, họ cũng qua đêm ở đây và lúc này đang tính tiền trả chủ quán.

Athos đi xuống để trả tiền trọ. Còn D' Artagnan và Planchet đứng ở cửa trông ra phố. Chủ quán ở trong một cái phòng thấp và sâu mãi vào trong. Người ta yêu cầu Athos vào trong.

Athos không nghi ngờ gì lấy ra hai đồng vàng để trả. Chủ quán chỉ có một mình và đang ngồi trước bàn làm việc mà một trong số ngăn kéo đã hé mở. Hắn cầm đồng tiền Athos đưa cho, lật đi lật lại từ tay này sang tay khác và bất ngờ kêu toáng lên là tiền giả, hắn tuyên bố sẽ bắt giữ bọn chàng như những kẻ làm tiền giả.

- Quân chó má! - Athos vừa nói vừa tiến lại - Tao sẽ cắt tai mày.

Cùng lúc đó, bốn người trang bị đến tận răng, qua cửa bèn xông vào và nhảy bổ lên Athos.

- Tôi bị bắt - Athos đồn hết sức kêu thật to - chạy đi thôi, D' Artagnan phóng ngựa đi, phóng ngựa mau!

Rồi chàng nhả liền hai phát súng ngắn.

D' Artagnan vì Planchet không để nhắc lại đến lần thứ hai, tháo luôn hai con ngựa chờ ở cửa, nhảy lên, thúc đinh vào bụng ngựa, phóng như bay.

D' Artagnan vừa phi vừa hỏi Planchet:

- Mày có biết Athos bây giờ ra sao không?

- Ồ thưa ông - Planchet nói - tôi trông thấy hai tên ngã vì trúng hai phát đạn, và qua cửa kính, tôi thấy hình như ông đang đọ gươm với những tên khác.

- Hoan hô Athos! - D' Artagnan lẩm nhẩm. Lại nghĩ đến việc mình phải bỏ rơi anh ấy - Ồ, mà có lẽ cũng lại như thế đang đợi ta cách đây mấy bước thôi. Planchet tiến lên, mày tốt lắm! Tiến lên!

- Thưa ông, tôi đã nói với ông rồi - Planchet trả lời. Dân Pica, khi dùng mới biết mà. Hơn nữa, tôi đang trên mảnh đất quê hương, tôi càng phấn khích.

- Và cả hai phi ngựa hết tốc lực, một mạch đến Saint Ômê. Ở Saint Ômê, họ xuống cho ngựa thở, cánh tay vẫn ngoắc dây cương, đề phòng bất trắc và ngồm ngoàm đứng ăn đôi chút ngay giữa phố và rồi lại khởi hành.

Cách cửa ô của Cale chừng trăm bước, ngựa của D' Artagnan quỵ ngã, không có cách nào làm cho nó đứng lên được, máu trào ra mũi và hai mắt, còn lại con ngựa của Planchet, nhưng nó cũng dừng lại, không có cách nào làm nó lại đi nữa.

Cũng may chỉ còn cách thành phố trăm bước, họ bỏ ngựa lại trên đường và chạy về phía cảng. Planchet ra hiệu cho chủ mình chú ý đến một nhà quý tộc cùng với người hầu đi trước bọn họ chừng năm mươi bước.

Họ rảo bước đến gần. Gã quý tộc có vẻ đang rất bận rộn, đôi ủng của gã phủ đầy bụi đường và gã đang hỏi thăm xem có thể qua nước Anh ngay lúc này được không.

Người chủ một chiếc thuyền buồm chuẩn bị căng buồm trả lời:

- Chả có gì dễ hơn việc đó. Nhưng sáng nay có lệnh không được để người nào không được phép khẩn cấp của Giáo chủ đi qua.

- Tôi có giấy phép đó - Gã quý tộc vừa nói vừa rút mảnh giấy trong túi ra - Giấy phép đây!

- Ông hãy đem đến trấn thủ cảng xác nhận - chủ thuyền nói - và đưa cho tôi giấy ưu tiên.

- Tôi phải tìm ông trấn thủ ở đâu?

- Ở dã thự của ông ấy.

- Dã thự ấy ở đâu?

- Cách thành phố một phần tư dặm. Kia kìa, từ đây ông cũng nhìn thấy, cái mái lợp đá đen ở chân cái gò nhỏ ấy.

- Tốt lắm! - Gã quý tộc nói.

Và cùng với người hầu, gã đi theo con đường dẫn đến dã thự của viên trấn thủ.

D' Artagnan và Planchet đi theo gã quý tộc với khoảng cách năm trăm bước.

Ra khỏi thành phố, D' Artagnan rảo bước đuổi kịp gã, vừa lúc gã đi vào một cánh rừng nhỏ.

- Thưa ông - D' Artagnan nói - Ông có vẻ rất vội vã?

- Người ta không thể vội hơn thế, thưa ông.

- Tôi lấy làm tiếc - D' Artagnan nói - vì tôi cũng rất vội, nên tôi muốn nhờ ông giúp tôi một việc.

- Việc gì?

- Để tôi đi trước.

- Không được - gã quý tộc nói - tôi đã đi sáu mươi dặm và mất bốn mươi tư giờ và trưa mai tôi đã phải ở London.

- Tôi cũng đi cùng con đường ấy trong bốn mươi giờ và mười giờ sáng mai tôi phải ở London.

- Thưa ông tiếc thật. Nhưng tôi đến trước, và tôi sẽ không qua sau đâu.

- Rất tiếc thưa ông. Nhưng tôi đến sau, và tôi sẽ qua trước.

- Công việc của nhà Vua! - Gã quý tộc nói.

- Công việc của chính tôi! - D' Artagnan nói.

- Tôi thấy hình như ông định cố tình gây sự với tôi.

- Mẹ kiếp! Thế ông muốn nó là thế nào?

- Ông muốn gì?

- Ông muốn biết điều đó ư?

- Hẳn rồi.

- Vậy thì thế này! Tôi muốn cái lệnh ông đang mang theo, bởi vì tôi không có nó, và tôi lại cần có một cái.

- Tôi cho là ông đang đùa.

- Tôi chả bao giờ đùa.

- Để tôi đi!

- Ông không đi được đâu.

- Anh bạn trẻ tử tế của ta ạ, ta sẽ bắn vỡ đầu anh, Lubanh đâu, súng ngắn của ta.

- Planchet! - D' Artagnan nói - hãy lo tên hầu, còn ta lo thằng chủ.

Planchet hăng hái lập chiến công đầu, nhảy bổ lên Lubanh, và vì khỏe và dũng mãnh, hắn quật Lubanh ngã ngửa ra và tì gối lên ngực rồi nói với D' Artagnan:

- Ông chủ, ông lo việc của ông đi, còn tôi, tôi đã làm xong việc của tôi rồi.

Thấy vậy, gã quý tộc rút gươm nhảy bổ vào D' Artagnan, nhưng gã gặp phải một đối thủ khó nuốt.

Trong khoảng ba giây đồng hồ D' Artagnan đã cho hắn ba nhát gươm, mỗi nhát chàng lại nói:

- Một nhát vì Athos! Một nhát vì Porthos! Một nhát vì Aramis.

Đến nhát thứ ba, gã quý tộc đổ vật xuống như một đống thịt.

D' Artagnan tưởng hắn chết, hoặc ít nhất cũng bị ngất, lại gần hắn để chiếm lấy cái lệnh, nhưng đúng lúc chàng vươn cánh tay ra để lục tìm, tên bị thương vẫn chưa rời tay gươm liền xỉa luôn một mũi vào ngực chàng và nói:

- Một cho ngươi!

- Và một cho ta! Nhát cuối là nhát tốt nhất! - D' Artagnan hét lên giận dữ, đâm nhát thứ tư xuyên qua bụng hắn cắm mũi gươm xuống đất.

Lần này gã quý tộc nhắm mắt lại và lịm đi. D' Artagnan lục trong cái túi mà chàng thấy gã đút tờ lệnh đi đường vào đấy rồi cầm lấy. Giấy mang tên Bá tước De Wardes.

Rồi đưa mắt nhìn lần cuối con người trẻ tuổi đẹp trai suýt soát hai nhăm tuổi, bỏ mặc hắn nằm đấy không còn cảm giác, có lẽ đã chết, chàng buông một tiếng thở dài, buồn thay cho cái định mệnh trớ trêu xui khiến con người hủy hoại lẫn nhau vì lợi ích của những kẻ xa lạ với mình và thường không biết cả đến việc mình đang tồn tại nữa.

Nhưng chàng bị bứt ra khỏi những ý nghĩ ấy bởi những tiếng gào thét hết sức mình kêu cầu cứu của Lubanh.

Planchet lấy tay chẹn họng hắn, và dùng hết sức siết chặt lại rồi nói:

- Thưa ông, chừng nào tôi còn chẹn thế này, nó sẽ không kêu nữa, tôi tin chắc như vậy. Nhưng tôi chỉ vừa buông tay ra là nó lại rống lên ngay. Tôi nhận ra nó là người Noócmăng, và dân Noócmăng thì bướng lắm.

Thật vậy, bị chẹn đến thế, Lubanh vẫn cố để lọt ra tiếng kêu.

- Đợi đã! - D' Artagnan nói.

Cầm chiếc khăn tay, chàng nhét vào miệng hắn và bảo Planchet:

- Bây giờ, trói nó vào một gốc cây.

Công việc được thực hiện cẩn thận, rồi họ kéo Bá tước De Wardes đến gần tên đầy tớ. Và vì đêm bắt đầu buông, kẻ bị trói và kẻ bị tử thương cả hai đều ở sâu mấy bước ở trong rừng, đương nhiên họ phải ở lại đó đến ngày hôm sau.

- Và bây giờ - D' Artagnan nói - ta đến nhà trấn thủ.

- Nhưng tôi thấy hình như ông cũng bị thương? - Planchet nói.

- Không sao cả, ta hãy lo chuyện gấp nhất đã, rồi hãy nói đến vết thương của ta sau, vả chăng hình như cũng không nguy hiểm lắm đối với ta.

- Và cả hai rảo bước tới dã thự của viên trấn thủ đáng kính.

Người ta thông báo có Bá tước De Wardes.

D' Artagnan được dẫn vào.

- Ông có lệnh do Giáo chủ ký? - Viên trấn thủ hỏi.

- Vâng, thưa ông - D' Artagnan trả lời - lệnh đây.

- Ờ, ờ, thế này là hợp thức và bảo đảm lắm rồi - viên trấn thủ nói.

- Đơn giản thôi - D' Artagnan trả lời - tôi là một trong những người thân tín của Giáo chủ mà.

- Hình như Đức ông muốn ngăn ai đó đến nước Anh.

- Phải, một thằng cha D' Artagnan nào đó, một tên quý tộc người Bearn xuất phát từ Paris cùng với ba tên bạn với ý đồ đến tận London.

- Ông có biết đích thân hắn không? - Viên trấn thủ hỏi.

- Ai cơ?

- Cái tên D' Artagnan ấy.

- Quá rõ.

- Vậy cho tôi biết đặc điểm của hắn đi.

- Không gì dễ hơn.

Và D' Artagnan tả từng nét, từng nét đặc điểm của Wardes.

- Hắn có ai đi cùng không? - Viên trấn thủ hỏi.

- Có, một tên hầu là Lubanh.

- Người ta sẽ canh chừng bọn chúng, và nếu tóm được chúng, Đức ông có thể yên tâm, chúng sẽ được giải về Paris, và được áp giải cẩn thận.

D' Artagnan nói:

- Thưa ông, nếu làm được chuyện đó, ông sẽ có công lớn với Giáo chủ.

- Khi quay về, ông lại gặp lại Giáo chủ chứ, thưa Bá tước?

- Chắc chắn thế rồi.

- Xin Bá tước nói giùm với Giáo chủ, tôi xin hết lòng phụng sự ngài.

- Tôi sẽ không quên đâu.

Vui mừng vì được bảo đảm như thế, viên trấn thủ xác nhận vào tờ giấy thông hành và trao lại cho D' Artagnan.

D' Artagnan không để mất thì giờ vào những việc chúc tụng vô ích, chàng chào viên trấn thủ, cám ơn và ra đi.

Khi đã ra ngoài, chàng và Planchet đi theo đường vòng để tránh khu rừng và vào thành phốbằng một cửa ô khác.

Con thuyền luôn sẵn sàng ra đi, chủ thuyền đang đợi trên boong thuyền. Thấy D' Artagnan ông ta hỏi:

- Thế nào?

- Đây là giấy thông hành đã được xác nhận.

- Còn nhà quý tộc kia?

- Ông ta không đi hôm nay - D' Artagnan nói - nhưng ông yên tâm, tôi sẽ trả tiền đi cho cả hai suất.

- Nếu thế thì đi thôi - chủ thuyền nói.

- Ta đi thôi! - D' Artagnan lắp lại.

Rồi chàng và Planchet nhảy xuống chiếc xuồng nhỏ. Năm phút sau họ đã cặp mạn thuyền.

Ra biển được nửa dặm, D' Artagnan thấy một vùng sáng lóe lên và một tiếng nổ. Thì ra đó là tiếng đại bác báo hiệu đóng cửa hải cảng.

Đã đến lúc chăm sóc vết thương của mình, may sao đúng như D' Artagnan nghĩ, nó không nguy hiểm lắm, mũi gươm gặp phải một xương sườn và trượt dọc theo chiếc xương đó, thêm nữa, áo lót dính ngay vào vết thương và chỉ chảy mất mấy giọt máu.

D' Artagnan mệt lả. Họ trải cho chàng một tấm nệm trên boong thuyền, chàng lăn ra và ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau, chàng thấy mình chỉ cách bờ biển nước Anh ba bốn dặm. Suốt đêm gió yếu nên đi được ít.

Khoảng mười giờ, thuyền thả neo ở cảng Đuvrơ.

- Mười giờ rưỡi, ta đã ở đây rồi!

Nhưng thế chưa đủ, còn phải đến London. Ở nước Anh, bưu trạm phục vụ khá tốt. D' Artagnan và Planchet mỗi người cưỡi một con ngựa nhỏ, một phu trạm chạy trước dẫn đường họ.

Bốn giờ sau, họ đã tới cửa ô kinh thành.

D' Artagnan không quen biết London, không biết một câu tiếng Anh, nhưng chàng viết lên một mẩu giấy cái tên Buckingham và ai ai cùng chỉ dinh Quận công cho chàng.

Quận công đi săn ở Uynxo với nhà Vua.

D' Artagnan hỏi người hầu thân tín của Quận công, thường đi theo ông trong mọi cuộc du hành, nói tiếng Pháp thông thạo.

Chàng bảo anh ta rằng mình đến London vì một việc sinh tử, và anh ta phải nói ngay cho chủ mình tức khắc.

Giọng nói đáng tin của D' Artagnan đã thuyết phục được Patrítxơ. Patrítxơ là tên người thừa hành của Thủ tướng. Anh ta đóng yên cương hai con ngựa, tự đảm nhiệm việc dẫn đường chàng cận vệ trẻ. Còn Planchet, người ta phải đỡ hắn từ trên lưng ngựa xuống, chàng trai đáng thương đã kiệt sức, ngồi cứng đờ như cây chò, không như D' Artagnan vững như thép.

Mọi người đã đến lâu đài, hỏi thăm thì biết nhà Vua và Buckingham đi săn chim ở đầm lầy cách đây hai ba dặm.

Hai người đến nơi chỉ dẫn mất hai mươi phút. Patrítxơ nghe thấy ngay tiếng chủ mình đang gọi chim ưng. Patrítxơ hỏi chàng:

- Tôi phải thông báo ai muốn gặp Huân tước Quận công đây?

- Cứ nói chàng trai trẻ một buổi tối đã kiếm cớ gây sự với ngài ở cầu Mới trước mặt nhà thờ Samaritain là được rồi.

- Lối giới thiệu lạ đời nhỉ!

- Anh sẽ thấy nó gấp mấy lối khác ấy chứ.

Patrítxơ phi ngựa nước đại đến gặp Quận công và thông báo với ông đúng lời lẽ D' Artagnan đã nói là có một sứ giả đang đợi ông.

Buckingham nhận ra D' Artagnan ngay và ngờ rằng có chuyện gì đó xảy ra ở Pháp nên phải cho chàng mang tin đến, ông chỉ kịp hỏi người đưa tin đang ở đâu và từ xa đã nhận ra bộ đồng phục cận vệ, ông cho ngựa phi nước đại đến thẳng chỗ D' Artagnan. Patrítxơ cẩn thận đứng tránh ra.

- Hoàng hậu không gặp phải chuyện chẳng lành nào chứ? - Buckingham hỏi bằng tất cả nỗi nhớ mong và tình yêu của mình.

- Tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tôi tin bà đang gặp một mối nguy lớn mà chỉ có Đức ngài mới có thể giải thoát.

- Ta ư? - Buckingham hỏi - Thế nào nào? Ta sẽ rất sung sướng được có ích cho bà trong một việc nào đó! Nói đi nào! Nói đi?

- Ngài hãy xem bức thư này! - D' Artagnan nói.

- Bức thư này ư! Của ai gửi cho ta?

- Tôi nghĩ đó là của Hoàng hậu.

- Của Hoàng hậu! - Buckingham vừa nói vừa tái nhợt đi khủng khiếp, D' Artagnan tưởng ông ta sắp ngất.

Và ông ta bẻ xi niêm phong.

- Vết rách này là cái gì? - Ông ta vừa nói vừa chỉ cho D' Artagnan một chỗ thư bị xuyên thủng.

- À, à, - D' Artagnan nói - Tôi không để ý cái đó. Đó là vết mũi gươm của Bá tước De Wardes, rất đẹp khi đâm vào ngực tôi đấy!

- Ông bị thương à? - Buckingham vừa bẻ xi vừa hỏi.

- Ồ không sao? Một vết xước thôi.

- Trời, ta vừa đọc cái gì đây? - Công tước kêu lên - Patrítxơ hãy ở lại đây rồi xem nhà Vua ở đâu, đi theo và tâu với Hoàng thượng là ta cúi đầu van xin Ngài hãy tha thứ cho ta vì ta có việc tối quan trọng phải có mặt ở London - còn ông đi theo ta.

- Và cả hai cùng phi nước đại về kinh thành.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 21

Nữ bá tước De Winter

Suốt dọc đường, Công tước hỏi D' Artagnan để biết rõ tình hình, không phải tất cả những gì đã diễn ra, mà chỉ những gì D' Artagnan biết. Khớp nối những gì đã được nghe từ miệng chàng trai trẻ với những kỷ niệm của riêng ông, ông có thể có được một ý niệm khá chính xác về tình thế nghiêm trọng, hơn nữa, bức thư của Hoàng hậu dù rất ngắn, và không mấy dứt khoát, cũng cho ông thấy mức độ nghiêm trong đó. Nhưng điều khiến ông lấy làm lạ hơn cả là Giáo chủ vốn quan tâm làm sao để chàng trai trẻ này không đặt chân được trên đất Anh lại không sao bắt giữ nổi chàng ở dọc đường. Thấy ông tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, D' Artagnan liền kể hết đã phòng bị thế nào, rồi nhờ sự tận tâm của ba người bạn chàng tuy đang đẫm máu mà chàng vẫn phải bỏ mặc ở dọc đường, rồi việc chàng suýt đã lìa đời vì, mũi gươm đâm xuyên qua bì thư của Hoàng hậu, và chàng đã trả miếng Bá tước De Wardes khủng khiếp thế nào.

Chăm chú nghe câu chuyện được kể vô cùng đơn giản, thỉnh thoảng Công tước lại ngạc nhiên nhìn chàng trai trẻ như thể không tài nào hiểu nổi bấy nhiêu thận trọng, dũng cảm, tận tâm lại có thể sóng đôi với bộ mặt chưa đến hai mươi này.

Ngựa phi như gió, vài phút sau đã tới cửa ô London.

D' Artagnan vẫn tưởng là vào trong thành phố, Quận công sẽ cho ngựa chạy chậm dần, nhưng không phải thế, ông tiếp tục cho ngựa phi hết cỡ, chẳng quan tâm mấy đến chuyện có thể xô ngã những người đi đường. Quả nhiên, khi đi xuyên qua khu đô thị, hai ba tai nạn như thế đã xảy ra, mà Buckingham chẳng hề ngoái đầu lại xem những người bị ông xô ngã ra sao, D' Artagnan đi theo sau ông giữa những tiếng la ó nghe rất giống tiếng chửi rủa.

Vào đến sân dinh thự, ông xuống ngựa, ném dây cương lên cổ nó, để mặc nó rồi lao tới bậc thềm. D' Artagnan cũng làm theo như thế tuy nhiên có đôi chút ngại ngùng hơn đối với những con vật quý mà chàng đã biết nó đáng giá thế nào, nhưng rồi lại thấy không sao vì ba bốn người hầu đã từ trong bếp và chuồng ngựa lao ra túm ngay lấy mấy con ngựa.

Công tước đi khá nhanh khiến D' Artagnan khó theo kịp. Ông đi xuyên qua nhiều phòng khách kế tiếp nhau, rất sang trọng mà những đại lãnh chúa bên Pháp cũng không dám nghĩ tới cuối cùng đến một phòng ngủ, một kỳ tích cả về thẩm mỹ lẫn sự giàu sang. Sâu trong phòng có một cái cửa, phủ thảm, mà Công tước mở bằng một chìa khóa nhỏ bằng vàng ông vẫn đeo ở cổ bằng một sợi dây chuyền cũng bằng vàng. D' Artagnan cẩn thận dừng lại ở phía sau, nhưng lúc Buckingham bước qua ngưỡng cửa đó, ông quay lại thấy chàng trao trẻ vẫn do dự, ông bảo chàng:

- Lại đây nào, và nếu ông có vinh dự được bệ kiến Hoàng hậu, hãy nói lại cho bà nghe những gì ông thấy.

- Được lời mời khích lệ chàng đi theo Quận công. Ông đóng cửa lại.

Thế là hai người đã ở trong một tiểu giáo đường, phủ toàn lụa Ba Tư thêu sợi vàng, rực rỡ ánh sáng của vô số ngọn nến. Bên trên một thứ giống như bàn thờ, và phía dưới một chiếc tán bằng nhung xanh lam cắm lông chim trắng và đỏ, là một bức chân dung to bằng người thật vẽ Anne d' Autriche giống như đúc khiến D' Artagnan phải thốt lên kinh ngạc, tưởng như Hoàng hậu sắp nói thành lời.

Trên bàn thờ, và phía dưới bức chân dung là cái tráp chứa những nút kim cương.

Công tước lại gần bàn thờ, quỳ xuống như một linh mục quỳ trước chúa Kitô, rồi mở tráp.

- Ông lấy ra một nút tết to bằng dải băng xanh lóng lánh kim cương rồi bảo chàng:

- Cầm lấy, đây là những nút kim cương quý báu mà ta đã nguyền được chôn theo ta. Hoàng hậu đã tặng ta. Hoàng hậu lại lấy lại của ta. Nguyện vọng của Hoàng hậu là ý của Chúa, phải được thực hiện trong mọi việc.

Kồi ông hôn từng hạt, từng hạt một cả chuỗi nút kim cương sắp phải xa lìa. Bỗng nhiên ông kêu lên một tiếng khủng khiếp.

- Có chuyện gì vậy? - D' Artagnan hỏi vẻ lo lắng - Thưa Huân tước, có điều gì xảy ra với ngài ư?

Buckingham nhợt nhạt hẳn người đi như người đã khuất kêu lên:

- Hại to rồi - Thiếu hai hạt kim cương. Chỉ còn có mười hạt.

- Huân tước đánh mất hay bị lấy cắp?

- Họ lấy cắp của ta - Công tước nói tiếp - chính Giáo chủ đã chơi ta quả này. Đây, ông xem, dải băng giữ những nút kim cương có vết cắt bằng kéo.

- Nếu Huân tước nghi ngờ kẻ nào đó đánh cắp… có thể kẻ đó vẫn còn đang giữ nó.

- Khoan đã, khoan đã? - Công tước nói - Chỉ có mỗi một lần ta đeo chuỗi kim cương đó, đó là buổi vũ hội của nhà Vua, cách đây tám ngày ở điện Uyn-xo. Lúc khiêu vũ, nữ Bá tước De Winter, vốn có xích mích với ta đã lại gần ta, lối làm lành đó là sự trả thù của đàn bà ghen tuông. Từ hôm đó, ta không xem lại chuỗi hạt. Mụ đàn bà đó là một điệp viên của Giáo chủ.

- Nhưng ông ta có tay chân ở khắp thế giới ư! - D' Artagnan kêu lên.

- Ồ, đúng đấy! - Buckingham vừa nói vừa nghiến răng giận dữ - Phải, đó một đấu thủ ghê gớm. Nhưng khi nào thì có vũ hội đó?

- Thứ hai tuần sau.

- Thứ hai tuần sau ư! Còn năm ngày nữa. Thế là thừa thì giờ chúng ta phải có rồi. Patrítxơ! - Quận công vừa mở cửa tiểu giáo đường vừa gọi to - Patrítxơ!

Người hầu thân tín của ông xuất hiện.

- Gọi ngay người thợ kim hoàn và viên thư ký của ta!

- Người hầu phòng đi ra, tức khắc và lặng lẽ chứng tỏ thói quen co mình lại vâng lệnh một cách mù quáng và không cãi lại.

Mặc dầu người thợ kim hoàn được gọi trước, nhưng viên thư ký lại hiện ra trước tiên. Ông ta thấy Buckingham ngồi trước chiếc bàn trong phòng ngủ, tự tay viết lấy mấy cái lệnh.

- Ông Jécxơn này, Công tước nói - Ông hãy đến ngay chỗ Huân tước tổng trưởng pháp lý và bảo ông ta rằng ta ủy nhiệm thi hành mấy lệnh này. Ta muốn những lệnh đó được ban bố ngay tức khắc.

- Nhưng thưa Đức ông, nếu Huân tước tổng trưởng hỏi tôi về những động cơ khiến Đức ngài đi đến một biện pháp đặc biệt đến thế, tôi sẽ trả lời thế nào?

- Rằng ta thích như thế và ta chẳng cần báo cáo với ai ý muốn của ta.

Viên thư ký vừa đáp vừa mỉm cười:

- Liệu đấy có sẽ là câu trả lời của ngài tổng trưởng phải tâu lên Hoàng thượng không, nếu tình cờ Hoàng thượng tò mò muốn biết tại sao không một chiếc tàu nào có thể ra khỏi các cảng biển của Đại Anh quốc?

- Ông có lý - Buckingham trả lời - Trong trường hợp phải tâu với nhà Vua, ông ấy cứ nói là ta quyết định chiến tranh và biện pháp đó là hành động thù địch đầu tiên của ta chống lại nước Pháp.

Viên thư ký cúi chào và đi ra.

Buckingham quay lại phía D' Artagnan nói:

- Thế là chúng ta yên tâm được một bề rồi. Nếu mấy nút kim cương đó chưa hề đến Paris, nó sẽ chỉ đến đó sau ông.

- Làm sao lại thế được?

- Ta vừa ra lệnh cấm các tàu thuyền lúc này đang đậu ở các hải cảng của Hoàng thượng không được rời bến và trừ phi có giấy phép đặc biệt, không một chiếc nào dám nhổ neo.

D' Artagnan vô cùng kinh ngạc nhìn con người đã đem cái quyền lực vô hạn mà nhà Vua đã tin cậy trao cho, phục vụ cho những việc tình ái của mình. Buckingham nhìn nét mặt của chàng trai trẻ, biết được điều gì đang diễn ra trong đầu, liền mỉm cười:

- Phải, chính Anne d' Autriche mới là Hoàng hậu đích thực của ta. Một lời nàng nói ra, ta sẽ có thể phản bội lại đất nước ta, phản bội nhà Vua, phản bội lại Chúa trời của ta. Nàng đã yêu cầu ta đừng gửi cứu viện cho giáo phái Tin lành ở La Rochelle và ta đã làm như thế. Ta đã không giữ lời hứa, nhưng cần gì, ta vâng theo ước muốn của nàng. Ta đã chẳng được trả công lớn về sự vâng theo ấy sao, nói xem nào, bởi vì chính nhờ có sự vâng theo đó mà ta có được bức chân dung của nàng?

D' Artagnan lấy làm lạ thay cho vận mệnh một dân tộc và sinh mạng những con người đôi khi lại được treo trên những sợi dây mong manh và không thấy được như thế.

Chàng đang đắm nhìn trong suy nghĩ, thì người thợ kim hoàn đi vào. Đó là một người Ireland loại có kỹ xảo nhất trong nghề, bản thân cũng thú nhận kiếm được hàng trăm nghìn đồng vàng Anh quốc mỗi năm với Quận công De Buckingham.

- Ông Ôrâyly này, - Quận công vừa nói vừa dẫn ông ta vào tiểu giáo đường - Hãy xem những nút kim cương này và nói cho ta biết mỗi nút giá bao nhiêu?

- Người thợ kim hoàn đưa mắt nhìn vẻ mỹ lệ mà chúng được gọt tỉa, lấy viên nọ bù viên kia, tính toán giá trị rồi không do dự trả lời:

- Mười lăm nghìn đồng vàng một nút, thưa Huân tước.

- Cần phải bao nhiêu ngày để làm hai nút như thế? Ông thấy đấy, nó thiếu mất hai.

- Thưa Huân tước, tám ngày.

- Ngày kia ta cần có rồi, ta sẽ trả ba nghìn đồng mỗi nút.

- Huân tước sẽ có.

- Ôi ông Ôrâyly, ông thật là quý giá. Nhưng chưa hết đâu. Những nút kim cương đó không được lộ ra với bất kỳ ai, và phải được làm trong lâu đài này.

- Thưa Huân tước, không thể được. Chỉ có tôi mới có thể làm nổi, để không ai phân biệt nổi cái mới với cái cũ.

- Vì thế, ông Ôrâyly thân mến ạ, ông mới là tù nhân của ta; Giờ đây, ông có muốn ra khỏi lâu đài của ta cũng không thề được nữa rồi. Hãy quyết định đi. Cho ta biết danh sách thợ phụ mà ông cần và ghi rõ những đồ nghề gì bọn chúng phải mang theo.

Người thợ kim hoàn đã biết rõ Quận công. Ông ta hiểu rằng mọi thăm dò ý kiến đều vô ích, nên quyết định ngay phần việc của mình. Ông ta hỏi:

- Tôi được phép báo với vợ tôi chứ?

- Ồ, ông còn được phép gặp nữa ấy chữ, ông Ôrâyly thân mến ạ Việc cầm giữ ông sẽ nhẹ nhàng thôi, ông yên tâm, và vì mọi sự đảo lộn đều đáng được đền bù, vậy ngoài giá tiền hai nút kim cương, đây là món quà một nghìn đồng vàng để ông quên đi sự phiền muộn do ta gây ra cho ông.

D' Artagnan không tránh khỏi ngạc nhiên về viên Thủ tướng với đôi tay đã khuấy đảo bao nhiêu sinh mạng con người, và tiền triệu đi tong.

Còn người thợ kim hoàn gửi món quà một nghìn đồng vàng và viết thư cho vợ bảo gửi ngay cho người thợ phụ khéo nhất và một bộ hạt kim cương thích hợp mà ông đã cho biết trọng lượng, phẩm chất, rồi còn danh sách những dụng cụ cần thiết nữa.

Buckingham dẫn người thợ kim hoàn vào căn phong dành riêng cho ông ta và chỉ trong vòng nửa giờ đã biến thành một xưởng thợ. Rồi Công tước cắt lính canh ở mỗi cửa, cấm không cho bất cứ ai vào trừ người hầu phòng Patrítxơ của ông. Không cần phải nói thêm cũng tuyệt đối cấm ông thợ kim hoàn Ôrâyly và người thợ phụ không được ra khỏi phòng dưới bất cứ lý do nào.

Thu xếp xong việc đó, Công tước trở lại với D' Artagnan.

- Bây giờ, anh bạn trẻ, - Ông nói - nước Anh là của hai chúng ta, ông muốn gì, ông ao ước điều gì nào?

- Một cái giường - D' Artagnan trả lời - tôi thú thực, lúc này đó là thứ tôi cần nhất.

Buckingham đưa D' Artagnan đến một căn phòng liền kề với phòng của ông. Ông muốn giữ chàng trai trẻ trong tay ông, không phải ông nghi ngờ gì chàng mà để ông được không ngừng nói chuyện với chàng về Hoàng hậu.

Một giờ sau lệnh không cho tàu thuyền nào đi Pháp được ra khỏi cảng ngay cả thuyền đưa thư cũng vậy được ban bố. Trước mắt mọi người thì đây là lời tuyên chiến giữa hai vương quốc.

Ngày hôm sau nữa, khoảng mười một giờ hai nút kim cương đã được làm xong, bắt chước quá đúng, hoàn toàn giống hệt khiến Buckingham không nhận ra cái nào là mới, cái nào là cũ và kể cả những người lão luyện nhất trong nghề cũng sẽ bị nhầm như ông.

Ngay lập tức ông cho gọi D' Artagnan, rồi bảo chàng:

- Cầm lấy, đây là những nút kim cương mà ông đến tìm, và ông hãy là nhân chứng cho tôi rằng tất cả những gì sức con người có thể làm được tôi đã làm.

- Ngài yên tâm, thưa Huân tước, tôi sẽ nói điều gì tôi thấy nhưng Đức ngài trao cho tôi những nút kim cương mà không có tráp đựng.

- Cái tráp sẽ làm cho ông vướng víu. Vả lại đối với tôi, cái tráp còn quý hơn. Tôi chỉ còn lại mỗi thứ đó. Ông sẽ nói là tôi giữ lại.

- Thưa Huân tước, tôi sẽ nói lại đúng từng lời việc ngài giao cho tôi.

- Và bây giờ - Buckingham vừa nói tiếp vừa nhìn thẳng vào mặt chàng trai trẻ - Bao giờ tôi mới trả ơn được ông đây?

D' Artagnan đỏ bừng mặt lên. Chàng thấy ông Quận công đang tìm cách để chàng nhận một thứ gi đó và cái ý nghĩ máu các đồng đội của chàng và máu chàng sắp được trả cho chàng bằng vàng của nước Anh khiến chàng ghê tởm lạ lùng. Chàng đáp:

- Thưa Huân tước, chúng ta hãy thông hiểu lẫn nhau, và cân nhắc kỹ mọi việc trước đã sao cho không có một sự hiểu lầm nào xảy ra. Tôi phục vụ đức Vua và Hoàng hậu nước Pháp, và tham gia đội cận vệ của ông des Essarts, ông này cũng như anh rể ông là ông De Treville hoàn toàn đặc biệt gắn bó với Hoàng thượng. Còn thêm nữa, có thể tôi đã chẳng làm nổi điều gì của tất cả cái đó nếu việc đó không được làm để vừa lòng một người cũng là bà chúa của tôi, giống như Hoàng hậu là của ngài vậy.

- Phải - Quận công vừa nói vừa mỉm cười - và tôi tin tôi cũng biết cái bà chúa khác ấy, có phải…

- Thưa Huân tước, tôi có nêu tên người ấy ra đâu - chàng trai trẻ vội vã ngắt lời.

- Thế là đúng - Công tước nói - vậy chính là tôi phải biết ơn người ấy về sự tận tụy của ông.

- Thưa Huân tước, ngài đã nói rồi, bởi vì đúng vào cái giờ này đã là chuyện chiến tranh rồi, tôi xin thú thực tôi chỉ thấy ở Đức ngài một tên người Anh, do đó là một kẻ thù mà tôi sẽ còn vui sướng được gặp ở chiến trường hơn là trong công viên điện Uynxo hoặc trong những hành cung của điện Louvre. Tuy nhiên điều đó không ngăn cản tôi thực hiện từng chi tiết, nhiệm vụ của tôi, nếu cần thiết, sẵn sàng chết để hoàn thành nhiệm vụ đó Nhưng tôi xin nhắc lại với Đức ngài rằng ngài sẽ không có gì phải cảm ơn tôi những việc tôi sẽ làm cho tôi trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai hơn là những gì tôi đã làm cho ngài trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất đâu.

Buckingham lẩm nhẩm:

- Bên chúng tôi, chúng tôi thường nói: "Kiêu hãnh như một người Xcốt".

- Còn chúng tôi, chúng tôi nói: "Kiêu hãnh như một người Gátxcông" - D' Artagnan đáp - Dân Gátxcông là dân Xcốt của nước Pháp.

D' Artagnan chào Công tước và sẵn sàng ra đi.

- Khoan đã! Ông đi như thế ư? Đi lối nào? Đi thế nào?

- Vâng, quả có thế.

- Chúa ơi! Người Pháp không nghi ngại gì hết.

- Tôi quên mất nước Anh là một hòn đảo và Ngài là vua hòn đảo ấy ông hãy đi đến cảng, hỏi chiếc thuyền hai buồm tên là "Săn", đưa cho thuyền trưởng thư này. Ông ta sẽ dẫn ông đến một cảng nhỏ, chắc người ta không đợi ông đâu, và ở đó thường chỉ có thuyền đánh cá cặp bến.

- Cảng đó tên là gì?

- Saint-Valery, nhưng khoan đã, tới đó, ông sẽ vào một cái quán tồi tàn không tên, không biển hiệu, một tửu quán đích thực của thủy thủ, và không lo nhầm đâu, vì chỉ có một thôi.

- Sau đó?

- Ông hỏi chủ quán và bảo hắn ta: Forward

- Nghĩa là thế nào?

- Là "Tiến lên". Đó là khẩu lệnh. Hắn sẽ cho ông một con ngựa, yên cương sẵn sàng và sẽ chỉ dẫn đường đi cho ông. Ông cũng sẽ thấy bốn trạm tiếp sức như thế trên đường đi. Nếu ông muốn, ở mỗi trạm, hãy cho địa chỉ của ông ở Paris, bốn con ngựa sẽ đi theo ông đến đó. Ông đã biết hai trong số đó, và tôi thấy hình như ông có vẻ quý nó như một tay chơi ngựa, hai con mà chúng ta đã cưỡi ấy. Và ông hãy tin tôi, hai con kia cũng không hề kém chút nào đâu. Bốn con ngựa ấy đều là ngựa chiến đấy. Dù ông có kiêu hãnh đến đâu, ông cũng đừng từ chối nhận một con, và bảo các bạn ông nhận ba con kia. Vả lại còn để ta dùng trong chiến tranh mà. Mục đích bỏ qua cho các phương tiện như người Pháp các ông vẫn nói có phải không?

- Phải, thưa Huân tước, tôi xin nhận - D' Artagnan nói - Và nếu hợp lòng trời, chúng tôi sẽ sử dụng tất những món quà của ngài.

- Bây giờ, bắt tay người bạn trẻ, có thể chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau trên chiến trường, nay trong khi chờ đợi, chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn tốt, tôi hy vọng thế.

- Vâng, thưa Huân tước, nhưng với hy vọng sớm thành kẻ thù của nhau.

- Ông yên tâm, tôi hứa với ông như vậy.

- Huân tước, tôi tin lời hứa của ngài.

D' Artagnan chào công tước và vội vã tiến về phía cảng.

Trước mặt tháp London, chàng thấy chiếc thuyền đã chỉ định. Chàng trao bức thư cho viên thuyền trưởng. Ông ta đưa cho trấn thủ cảng xác nhận, rồi chuẩn bị giương buồm.

Năm mươi thuyền bè muốn rời bến mà phải nằm chờ.

Khi đi qua mạn một con thuyền trong số đó, D' Artagnan tin là mình đã nhận ra người đàn bà ở Măng, vẫn người đàn bà mà con người xa lạ từng gọi là Milady và chính bản thân D' Artagnan cũng thấy nàng quá đẹp. Nhưng nhờ xuôi dòng, thuận gió con thuyền của chàng đi nhanh đến nỗi chỉ một lát sau đã không thấy tăm hơi của người đàn bà đó.

Hôm sau, khoảng chín giờ sáng, thuyền cập bến Saint-Valery.

D' Artagnan đi ngay tới cái quán đã chỉ dẫn và nhận ra qua những tiếng ầm ĩ từ bên trong thoát ra. Người ta đang nói về chiến tranh giữa nước Anh và nước Pháp sắp xảy ra đến nơi và không phải bàn cãi nữa, và bọn thủy thủ vui vẻ thì lu bù chè chén.

D' Artagnan rẽ đám đông tiến lại chủ quán và đọc Forward.

Ngay tức khắc chủ quán ra hiệu cho chàng đi theo mình qua một chiếc cửa ra sân rồi dẫn chàng đến chuồng ngựa đã có sẵn một con ngựa yên cương đầy đủ đợi chàng rồi chủ quán hỏi xem liệu chàng có cần gì nữa không.

- Tôi cần biết mình phải đi theo đường nào - D' Artagnan - Từ đây đi đến Blănggy, rồi từ Blănggy đến Nớpsaten đến Nớpsaten vào quán Chiếc bừa vàng, nói khẩu lệnh với chủ quán và ông sẽ thấy ở đó một con ngựa đầy đủ yên cương.

- Tôi có phải gì không? - D' Artagnan hỏi.

- Đã trả cả rồi - chủ quán nói - và trả hậu nữa. Ông cứ việc đi đi Cầu trời phù hộ cho ông!

- Amen!

Nói rồi chàng cho ngựa phi nước đại.

Bốn giờ sau chàng tới Nớpsaten. Tuân theo chặt chẽ những chỉ dẫn đã nhận được, ở Nớpsaten giống như ở Saint-Valery, chàng lại thấy một con ngựa yên cương sẵn sàng đang đợi mình.

Chàng định chuyển những khẩu súng ngắn từ yên con ngựa chàng thôi không cưỡi sang yên con ngựa mới chàng sắp cưỡi, nhưng những bao súng ở yên con ngựa này đã gài sẵn những khẩu súng ngắn tương tự.

- Địa chỉ của ông ở Paris?

- Dinh trại quân cận vệ, đại đội ông des Essarts.

- Tốt lắm - chủ quán trả lời.

- Bây giờ phải đi đường nào? - Đến lượt D' Artagnan hỏi lại.

- Đường đi Ruăng, nhưng đừng có đi qua thành phố ở phía bên phải. Đến cái làng nhỏ Ecu-i, ông dừng lại, ở đó chỉ có một cái quán tên là: Đồng vàng nước Pháp. Đừng có nhìn bề ngoài mà xét đoán nó. Trong chuồng ngựa của quán, cũng sẽ có một con ngựa giá trị tương đương con ngựa này.

- Vẫn khẩu lệnh ấy.

- Đúng vậy.

- Xin chào ông chủ?

- Chúc nhà quý tộc lên đường bình an! À mà ông còn cần gì nữa không.

D' Artagnan lắc đầu và lại phóng như bay. Đến Ecu-i, vẫn diễn lại cảnh ấy. Chàng lại gặp một chủ quán đã được báo trước.

Một con ngựa sung sức và được nghỉ ngơi. Chàng để lại địa chỉ như đã làm rồi lại phi nhanh đến Pôngtoa. Ở Pôngtoa chàng đổi ngựa lần cuối và vào lúc chín giờ chàng phi nước đại vào thẳng sân dinh quán ông De Treville, vậy là chàng đã đi gần sáu mươi dặm trong mười hai tiếng đồng hồ.

Ông De Treville đón chàng như thể vừa gặp chàng ban sáng.

- Có điều vừa siết tay chàng hơi mạnh hơn thường lệ, ông vừa báo cho chàng biết đại đội cận vệ của ông des Essarts đang tuần canh điện Louvre và chàng có thể trở về nhiệm sở của mình.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 22

Vũ khúc Merlaison(1).

Hôm sau, người ta xôn xao bàn tán khắp Paris về vũ hội mà các vị thẩm phán thành phố tổ chức để tôn vinh nhà Vua và Hoàng hậu, trong đó chắc Louis sẽ nhảy vũ điệu nổi tiếng Méeledông, là vũ điệu ưa thích của nhà Vua.

- Người ta đã chuẩn bị từ tám hôm nay mọi công việc ở tòa thị chính cho buổi dạ hội long trọng đó. Thợ mộc của thành phố đã dựng những kỳ đài làm chỗ ngồi cho các phu nhân được mời.

Chủ tạp hóa thành phố đã gắn trong các phòng hai trăm cây nến trắng, một sự xa hoa hiếm thấy thời bấy giờ. Cuối cùng là hai mươi cây vĩ cầm được báo trước và giá công được ấn định gấp đôi giá ngày thường vì họ sẽ phải chơi suốt đêm.

Khoảng mười giờ sáng, ông De la Côtx kỳ úy đội cận vệ của nhà Vua, theo sau có hai sĩ quan và nhiều xạ thủ của đội, đến yêu cầu ông lục sự thành phố tên là Clêmăng đưa tất cả chìa khóa các cửa, các phòng, và các phòng làm việc của thị sảnh.

Chìa khóa được trao ngay cho ông ta, mỗi chiếc đều mang theo một thẻ nhỏ để khỏi nhầm và từ lúc đó ông De la Côtx chịu trách nhiệm canh phòng tất cả các cửa và tất cả các lối đi trong thị sảnh.

Mười một giờ, đến lượt ông Đuyhaliê, đại úy cận vệ đến, đem theo năm mươi xạ thủ, bọn họ tản ngay đến các cửa đã được chỉ định trong tòa thị chính.

Ba giờ chiều, hai đại đội cận vệ, một người Pháp, một Thụy Sĩ đến tiếp. Đại đội cận vệ Pháp được hợp thành, một nửa từ những quân của ông Đuyhaliê, một nửa là của ông des Essarts.

Sáu giờ chiều, khách mời bắt đầu kéo đến. Vào đến đâu, khách được mời ngồi đến đấy trên kỳ đài đã được dựng trong đại sảnh đường.

Chín giờ, bà đệ nhất chủ tọa đến. Vì sau Hoàng hậu, đó là nhân vật quan trọng nhất của vũ hội, bà ta được các quan chức của thành phố đón tiếp và được mời ngồi trong khoang đối diện với khoang của Hoàng hậu.

Mười giờ, người ta bầy một tiệc mứt để đón tiếp đức Vua trong một phòng nhỏ phía nhà thờ Thánh Jăng, trước một tủ đựng các bộ đồ ăn bằng bạc, và được bốn xạ thủ bảo vệ.

- Đúng nửa đêm, người ta nghe thấy những tiếng reo lớn, và những tiếng tung hô, đó là lúc nhà Vua đang tiến qua các phố rực rỡ những đèn màu suốt từ điện Louvre đến tòa thị chính.

Ngay tức khắc, các viên thẩm phán trong những chiếc áo dài bằng da, đi trước là sáu viên đội, mỗi người một đèn lồng trong tay ra đón Nhà Vua, mà họ gặp ngay trên những bậc thềm, ở đó viên thị trưởng thành phố đang đọc diễn văn chúc mừng nhà Vua, còn nhà Vua đáp lại bằng việc cáo lỗi đã đến quá muộn nhưng lại gán cho Giáo chủ đã giữ nhà Vua lại tận mười một giờ để bàn luận công việc quốc gia.

Nhà vua mặc lễ phục, tháp tùng có Đức ông hoàng đế, Bá tước de Xoát xông, đại giáo trường, Quận công Lôngdơvin, Quận công Đenbớp, Bá tước de Hácua, Bá tước de la Rấtsơ Guyông, ông De Lăngcua, ông De Barađát, Bá tước de Cramay, và hiệp sĩ Đờxúvơray.

Mọi người đều nhận thấy nhà Vua có vẻ rầu rĩ và băn khoăn.

Một căn phòng đã được chuẩn bị riêng cho nhà Vua, và một phòng khác cho Hoàng đế. Trong mỗi phòng đó, đều để sẵn y phục giả trang. Cũng như thế cho Hoàng hậu và phu nhân chủ tọa. Các vị đại thần và các phu nhân hộ giá Hoàng thượng thì cứ hai người một thay đồ giả trang các phòng chuẩn bị cho việc đó.

Trước khi vào phòng, nhà Vua dặn khi nào Giáo chủ xuất hiện phải báo ngay cho nhà Vua biết.

Nửa giờ sau khi nhà Vua đi vào, những tiếng tung hô mới lại vang lên báo tin Hoàng hậu đến. Các thẩm phán lại ra đón như đã làm, đi trước cũng là những viên đội, họ tiến đến trước vị nữ khách lừng danh của họ.

Hoàng hậu bước vào đại sảnh. Người ta nhận thấy, giống như nhà Vua, bà có vẻ rầu rĩ và rất là mệt mỏi.

Đúng lúc bà bước vào, tấm rèm của một khán đài nhỏ cho đến lúc đó vẫn buông kín được mở ra và người ta thấy hiện ra bộ mặt xanh xao của Giáo chủ mặc theo lối kỵ sĩ Tây Ban Nha. Đôi mắt của ông ta xoáy vào đôi mắt của Hoàng hậu, và một nụ cười mừng vui khủng khiếp lướt trên đôi môi ông ta: Hoàng hậu không đeo chuỗi kim cương.

Hoàng hậu lưu lại ít phút để nhận những lời chúc tụng của quan chức thành phố và đáp lại sự chào đón của các phu nhân.

Bất thình lình nhà Vua cùng với Giáo chủ hiện ra ở một chiếc cửa của đại sảnh đường. Giáo chủ nói rất khẽ với nhà Vua, và nhà Vua tái nhợt đi.

Nhà Vua rẽ đám đông và, chưa đeo mặt nạ, những dải băng ở áo chẽn còn chưa buộc chặt, tiến lại gần Hoàng hậu, lạc hẳn giọng đi:

- Thưa bà, xin bà vui lòng, vậy chớ tại sao bà lại không đeo chuỗi hạt kim cương, khi bà biết nó sẽ làm ta vui lòng khi nhìn thấy nó?

- Tâu hoàng thượng - Hoàng hậu trả lời giọng cũng lạc đi - bởi giữa đám rất đông người này, tôi sợ có chuyện không may xảy ra với nó.

- Thế thì bà nhầm rồi, thưa bà! Nếu như tôi tặng bà món quà đó, chính là để bà đem ra trang điểm. Tôi nói cho bà biết, bà nhầm rồi.

Và giọng của nhà Vua run lên tức giận, ai nấy đều nhìn và nghe rất đỗi ngạc nhiên không hiểu đã xảy ra chuyện gì.

- Tâu Hoàng thượng - Hoàng hậu nói - Tôi có thể sai người về tìm ở điện Louvre, nó vẫn ở đấy, và như vậy những ước muốn của Hoàng thượng sẽ được hoàn tất.

- Vậy bà làm đi, thưa bà, làm đi, và nhanh nhanh lên, vì nửa giờ nữa là vũ hội bắt đầu rồi.

Hoàng hậu cúi chào tỏ vẻ phục tùng và đi theo các phu nhân có nhiệm vụ dẫn bà về phòng riêng.

Về phía mình, nhà Vua cũng trở về phòng mình.

Đại sảnh rối loạn, xôn xao mất một lúc.

Mọi người đều có thể nhận thấy có chuyện gì xảy ra giữa nhà Vua và Hoàng hậu. Nhưng cả hai đều nói rất khẽ mà mọi người do tôn kính đều đứng xa ra mấy bước, nên không ai nghe thấy gì. Vĩ cầm vang lên hết cỡ nhưng cũng chẳng ai nghe.

Nhà Vua ra khỏi phòng mình trước tiên, trong trang phục đi săn loại hào hoa nhất, Hoàng đế và các vị đại thần khác đều mặc như nhà Vua. Đó là bộ trang phục nhà Vua mặc đẹp nhất và mặc như vậy, ông hình như mới đích thực là nhà quý tộc đệ nhất của vương quốc.

Giáo chủ lại gần và chuyển cho nhà Vua một cái hộp. Nhà Vua mở ra và thấy trong đó hai nút kim cương liền hỏi Giáo chủ:

- Thế nghĩa là thế nào?

- Không thế nào cả - Giáo chủ trả lời - có điều nếu Hoàng hậu có những nút kim cương, điều thần đang ngờ đấy, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng hãy đếm xem, và nếu Ngài chỉ thấy có mười viên, xin hãy hỏi Hoàng hậu xem kẻ nào có thể lấy cắp mất hai nút như thế này.

Nhà Vua nhìn Giáo chủ như để hỏi. Nhưng ông còn chưa kịp hỏi một câu nào, thì tiếng kêu ngưỡng mộ đã thốt ra từ miệng tất cả mọi người. Nếu như nhà Vua là bậc quý tộc đệ nhất vương quốc, chắc chắn Hoàng hậu phải là người đàn bà đẹp nhất nước Pháp.

Đúng là bộ y phục nữ đi săn rất hợp với nàng. Nàng đội một chiếc mũ dạ với những lông chim xanh lam, một áo khoác ngoài nhung màu xám có cài những móc kim cương và một chiếc váy bằng xa tanh xanh lam toàn thêu sợi bạc, trên vai trái nàng lấp lánh những nút kim cương được đính vào một cái nơ cùng màu với lông chim và chiếc váy.

Nhà Vua sướng run người, còn Giáo chủ run lên vì giận dữ, tuy nhiên vì cả hai người cùng đứng cách xa Hoàng hậu nên không thể đếm được số nút kim cương. Hoàng hậu đã có những nút kim cương ấy, có điều là có mười hay mười hai nút.

Cũng lúc ấy, vĩ cầm vang lên tín hiệu bắt đầu vũ khúc. Nhà Vua tiến về phía phu nhân chủ tọa và phải nhảy với bà và Hoàng đế với Hoàng hậu. Mọi người đều vào chỗ và vũ khúc bắt đầu Nhà Vua nhảy đối diện với Hoàng hậu, và mỗi lần ông lướt qua gần nàng, Ngài lại hau háu nhìn những nút kim cương mà không đếm nổi. Một lớp mồ hôi lạnh toát ra tên trán Giáo chủ.

Vũ điệu kéo dài một giờ, gồm mười sáu chuyển đoạn động tác múa.

Vũ điệu kết thúc giữa những tiếng vỗ tay hoan hô của khắp mọi người trong đại sảnh, mỗi người đều đưa quý bà nhảy với mình về chỗ, nhưng nhà Vua ỷ vào đặc quyền của mình, bỏ bà chủ tọa ngay tại chỗ để tiến nhanh lại phía Hoàng hậu, và nói với nàng:

- Thưa bà, tôi xin cảm ơn bà, về sự tôn trọng mà bà đã biểu lộ trước những ý muốn của tôi, nhưng tôi tin bà thiếu mất hai nút kim cương, mà tôi đã mang đến đây.

Vừa nói, nhà Vua vừa chìa ra cho Hoàng hậu hai nút kim cương mà Giáo chủ đã đưa cho mình.

- Tâu Bệ hạ, lại thế nữa sao! - Hoàng hậu giả vờ ngạc nhiên kêu lên - Bệ hạ lại cho thêm hai hạt nữa, thế là bây giờ tôi sẽ có những mười bốn viên ư?

Nhà Vua đếm, quả nhiên mười hai nút kim cương vẫn trên vai Hoàng hậu.

Nhà Vua gọi Giáo chủ và hỏi bâng một giọng nghiêm khắc:

- Thế nào? Thế này, nghĩa là thế nào, ông Giáo chủ?

- Tâu Bệ hạ, - Giáo chủ đáp - thế nghĩa là thần muốn Hoàng hậu nhận hai viên kim cương đó, nhưng tự mình lại không dám dâng lên, thần phải dùng cách ấy.

- Thế thì tôi lại càng phải chịu ơn Đức ông hơn – Anne d' Autriche trả lời bằng một nụ cười chứng tỏ cái lối nịnh đầm tiểu xảo ấy không lừa được nàng - và tôi tin chắc rằng hai nút kim cương này ông phải trả đắt bằng cả mười hai nút kim cương kia mà Hoàng thượng phải trả đấy.

Rồi chào nhà Vua và Giáo chủ, Hoàng hậu trở về căn phòng mà nàng đã mặc giả trang và là nơi nàng phải cởi bỏ.

Chúng tôi buộc phải lưu tâm tới những nhân vật danh tiếng chúng tôi đưa vào ngay từ đầu chương này nên phải tạm xa nhân vật đã giúp Anne d' Autriche vừa giành được thắng lợi không ngờ đối với Giáo chủ, người này hiện đang lẫn vào, không ai biết tới và lạc lõng trong đám đông ùn lại ở một cối cửa, đang nhìn màn kịch chỉ có bốn người hiểu nổi là nhà Vua, Hoàng hậu, Giáo chủ và chính nhân vật đó.

Hoàng hậu vừa trở về phòng, và D' Artagnan chuẩn bị rút lui thì chàng cảm thấy có ai đó đụng nhẹ vào vai chàng. Chàng quay lại thấy một thiếu phụ ra hiệu đi theo nàng. Thiếu phụ đeo mặt nạ chó sói bằng nhung đen, nhưng mặc dầu đã cẩn thận như vậy, vả chăng cũng là để che mắt người khác đâu phải với chàng, chàng nhận ra ngay người dẫn đường mọi khi của chàng, bà Bonacieux khôn ngoan và yêu kiều.

Đêm trước, họ mới chỉ được thoáng gặp nhau một lát tại nhà một người Thụy Sĩ tên là Germain, mà D' Artagnan đã yêu cầu nàng đến gặp ở đó. Thiếu phụ quýnh lên vội mang về cho Hoàng hậu cái tin tuyệt diệu là sứ giả của bà đã trở về may mắn, khiến cho đôi tình nhân chỉ kịp trao đổi được vài lời. D' Artagnan đi theo bà Bonacieux bởi hai thứ tình cảm gộp lại thúc đẩy tình yêu và sự hiếu kỳ. Suốt dọc đường, mỗi lúc những hành lang càng trở nên vắng vẻ, D' Artagnan định ngăn nàng lại để ôm chặt nàng, ngắm nghía nàng dù chỉ trong giây phút, nhưng thoăn thoắt như một cánh chim, nàng luôn trườn khỏi hai tay chàng, và khi chàng định nói, nàng lại đưa ngón tay lên miệng, một điệu bộ nhẹ nhàng đầy duyên dáng ra lệnh cấm chàng không được nói, và nhắc cho chàng biết đclng dưới một uy quyền phải nhắm mắt tuân theo, và cấm chàng không được thốt ra bất cứ một lời phàn nàn nhỏ nào. Cuối cùng, sau vài phút vòng đi vòng lại, bà Bonacieux mở một chiếc cửa dẫn chàng vào một căn phòng tối om, ở đây nàng lại ra hiệu phải ngậm miệng và mở chiếc cửa thứ hai lấp sau một tấm thảm, bất ngờ một vầng sáng chói tỏa ra và nàng biến mất.

D' Artagnan đứng ngây ra một lúc và tự hỏi mình đang ở đâu thế này, nhưng rồi một tia sáng từ phòng bên lọt sang, hơi ấm và thơm phức tỏa đến tận chỗ chàng, tiếng mấy người đàn bà đang trò chuyện, lời lẽ vừa trang nhã, vừa tôn kính, tiếng Đức bà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chỉ rõ cho chàng thấy mình đang trong căn phòng liền kề với phòng Hoàng hậu.

Chàng trai đứng yên trong bóng tối và chờ đợi.

Hoàng hậu tỏ ra vui vẻ và sung sướng, hình như khiến mọi người xung quanh nàng rất đỗi ngạc nhiên, vì trái lại mọi khi thường thấy nàng hầu như luôn luôn lo lắng. Hoàng hậu trả lại hết cái tình cảm vui mừng đó cho vẻ mỹ lệ của đêm hội, cho niềm vui mà vũ điệu đem lại cho nàng, và do không được phép trái ý một bà hoàng, dù bà ta cười hay khóc, mọi người đều cường điệu thêm sự phong nhã của các viên thẩm phán thành Paris.

Dù D' Artagnan còn chưa quen biết gì Hoàng hậu, chàng phân biệt được ngay giọng nói Hoàng hậu với giọng những người khác, trước hết đó là hơi pha giọng nước ngoài, thêm nữa là cái vẻ bề trên tự nhiên in đậm trong mọi lời lẽ của bậc tối thượng.

Chàng nghe thấy tiếng lại gần rồi lại xa ra khỏi chiếc cửa mở, hai ba lần chàng trông thấy vẫn chiếc bóng của thân hình ấy che khuất ánh sáng.

Cuối cùng, bất ngờ một bàn tay và một cánh tay trắng muốt và tuyệt đẹp vén tấm thảm lên, D' Artagnan hiểu đây chính là phần thưởng cho chàng. Chàng quỳ xuống, nắm lấy bàn tay ấy và kính cẩn áp môi lên, rồi bàn tay rút lại, để lại trong hai bàn tay chàng một vật chàng nhận ra là một chiếc nhẫn, lập tức cửa đóng lại và D' Artagnan lại thấy mình hoàn toàn trong bóng tối.

D' Artagnan đeo chiếc nhẫn vào ngón tay chàng và lại đợi.

Rõ ràng mọi chuyện chưa phải đã xong. Sau phần thưởng về lòng tận tụy của chàng phải là phần thưởng của tình yêu. Vả lại vũ điệu đã nhảy rồi, nhưng dạ hội mới chỉ bắt đầu. Người ta ăn đêm vào lúc ba giờ, mà đồng hồ nhà thờ Thánh Jăng chỉ vừa mới điểm hai giờ bốn nhăm phút.

Quả nhiên, tiếng người thưa dần trong phòng bên, và xa dần, rồi cửa phòng D' Artagnan đang đứng lại mở ra và bà Bonacieux lao vào. D' Artagnan kêu lên:

- Cuối cùng, nàng đây rồi!

- Im nào! - Thiếu phụ áp bàn tay lên môi chàng - Im nào! Và bây giờ chàng hãy đi đi, đi theo lối chàng đến ấy.

- Nhưng ở đâu và khi nào chúng ta lại gặp nhau?

- Một thư ngắn mà chàng sẽ thấy khi trở về nhà sẽ cho chàng biết điều đó. Đi đi! Chàng đi đi?

Nói xong, nàng mở chiếc cửa thông ra hành lang và đẩy D' Artagnan ra khỏi phòng.

D' Artagnan vâng lời như một đứa trẻ, không kháng cự, không cãi lại câu nào, điều đó chứng tỏ chàng thực sự đang yêu say đắm.

Chú thích:
(1) Merlaison - từ chữ Merle (con chim sáo đen) - Vũ khúc với chủ đề săn chim sáo đen do vua Louis XIII soạn năm 1635.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 23

Cuộc hẹn hò.

D' Artagnan tức tốc chạy về nhà, và cho dù hơn ba giờ sáng lại phải đi xuyên qua những khu phố dữ tợn nhất của Paris, chàng cũng không gặp phải chuyện rủi ro nào. Người ta nói có một vị thần cho những kẻ yêu đương.

Chàng thấy cửa lối đi để ngỏ, liền leo thẳng lên cầu thang và gõ nhẹ và đúng lối theo quy ước giữa chàng và người hầu của mình. Planchet, hai giờ trước ở tòa thị chính, chàng đã cho về trước và dặn đợi mình, ra mở cửa. Chàng vội hỏi:

- Có ai mang thư đến cho ta không?

- Chả có ai mang thư đến cả - Planchet trả lời - nhưng có một thư tự nó đến một mình thôi.

- Mi muốn nói gì, đồ ngốc?

- Tôi muốn nói, lúc trở về, mặc dù chìa khóa phòng ông vẫn trong túi tôi, và không rời khỏi tôi lúc nào, tôi vẫn thấy một bức thư trên tấm thảm xanh trên bàn trong phòng ngủ của ông.

- Bức thư ấy đâu rồi?

- Thưa ông đâu vẫn đó. Những bức thư vào nhà người ta như thế không phải chuyện bình thường đâu. Nếu cửa sổ vẫn mở hoặc chỉ khép, tôi không nói làm gì. Nhưng không, tất cả đều đóng im ỉm cơ mà thưa ông, hãy đề phòng thôi, bởi chắc có phù chú gì đó.

Trong khi đó, chàng trai lao vội vào buồng ngủ và bóc thư xem. Đó là thư của bà Bonacieux vắn tắt như sau:

"Xin gửi tới những lời cảm ơn nồng nhiệt

"Muốn được thể hiện và chuyển cho chàng những lời cám ơn nồng nhiệt. Tối nay khoảng mười giờ chàng hãy đến Saint-Clu, đối diện với Nhà hứng gió nhô lên ở góc nhà ông De Etxtrê".

CB"

Đọc bức thư, D' Artagnan cảm thấy tim mình hồi hộp một sự đê mê dịu dàng vừa hành hạ vừa mơn man trái tim của những cặp tình nhân.

Đó là bức thư vắn đầu tiên chàng nhận được, đó cũng là cuộc hò hẹn đầu tiên dành cho chàng. Trái tim chàng, nở tung ra vì say sưa vui sướng, tự cảm thấy sắp lịm đi ở ngưỡng cửa cái thiên đàng hạ giới mà người ta gọi là tình yêu này.

- Ơ kìa! Thưa ông - Planchet nói khi thấy chủ mình mặt cứ đỏ lên rồi lại tái đi liên tiếp - Ơ kìa! Chẳng phải tôi đã đoán đúng có chuyện dữ hay sao?

- Planchet ơi, mi nhầm rồi - D' Artagnan trả lời - Và bằng chứng đây, đây là một đồng vàng để mi uống chúc mừng ta.

- Tôi xin cảm ơn ông chủ về đồng vàng ông thưởng tôi, và tôi xin hứa làm theo đúng những lời chỉ bảo của ông. Nhưng chẳng lẽ lại không đúng, rằng những bức thư lại vào được như thế trong những ngôi nhà đóng kín…

- Rơi từ trên trời xuống, anh bạn của ta ạ, rơi từ trên trời xuống đấy.

- Nhưng ông bằng lòng chứ? - Planchet hỏi.

- Planchet thân mến của ta ơi, ta là người sung sướng nhất trong mọi người.

- Và tôi có thể nhân việc ông được sung sướng mà đi ngủ chứ?

- Được, đi ngủ đi.

- Cầu cho mọi phúc lành trên đời đều rơi xuống ông chủ, nhưng chẳng lẽ lại không đúng là bức thư ấy… và Planchet vừa rút lui vừa lắc đầu với vẻ hoài nghi mà sự hào phòng của D' Artagnan không thể hoàn toàn xóa đi nổi.

Còn lại một mình, D' Artagnan đọc đi đọc lại bức thư vắn rồi hôn đi hôn lại đến hai chục lần những dòng chữ do tay người tình của mình viết. Cuối cùng chàng đi nằm, ngủ thiếp đi và mơ những giấc mơ vàng.

Bẩy giờ sáng, chàng dậy và gọi Planchet, ngay sau tiếng gọi lần thứ hai, đã mở cửa, mặt còn chưa gột hết những nỗi lo đêm trước.

- Planchet! - D' Artagnan nói - có thể ta đi cả ngày hôm nay vậy mi được tự do đến bẩy giờ tối. Nhưng đúng bẩy giờ mi phải chuẩn bị sẵn hai con ngựa.

- Nghĩa là - Planchet nói - hình như chúng ta sắp làm cho mình được thủng da ở nhiều chỗ nữa thì phải!

- Mi sẽ mang theo súng trường và mấy khẩu súng ngắn của mày.

- Thấy chưa? Tôi đã nói gì nào? - Planchet kêu lên. - Đến đây, thì tôi chắc chắn, bức thư gở rồi?

- Nhưng mày cứ yên trí, đồ ngu ạ - Đây chỉ hoàn toàn đơn giản là một trò đùa vui thôi.

- Ồ, cũng như cuộc du hành thỏa thích ngày nào mà đạn bắn như mưa, và cạm bẫy mọc như nấm chứ gì.

- Thôi được, thưa ngài Planchet, nếu ngài sợ - D' Artagnan nói tiếp - tôi sẽ đi một mình. Tôi thích du hành một mình hơn là có một bạn đồng hành run sợ.

- Ông chủ lại chửi tôi rồi - Planchet nói - tuy nhiên, hình như ông cũng đã thấy tôi lúc tâm sự.

- Phải, nhưng tao lại tưởng mi đã sử dụng hết lòng can đảm của mi trong một lần rồi.

- Ông chủ sẽ thấy khi có cơ hội, nó còn lại thế nào, có điều tôi xin ông chủ đừng hoang phí nó, nếu ông muốn nó còn được lâu bền.

- Mày có tin là vẫn còn một số nào đấy để chi tối nay không?

- Tôi hy vọng là còn.

- Thôi được! Ta tin ở mi?

- Đúng giờ, tôi sẽ sẵn sàng. Có điều, tôi tưởng ông chủ chỉ có một con ngựa ở chuồng ngựa cận vệ.

- Có lẽ ngay lúc này đã có một con nữa ở đấy rồi. Nhưng tối nay, sẽ có bốn con.

- Hình như chuyến du hành vừa qua của chúng ta là một cuộc du hành để thay ngựa?

- Đúng thế. - D' Artagnan nói.

Rồi bằng cử chỉ cuối cùng để căn dặn Planchet, chàng ra ngoài.

Ông Bonacieux đang đứng trước cửa nhà mình. D' Artagnan định lờ đi không thèm nói gì với lão hàng xén làm bộ làm tịch.

Nhưng lão ta lại chào chàng đến là dịu dàng và nhã nhặn khiến người thuê nhà khó xử, không những phải chào lại mà còn phải bắt chuyện với lão.

Vả lại làm sao lại không có được một chút vị nể một ông chồng mà người vợ lại hẹn mình ngay tối nay ở Saint-Clu, trước mặt Nhà hứng gió của ông De Etxtrê! D' Artagnan lại gần với vẻ dễ mến nhất mà chàng có thể tạo được.

Câu chuyện rơi vào chuyện con người tội nghiệp này bị bắt giam hoàn toàn tự nhiên. Ông Bonacieux không biết D' Artagnan từng được nghe cuộc chuyện trò của ông ta với con người lạ mặt ở Măng, lại đi kể cho chàng thuê nhà trẻ tuổi những sự ngược đãi của con quỷ De Lafêmát mà ông ta gán cái danh hiệu ấy cho tên đao phủ của Giáo chủ suốt cả câu chuyện, và dài dòng sang cả chuyện ngục Bastille, những chốt cửa, những ô trổ những lỗ thông hơi, những song sắt, những dụng cụ tra tấn.

D' Artagnan lắng nghe với một thái độ vui vẻ mẫu mực rồi khi lão kết thúc, liền hỏi:

- Còn bà Bonacieux, ông có biết ai bắt cóc bà ấy không? Bởi vì tôi không quên chính trong cái hoàn cảnh bức bối đó mà tôi có được cái diễm phúc làm quen với ông.

- À! Ông Bonacieux nói - họ giữ không nói ra với tôi, còn vợ tôi cũng thề độc với tôi là không biết. Nhưng còn ông - Bonacieux tiếp tục với một giọng hoàn toàn bộc tuệch - mấy ngày qua, ông ra sao? Tôi chẳng thấy ông, cũng chẳng thấy các bạn ông, và tôi nghĩ không phải trên vỉa hè của Paris mà ông đã gom tất cả lớp bụi mà Planchet đã phủi hôm qua trên đôi ủng của ông đấy chứ?

- Ông nói đúng đấy ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi và các bạn tôi vừa tổ chức một cuộc du hành nho nhỏ.

- Xa đây không?

- Ồ không, lạy Chúa, chỉ độ bốn mươi dặn thôi. Chúng tôi đưa ông Athos đến vùng suối nóng Foócgiơ, các bạn tôi đều ở lại đó.

- Và ông trở về, có phải không ông? - Bonacieux nói tiếp, nét mặt lộ ra một tên trùm láu cá - Một chàng đẹp trai như ông không thể vắng mặt lâu đối với tình nhân của mình được và chúng ta lại được sốt ruột mong đợi ở Paris, có phải không?

- Thật tình - chàng trai trẻ vừa cười vừa nói - tôi xin thú nhận với ông, còn hơn thế ấy, ông Bonacieux thân mến ạ, tôi thấy không thể giấu nổi ông điều gì. Vâng, tôi đã được mong đợi, và khá sốt ruột, tôi xin đảm bảo với ông như vậy.

Một lớp mây mỏng lướt trên trán ông Bonacieux, nhưng quá mỏng khiến D' Artagnan không nhận thấy.

- Và chúng ta sẽ được thưởng về sự chu đáo của chúng ta chứ? - Lão hàng xén tiếp tục, hơi biến giọng, một sự biến giọng mà D' Artagnan không nhận thấy, chẳng hơn gì lớp mây mỏng trước đấy một lát chốc chốc lại làm sầm tối bộ mặt con người.

D' Artagnan vừa cười, vừa nói:

- Kìa, ông cứ tiếp việc giả bộ ngây ngô đi mà.

- Đâu có, tôi nói vậy là chỉ để biết liệu ông có về muộn không thôi.

- Tại sao ông lại hỏi thế, ông chủ nhà thân mến của tôi, - D' Artagnan hỏi - Thế ông định đợi tôi thật à?

- Không, kể từ ngày tôi bị bắt và xảy ra vụ trộm ở nhà tôi, mỗi lần tôi nghe thấy tiếng cửa mở nhất là ban đêm là tôi lại sợ run lên. Mẹ kiếp! Biết làm thế nào! Tôi đâu phải người biết múa gươm!

- Ồ nếu vậy ông chớ có sợ nếu tôi về vào lúc một giờ, hai giờ hay ba giờ sáng. Mà đến sáng tôi vẫn không về, thì ông đừng lo gì nữa.

Lần này thì mặt Bonacieux tái quá khiến D' Artagnan có không muốn cũng không thể không nhận ra, liền hỏi ông ta có chuyện gì vậy.

- Có chuyện gì đâu - Bonacieux trả lời - không có chuyện gì đâu. Chỉ có từ khi gặp vận hạn, bất thình lình tôi lại cứ bị hơi choáng váng như thế, tôi vừa cảm thấy bị rùng người. Ông là người chỉ bận sao cho được sung sướng thì để tâm đến chuyện đó làm gì.

- Thế thì tôi đang bận, vì tôi là người như thế.

- Khoan đã, đã tới lúc đâu, ông bảo tối nay cơ mà.

- Yên trí, rồi sẽ tối! Ơn Chúa? Và có thể ông sốt ruột đợi tối chẳng kém gì tôi đâu. Có thể tối nay bà Bonacieux sẽ về thăm gia đình cũng nên đấy!

- Bà Bonacieux không được tự do tối nay đâu - Bonacieux đáp với vẻ nghiêm trọng - bà ấy bị giữ lại ở điện Louvre vì công việc.

- Thôi kệ ông vậy, ông chủ thân mến của tôi ạ, kệ ông. Khi mà tôi hạnh phúc, tôi những muốn tất cả mọi người được hạnh phúc theo nhưng hình như không thể được.

Và chàng trai trẻ vừa đi vừa phá lên cười khoái trí, mà chàng nghĩ chỉ mình chàng mới có thể hiểu được.

- Cứ việc vui thích đi! - Bonacieux đáp với một giọng như từ dưới đáy mộ vọng lên.

Nhưng D' Artagnan đã đi quá xa không nghe được, mà dù có nghe được, trong tâm trí hiện thời, chắc chắn chàng cũng chẳng để ý.

Chàng đi về phía dinh quán ông De Treville. Cuộc viếng thăm ông đêm trước quá ngắn ngủi, và chưa giải thích được điều gì mấy.

Chàng thấy ông De Treville đang vui. Nhà Vua và Hoàng hậu đã tỏ ra niềm nở với ông trong vũ hội. Còn Giáo chủ thì đúng là mặt khó đăm đăm.

Một giờ sáng Giáo chủ đã rút lui, mượn cớ thấy trong người khó ở. Còn Đức Vua và Hoàng hậu mãi sáu giờ sáng mới trở về điện Louvre.

Ông De Treville đưa mắt nhìn khắp quanh nhà để xem có ai khác không rồi hạ giọng hỏi chàng.

- Bây giờ anh bạn trẻ, ta nói về anh nào, bởi rõ ràng cuộc trở về may mắn của anh đã phần nào là niềm vui của nhà Vua, sự đắc thắng của Hoàng hậu và sự hổ nhục của Đức ông Giáo chủ.

- Anh phải cẩn thận đấy.

D' Artagnan trả lời:

- Chừng nào, tôi còn có diễm phúc được hưởng ân sủng của Đức Vua và Hoàng hậu thì tôi phải sợ cái gì nào?

- Phải sợ tất, tin ta đi. Giáo chủ không phải là người quên chuyện mắc lừa chừng nào còn chưa tính sổ với kẻ đánh lừa đâu, và kẻ đi lừa có vẻ là một gã Gátxcông nào đó ta từng quen biết.

- Ông tin rằng Giáo chủ cũng phòng xa như ông và biết chính tôi đã có mặt ở London ư?

- Quỷ thật! Anh đã ở London! Có phải anh đã mang từ London về cái viên kim cương xinh đẹp đang lấp lánh ở ngón tay anh không? Coi chừng đấy, anh D' Artagnan thân mến của ta, món quà của kẻ thù không phải là một điều tốt đẹp đâu. Chẳng phải đã có một câu thơ Latinh về điều đó… khoan đã…

- Vâng hẳn vậy - D' Artagnan trả lời, mặc dầu chàng chưa bao giờ có thể nhồi nổi vào đầu cái nguyên tắc đầu tiên của cuốn sách vỡ lòng, và vì do tối dạ, đã làm vị gia sư của mình thất vọng - Vâng hẳn vậy, chắc phải có một câu.

- Chắc thì chắc rồi - Ông De Treville có vẻ văn chương nói - Ông De Băngxơrát mới đọc cho ta hôm nào… Khoan đã… À, đây rồi! "Timeo Danaos et dona ferente(1), có nghĩa là: "Hãy coi chừng kẻ thù tặng quà cho anh".

- Nhưng chiếc nhẫn kim cương này đâu phải của kẻ thù, thưa ông - D' Artagnan đáp - là của Hoàng hậu đấy chứ.

- Của Hoàng hậu? Ồ, ồ? - Ông De Treville nói - Quả vậy, đích thực là đồ nữ trang của hoàng gia đáng giá nghìn vàng. Thế Hoàng hậu sai ai chuyển món quà này cho anh?

- Đích thân Hoàng hậu trao cho tôi.

- Ở đâu?

- Trong căn phòng liền kề với căn phòng Hoàng hậu thay trang phục.

- Trao thế nào?

- Đưa tay cho tôi hôn.

- Anh được hôn tay Hoàng hậu? - Ông De Treville vừa nhìn D' Artagnan vừa kêu lên.

- Hoàng hậu đã ban cho tôi đặc ân đó.

- Và trước mặt những người khác? Bất cẩn! Ba lần bất cẩn! Ba lần bất cẩn!

- Không, thưa ông, xin ông yên tâm, chắng ai trông thấy đâu.

Và D' Artagnan kể cho ông Treville mọi việc diễn ra như thế nao.

- Ôi! Đàn bà! Đàn bà! - Người lính già kêu lên - Ta nhận ra ngay cái trí tưởng tượng lãng mạn của họ mà. Tất cả những gì cảm thấy bí ẩn là họ mê say ngay. Như thế là anh đã nhìn thấy cánh tay, chỉ có thế, anh được gặp Hoàng hậu, nhưng không thấy mặt Hoàng hậu, bà gặp anh nhưng không biết anh là ai.

- Không, nhưng nhờ chiếc nhẫn kim cương này…- Chàng trai trẻ tiếp tục.

- Nghe đây - Ông De Treville nói - anh có muốn tôi cho anh một lời khuyên, một lời khuyên tốt, một lời khuyên chí tình không?

- Rất hân hạnh, thưa ông. - D' Artagnan nói.

- Được! Anh hãy đến ngay một chủ hiệu kim hoàn đầu tiên nào cũng được, bán cho hắn chiếc nhẫn kim cương này đi với giá hắn trả cho anh thế nào cũng bán, dù hắn có Do Thái đến đâu anh cũng sẽ được tám trăm đồng vàng. Tiền nó không có tên, anh bạn trẻ ạ, còn chiếc nhẫn này có một cái tên khủng khiếp và có thể phản bội lại kẻ đeo nó.

- Bán chiếc nhẫn ư! Chiếc nhẫn do bà chúa của tôi cho!

- Không bao giờ!- D' Artagnan nói.

- Thì xoay mặt nó vào trong vậy, kẻ điên rồ tội nghiệp ạ, bởi người ta thừa biết một gã thiếu sinh quân Gátxcông không thể moi đâu ra thứ trang sức như thế trong bộ đồ tư trang của mẹ mình.

- Vâng, ông tin là tôi có điều gì cần e ngại ư? - D' Artagnan hỏi.

- Nghĩa là, chàng trai trẻ ạ, kẻ nào đang ngủ thiếp đi trên một quả mìn đã bén ngòi, phải tự coi là an toàn so với anh đấy.

Giọng nói hoàn toàn đáng tin cậy của ông De Treville bắt đầu làm cho chàng lo lắng:

- Quỷ thật! Tôi phải làm gì nào?

- Luôn cảnh giác, và coi đó là trên tất cả. Giáo chủ có trí nhớ rất dai và bàn tay rất dài. Tin ta đi, thế nào ông ta cũng chơi lại anh một vố.

- Vố gì nào?

- Ồ, ta biết được vố gì! Chẳng phải dưới trướng ông ta không có đủ mọi mưu ma chước quỷ ư? Bét nhất cũng có thể là cho bắt anh?

- Thế nào? Dám bắt một người dưới trướng của Hoàng thượng?

- Mẹ kiếp! Dễ thường họ chùn tay với Athos đấy! Dẫu sao đi nữa, chàng trai ạ, hãy tin một người đã ba mươi năm nay ở triều đình, đừng có tự ru ngủ là mình an toàn, mà toi đấy. Hoàn toàn ngược lại, ta nói để anh hay, phải thấy đâu đâu cũng có kẻ thù cả. Nếu người ta kiếm cớ gây sự với anh, hãy tránh đi dù kẻ gây sự là đứa trẻ mười tuổi. Nếu người ta tấn công anh bất kể ngày hay đêm, hãy vừa đánh vừa lùi và đừng xấu hổ. Nếu anh đi qua một chiếc cầu, hãy thăm dò ván cầu, xem có tấm nào bị sụt dưới chân anh không. Nếu anh đi qua một ngôi nhà đang xây, hãy ngước nhìn lên tránh để một hòn đá nào choang đúng đầu anh. Nếu anh về nhà muộn, hãy cho người hầu đi theo và người hầu phải mang theo vũ khí, tuy nhiên anh phải hoàn toàn tin tưởng người hầu. Coi chừng tất cả mọi người, cả bạn bè, anh em, tình thân, nhất là tình nhân của anh.

D' Artagnan đỏ mặt, lắp lại một cách máy móc.

- Cả tình nhân của tôi, nhưng tại sao đối với cô ta hơn người khác?

- Là vì tình nhân là một trong những biện pháp ưa thích của Giáo chủ, không có gì nhanh gọn hơn; một mụ đàn bà có thể bán anh lấy mười đồng vàng, bằng chứng là Đalila(2) đó. Anh biết Kinh thánh chứ?

D' Artagnan bỗng nghĩ đến cuộc hẹn hò mà bà Bonacieux đã hẹn chàng tối nay. Nhưng chúng ta phải khen chàng là cái quan niệm lỗi thời về đàn bà nói chung của ông De Treville không làm chàng mảy may nghi ngờ bà chủ nhà xinh đẹp của mình.

- Nhưng tiện thể - Ông De Treville nói tiếp - Ba người đồng đội của anh ra sao rồi?

- Tôi cũng đang định hỏi ông xem ông có biết chút tin tức gì về họ không?

- Không một tin tức nào.

- Thế ạ! Còn tôi, tôi đã bỏ họ lại ở dọc đường. Porthos ở Săngtily đang sắp quyết đấu. Aramis ở Vỡ Rim với một viên đạn vào vai, và Athos ở Amiêng, bị buộc tội có tiền giả trong người.

- Anh thấy chưa? - Ông De Treville nói - Và anh làm thế nào thoát được?

- Tôi phải nói như có phép mầu ấy, thưa ông, bị đâm một mũi gươm vào ngực, tôi đóng đinh trả lại tay Bá tước De Wardes xuống con đường đi Cale như ghim một con bướm trên một tấm thảm.

- Thấy nữa chưa! De Wardes là một người của Giáo chủ, em họ của Rochefort. Này, anh bạn, ta nảy ra một ý.

- Xin cứ nói, thưa ông.

- Ở địa vị anh, ta sẽ làm một điều.

- Điều gì ạ?

- Trong khi Đức ông cho người đi lùng anh ở Paris, anh, phải chính anh, sẽ không kèn, không trống đi Picađy, tìm hiểu tin tức ba người bạn đồng đội của mình. Mẹ kiếp, họ đáng để anh quan tâm như thế lắm chứ.

- Lời khuyên quý giá, thưa ông, ngày mai tôi sẽ đi.

- Ngày mai? Tại sao không tối nay?

- Thưa tối nay tôi mắc ở Paris một công việc rất cần thiết.

- A, chàng trai? Chàng trai! Một mối tình nho nhỏ chứ gì? Cẩn thận đấy, ta xin nhắc lại với anh; chính đàn bà đã làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn tồn tại, và sẽ còn làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn sống sót. Tin ta đi. Đi ngay tối nay đi.

- Không thể được, thưa ông.

- Anh trót hứa rồi ư?

- Vâng, thưa ông.

- Ồ, thế thì lại là chuyện khác. Nhưng hứa với ta đi, nếu tối nay anh không bị giết, ngày mai anh sẽ đi.

- Tôi xin hứa.

- Có cần tiền không?

- Tôi còn năm mươi đồng vàng. Tôi nghĩ thế là tạm đủ.

- Nhưng còn các đồng đội của mình?

- Tôi nghĩ họ chắc cũng không thiếu. Chúng tôi ra khỏi Paris, mỗi người có bảy nhăm đồng vàng trong túi.

- Ta không cần gặp anh trước khi anh khởi hành chứ?

- Không, tôi nghĩ thế, thưa ông, trừ phi có tin gì mới.

- Thôi được, chúc lên đường may mắn.

- Xin cảm ơn ông.

Và D' Artagnan xin phép cáo lui, cảm động hơn bao giờ hết về sự quan tâm đầy tình cha con với các ngự lâm quân của ông.

Chàng lần lượt qua nhà Athos, Porthos và Aramis chưa có ai trở về. Bọn người hầu của họ cũng vắng mặt, và chả có tin tức gì về người này hay người khác.

- Chắc sẽ biết tin tức của họ qua tình nhân của họ, nhưng chàng lại không biết của Porthos là ai, cũng chẳng biết của Aramis(3) còn Athos thì không có rồi.

Khi đi qua trước mặt dinh trại cận vệ, chàng liếc mắt nhìn vào chuồng ngựa: ba trong số bốn con ngựa đã trở về đấy rồi.

Planchet đang trải lông ngựa, và đã xong hai con, vô cùng sừng sốt khi thấy D' Artagnan.

- A, ông đây rồi, tôi đang mong gặp ông!

- Tại sao vậy, Planchet?

- Ông có tin cái lão Bonacieux chủ nhà của chúng ta không?

- Tao hả? Không chút nào.

- Ồ! Thế là đúng, thưa ông.

- Nhưng tại sao mày lại hỏi thế?

- Là tại vì, trong khi ông chuyện trò với lão, tôi quan sát ông mà không nghe ông nói đâu, mặt lão biến sắc đến hai ba lần.

- Thế à!

- Ông chủ không nhận thấy vì ông còn bận nghĩ đến bức thư vừa nhận được, nhưng tôi, trái lại, vì cái cung cách lạ lùng bức thư đã vào tới nhà mình khiến tôi luôn cảnh giác, tôi không để sót một nét cử động nào trên mặt lão.

- Vì mi thấy mặt lão thế nào?

- Bộ mặt tráo trở, thưa ông.

- Đúng thế.

- Thêm nữa, ngay khi ông chủ vừa đi và khuất ở góc phố, lão Bonacieux cũng cầm mũ, đóng cửa và chạy về phía phố đối diện.

- Mi nói đúng, Planchet ạ, quả thật, ta thấy mọi cái đó hình như đều ám muội lắm. Nhưng yên tâm, chúng ta sẽ chỉ trả tiền thuê nhà cho lão khi nào chuyện này được giải thích rành mạch cho chúng ta.

- Ông chủ đùa rồi, nhưng rồi ông chủ sẽ thấy.

- Mi còn muốn gì, Planchet, cái gì phải đến sẽ đến.

- Ông chủ không bỏ cuộc dạo mát tối nay chứ?

- Hoàn toàn trái lại Planchet ạ, càng giận lão Bonacieux bao nhiêu, ta lại càng sẽ đến nơi bức thư khiến mi khá lo lắng ấy hẹn ta.

- Ờ, nếu đó đã là quyết định của ông chủ…

- Thì không gì lay chuyển được, anh bạn ạ. Cứ như thế nhé, đúng chín giờ mi sẵn sàng ở dinh trại, tao sẽ đến đón mày.

Planchet thấy không còn chút hy vọng nào làm cho ông chủ của mình từ bỏ dự định, liền thở dài và lại tiếp tục trải lông con ngựa thứ ba.

Còn D' Artagnan về cơ bản vốn là một chàng Gátxcông rất cẩn trọng, đáng lẽ trở về nhà, chàng đến ăn trưa tại nhà ông linh mục người Gátxcông đã từng thết bữa điểm tâm cho cả bốn người bạn lúc họ đang trong lúc túng quẫn.

Chú thích:
(1) Trích dẫn từ vở kịch của Virgile, nghĩa là ta sợ bọn Hy Lạp đến mang theo quà biếu. Điển tích con ngựa thành Tơron.
(2) Cô gái điếm bán Xămxơn cho bọn Philistin trong Kinh thánh đã chú thích.
(3) Đây có sự nhầm quên của tác giả, Ở phần trên D' Artagnan đã bắt bọn Aramis và cuối cùng Aramis cũng đã thú nhận là De Chevreuse là người tình của mình. Nhưng bà De Chevreuse đã trở về nhà Tours - ND.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 24

Nhà hóng gió

Lúc chín giờ D' Artagnan đã có mặt ở dinh trại quân cận vệ.

Chàng thấy Planchet đã trang bị đầy đủ vũ khí, con ngựa thứ tư đã tới Planchet vũ trang bằng một súng trường và một súng ngắn.

D' Artagnan đeo gươm và giắt hai khẩu súng ngắn ở đai lưng rồi cả hai lên ngựa, và lặng lB xa dần. Trời tối như bưng, không ai trông thấy họ đi ra, Planchet đi theo sau chủ mình cách xa chừng mười bước.

D' Artagnan đi xuyên qua phố bờ sông, qua cửa ô Hội nghị ra khỏi thành phố rồi đi theo con đường thuở đó đẹp hơn bây giờ nhiều dẫn tới Saint-Clu.

- Còn trong thành phố, Planchet giữ nghiêm khoảng cách đã thiết lập, nhưng từ lúc con đường bắt đầu trở nên vắng vẻ và tối tăm hơn, hắn im lặng nhích lại gần. Bắt đầu vào rừng Bulônhơ, hắn đàng hoàng đi song song sát bên chủ. Quả thật những cây to rung rinh và ánh trăng rọi trong những lùm cây tối sẫm khiến hắn lo sợ. D' Artagnan thấy ở người hầu có điều gì đó lạ thường, liền hỏi:

- Thế nào, ngài Planchet, chúng ta có chuyện gì vậy?

- Ông không thấy rừng cây giống như những nhà thờ ư?

- Sao lại thế, Planchet?

- Bởi vì người ta không dám nói to trong chỗ này cũng như trong những chỗ kia.

- Tại sao mi không dám nói to, Planchet mi sợ à?

- Vâng, sợ bị nghe thấy, thưa ông!

- Sợ bị nghe thấy! Nhưng Planchet thân mến, chuyện của chúng ta là chuyện đạo đức, có gì đáng chê đâu.

Planchet trở lại với ý nghĩ chủ chốt của mình, đáp:

- À, thưa ông, sao cái lão Bonacieux nó có đôi lông mày trông đến quỷ quyệt, còn đôi môi thì múa may phát tởm.

- Vì cái quỷ gì mà mi cứ nghĩ về lão Bonacieux như thế?

- Thưa ông, người ta nghĩ đến cái người ta có thể, chứ không nghĩ tới cái người ta muốn.

- Bởi vì mi là một thằng nhát, Planchet ạ.

- Thưa ông, đừng nhầm lẫn sự thận trọng với sự nhút nhát, sự thận trọng là một đức tính tốt.

- Và mi có đức tính tốt phải không Planchet?

- Thưa ông, chẳng phải cái nòng súng hỏa mai lấp lánh ở đâu đó chút nào sao? Chúng ta cúi thấp đầu xuống chăng?

D' Artagnan chợt nhớ đến những lời dặn dò của ông De Treville liền lẩm nhẩm:

- Thực ra, cái quân súc sinh này cuối cùng cũng làm mình phát sợ.

Nghĩ vậy chàng liền cho ngựa phi nước kiệu.

Planchet cũng phi nước kiệu theo, đúng như một cái bóng của chàng.

- Chúng ta cứ đi như thế này suốt đêm ư, thưa ông?

- Không, Planchet ạ, vì riêng mi, mi đã tới nơi rồi.

- Sao cơ? Tôi tới nơi rồi? Còn ông chủ?

- Ta còn đi thêm ít bước nữa.

- Và ông chủ bỏ lại mình tôi ở đây?

- Mi sợ ư, Planchet?

- Không, nhưng tôi chỉ xin ông chủ lưu ý đêm sẽ rất lạnh và khí lạnh gây bệnh thấp khớp, và một tên hầu mắc bệnh thấp khởp sẽ là một tên đầy tớ đáng buồn, nhất là đối với một ông chủ hiếu động như ông?

- Ồ, nếu mi thấy lạnh, Planchet hãy ghé vào một cái quán nào đó ở kia kìa, và sáu giờ sáng mai đợi ta ở ngoài cửa.

- Thưa ông, tôi đã uống và ăn một cách thành kính hết cả đồng vàng sáng nay ông cho tôi, đến nỗi chẳng còn một xu chết tiệt nào trong trường hợp tôi thấy lạnh.

- Một đồng vàng nữa nữa đây. Mai nhé!

D' Artagnan xuống ngựa, quàng dây cương vào cánh tay Planchet, và vừa khoác áo choàng vừa nhanh chóng rời xa.

- Trời ơi! Tôi rét quá! - Khi bóng chủ mình đã khuất, Planchet la lên, cuống quít mong được sưởi ấm, rồi vội vã đến gõ cửa một ngôi nhà, được bày biện theo đúng kiểu cách một tiểu quán ngoại ô.

Trong khi ấy D' Artagnan rẽ vào một đường tắt tiếp tục đi đến Saint-Clu. Nhưng đáng lẽ đi theo phố lớn, chàng lại rẽ vào đằng sau một tòa lâu đài, đi vào một phố hẻm rất rộng và đã ở ngay trước mặt ngôi nhà hóng gió đã ấn định. Ngôi nhà ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ. Một bức tường lớn, mà góc tường là ngôi nhà đó, chiếm hẳn một bên của phố hẻm, mặt phố bên kia, là một hàng rào ngăn người qua lại vào một khu vườn nhỏ, cuối vườn một túp lều xơ xác.

Chàng đã tới chỗ hẹn, và vì nàng không nói trong thư đến nơi thì báo bằng tín hiệu nào, nên đành chờ.

- Không nghe thấy một tiếng động nhỏ, tưởng như đang ở cách xa kinh thành đến trăm dặm rồi. D' Artagnan dựa lưng vào bờ rào sau khi đã đưa mắt nhìn phía sau. Ra khỏi hàng rào, khu vườn và túp lều ấy, một mà sương mù ảm đạm từng lớp, từng lớp bao phủ cả một vùng bao la, trong đó Paris trống rỗng, há hốc mồm ra ngủ, cái bao la trong đó nhấp nháy vài điểm sáng, mấy ngôi sao thê lương của địa ngục này.

Nhưng đối với D' Artagnan, mọi cảnh tượng đều khoác một dáng vẻ vui tươi, mọi ý nghĩ đều mang một nụ cười, mọi bóng đêm đều trong suốt. Giờ hẹn sắp điểm rồi.

Quả vậy, chỉ trong vòng mấy giây, cái mõm rộng của tháp chuông nhà thờ Saint-Clu đã gầm lên và từ từ buông ra mười tiếng.

- Có một cái gì đó nghe đượm màu tang tóc trong cái giọng đồng thau đang than thở như thế giữa đêm trường.

Nhưng mỗi tiếng buông ra hợp thành cái giờ hẹn đó lại rung lên êm ái trong trái tim chàng trai trẻ.

Đôi mắt chàng đăm đàm nhìn lên ngôi nhà nhỏ hóng gió ở góc tường bao mà các cửa sổ đều đóng kín, trừ chiếc cửa sổ duy nhất trên tầng một.

Qua chiếc cửa sổ đó, một vùng ánh sáng dịu dàng như trăng bạc lên những vòm lá run rẩy của vài ba cây thanh quất nhô lên thành từng cụm ở ngoài vườn. Hiển nhiên là đằng sau chiếc cửa sổ nhỏ, được chiếu sáng rất duyên dáng ấy, bà Bonacieux xinh đẹp đang đợi chàng.

Như được ru trong ý nghĩ dịu ngọt ấy, D' Artagnan vẫn đứng đợi tại chỗ nửa giờ đồng hồ không chút sốt ruột, mắt vẫn đăm đăm nhìn lên cái lầu ngắm cảnh nhỏ bé mê hồn đó mà chàng cũng thấy được một mảng trần nhà có những gờ chỉ mạ nhũ vàng, chứng tỏ vẻ hào hoa của phần còn lại của căn phòng.

Gác chuông nhà thờ Saint-Clu điểm mười giờ rưỡi. Lần này không hiểu vì sao, chàng bất giác rùng mình. Cũng có thể chàng bắt đầu thấm lạnh, và thật ra chỉ là một cảm giác hoàn toàn thể chất và chàng lại xem là ấn tượng tinh thần.

Rồi chàng lại nghĩ hay mình đã đọc sai, chứ giờ hẹn là mười một giờ kia.

Chàng lại gần cửa sổ, đứng vào chỗ có ánh sáng chiếu ra, rút bức thư của nàng ra đọc lại thấy mình không hề nhầm, giờ hẹn rõ ràng là mười giờ.

Chàng trở lại chỗ cũ, bắt đầu hơi lo lắng về sự im ắng và quạnh quẽ này.

Chuông điểm mười một giờ.

D' Artagnan bắt đầu lo sợ thực sự đã xảy ra điều gì với bà Bonacieux.

Chàng vỗ tay ba tiếng, tín hiệu thông thường của các cặp tình nhân, nhưng không có ai đáp lại, không cả tiếng vọng.

Thế là chàng giận dỗi nghĩ rằng có thể thiếu phụ đã ngủ quên trong khi đợi chàng.

Chàng lại gần bức tường và cố treo lên, nhưng bức tường mới trát, trơn quá. D' Artagnan không bám móng tay được.

Lúc ấy chàng liền ngắm mấy cái cây mà ánh sáng tiếp tục dát bạc lên các khóm lá và một trong những cây ấy lại ngả ra đường, chàng nghĩ nếu ở giữa đám cành cây ấy chàng có thể nhìn xuyên thấu vào trong ngôi nhà hóng gió.

Cái cây dễ trèo. Hơn nữa, D' Artagnan chưa đầy hai mươi tuổi, do đó chưa quên thói học trò. Thoát một cái, chàng đã ở giữa đám cành lá, và qua những ô kính cửa sổ trong suốt, chàng phóng mắt sâu vào tận bên trong ngôi nhà.

Một chuyện lạ lùng khiến D' Artagnan rợn người từ gan bàn chân lên đến tận chân tóc. Cái ánh sáng dịu dàng kia, cái cây đèn vô tình kia đang chiếu rõ một cảnh tượng hỗn độn hãi hùng, một ô kính cửa bị vỡ, cửa phòng bị đạp tung, gần gẫy, treo trên bản lề, một cái bàn chắc đã được bày một bữa tối sang trọng nằm lăn ra đất, bình lọ vỡ tan, quả cây bị giẫm nát vung vãi trên sàn nhà, mọi cái đều chứng tỏ một cuộc vật lộn quyết liệt và tuyệt vọng trong căn phòng này. D' Artagnan còn tin rằng đã nhận ra giữa cái đống hổ lốn lạ lùng ấy những mảnh quần áo và mấy vết máu hoen trên khăn trải bàn và rèm cửa nữa.

Chàng vội vàng trèo xuống đường phố, tim đập khủng khiếp, muốn tìm xem có dấu vết bạo lực nào khác không.

Ánh sáng yếu ớt, êm dịu kia vẫn luôn nhấp nháy trong sự tĩnh lặng của ban đêm. Lúc bấy giờ D' Artagnan mới nhận thấy điều mà thoạt đầu chàng không để ý, bởi chẳng có gì đáng khiến chàng để ý, là nền đất nện bằng ở đây, chỗ kia lại lỗ chỗ, in dấu chân người và ngựa. Ngoài ra, vết bánh xe, hình như từ Paris đến cũng đã cầy đấy nhão lên một vết hằn sâu, dài không quá tầm cao của ngôi nhà hóng gió và quay hướng về Paris.

Cuối cùng, trong khi tiếp tục tìm kiếm, D' Artagnan thấy gần bức tường một chiếc găng tay phụ nữ bị rách. Tuy nhiên chiếc găng đó, ở những phần chưa dính bùn, trông vẫn mới không chê vào đâu được. Đó là một chiếc găng sức nước hoa thơm phức mà các tình lang thích rút ra khỏi một bàn tay xinh đẹp.

D' Artagnan càng tiếp tục dò tìm, mồ hôi càng vã ra, càng giá lạnh, long lanh trên trán, tim chàng càng thắt lại bởi một nỗi lo âu khủng khiếp, hơi thở càng hổn hển, tuy nhiên để tự an tủi, chàng tự nhủ, cái nhà hóng gió này có lẽ chả liên quan gì với bà Bonacieux, vì người đàn bà ấy, hẹn chàng ở trước mặt ngôi nhà, chứ đâu phải trong ngôi nhà đó, có khi nàng bị giữ lại ở Paris vì công việc, cũng có thể vì chồng ghen.

Nhưng mọi lý lẽ ấy đều bị công kích dữ dội, bị hủy diệt, bị lật nhào bởi cái cảm giác đau đớn trong nội tâm, trong một số trường hợp nó xâm chiếm toàn bộ con người chúng ta, và gào lên với chúng ta, bởi tất cả những gì trời phú cho chúng ta thấu hiểu, rằng một tai họa lớn đang lượn lờ trên đầu chúng ta.

Thế là, D' Artagnan trở nên như điên dại, chàng chạy phứa ra con đường lớn, rồi theo lối đã đi lúc trước, tiến về phía bến đò hỏi người chở đò.

Người chở đò nói khoảng bẩy giờ tối có chở qua sông một người đàn bà mặc áo choàng đen có vẻ hết sức giữ gìn tránh không để ai nhận ra mình, nhưng cũng chính do quá giữ gìn nên người chở đò lại càng để ý và nhận ra người đàn bà ấy rất đẹp và đẹp.

Thời đó, cũng như ngày nay, có hàng đống đàn bà trẻ và đẹp đi đến Saint-Clu và cũng giữ không để bị lộ diện. Tuy nhiên D' Artagnan không còn hồ nghi gì nữa rằng đó chính là bà Bonacieux.

Nhân có ánh đèn trong lều người lái đò, D' Artagnan đọc lại bức thư của bà Bonacieux yên tâm rằng mình đã không nhầm, nơi hẹn đúng là ở Saint-Clu chứ không ở đâu khác, và trước ngôi nhà hóng gió của ông De Etxtrê chứ không phải ở phố khác.

Tất cả đều quy tụ lại để chứng minh cho D' Artagnan thấy những dự cảm của chàng đã không lừa chàng và một bất hạnh lớn đã xảy đến.

Chàng vừa đi vừa chạy trên con đường trở về ngôi nhà hóng gió. Chàng thấy hình như trong lúc chàng vắng mặt, đã có thêm điều gì mới có thể đã xảy ra ở ngôi nhà hóng gió và những tin tức đang đợi chàng ở đó.

Phố hẻm vẫn vắng tanh và vẫn thứ ánh sáng mờ mờ êm dịu vô tình tỏa ra ngoài cửa sổ.

D' Artagnan bỗng nghĩ đến căn lều tuy lụp xụp im lìm và tối tăm kia nhưng biết dâu lại thấy hết và có thể nói ra hết mọi điều chăng.

Cửa hàng rào đóng kín, chàng đành nhảy qua và mặc cho con chó bị xích sủa vang, chàng vẫn cứ đến gần túp lều.

Chàng gõ cửa, lúc đầu không ai trả lời. Một sự im lặng chết chóc ngự trự trong căn lều cũng như trong ngôi nhà hóng gió.

- Tuy nhiên, túp lều là nguồn thông tin cuối cùng rồi, chàng đành cứ gõ.

Rồi hình như có tiếng động nhẹ bên trong, một thứ tiếng động sợ sệt như thể run rẩy do sợ bị nghe thấy.

Thế là D' Artagnan thôi không gố nữa và nãn nỉ, van nài, giọng đầy lo âu và hứa hẹn, đầy hãi hùng và ve vãn, khiến cho tiếng nói của chàng tự nhiên lại làm yên tâm được kẻ dễ sợ sệt nhất. Cuối cùng thì một cánh cửa sổ cũ mọt cũng mở ra, đúng hơn là chỉ hé mở rồi lại đóng lại ngay khi ánh sáng của một chiếc đèn tồi tàn đang cháy ở góc lều chiếu lên dải đeo gươm, chuôi gươm và chuôi súng ngắn của D' Artagnan, Trong khi đó D' Artagnan vẫn kịp nhận ra mặt một ông lão, dù cho cửa đập lại rất nhanh.

- Có Chúa chứng giám! - Chàng nói - Xin hãy nghe cháu. Cháu đợi một người mà không thấy tới, cháu đang lo đến chết đây. Đã có chuyện gì không may xảy ra ở quanh đây ư? Cụ nói đi!

Chiếc cửa sổ lại từ từ mở ra, và vẫn bộ mặt ấy hiện ra, chỉ có điều nó còn nhợt nhạt hơn cả lần trước.

D' Artagnan hồn nhiên kể lại chuyện của mình, thay đổi tên người đôi chút. Chàng nói có một cuộc hẹn hò với một thiếu phụ trước ngôi nhà hóng gió như thế nào, và không thấy nàng đến ra sao, chàng trèo lên cây thanh quất và qua ánh đèn nhợt nhạt đã thấy sự rối loạn trong căn phòng thế nào.

Ông lão chám chú lắng nghe, chốc chốc lại tỏ ý đúng như vậy Rồi khi D' Artagnan đã nói xong, ông lão lắc đầu tỏ ý ái ngại.

- Cụ muốn nói sao? - D' Artagnan kêu lên - Trời ơi, cụ nói rõ ra cho cháu nghe nào.

- Ồ, ông ơi! - Cụ già nói - Đừng hỏi gì tôi cả, bởi vì nếu tôi nói với ông những gì tôi đã thấy chắc chắn sẽ xảy ra những điều không hay cho tôi.

- Vậy chắc cụ đã trông thấy chuyện gì đó rồi? - D' Artagnan vừa nói tiếp vừa ném cho ông cụ một đồng vàng - Trong trường hợp ấy, có Chúa nhìn thấy gì, và cháu xin lấy danh dự của một nhà quý tộc ra thề không một lời nào của cụ hé ra khỏi miệng cháu.

Ông cụ đọc thấy trên mặt D' Artagnan biết bao vẻ thực thà và đau đớn, liền ra hiệu cho chàng hãy chú ý nghe rồi nói khẽ:

"Lúc đó khoảng gần chín giờ, tôi nghe thấy có tiếng động gì đó ở ngoài phố và tôi định ra xem xảy ra chuyện gì thì ra gần đến cửa, tôi thấy người ta đang tìm cách vào nhà tôi. Tôi vốn nghèo chả sợ ai trộm cắp đang định mở cổng thì thấy ba người cách đó mấy bước. Trong bóng tối có một cỗ xe thắng ngựa và mấy con ngựa dắt. Mấy con ngựa dắt hiển nhiên là của ba người đàn ông ăn mặc theo lối kỵ sĩ rồi. Tôi kêu lên:

- A! Các quý ông? Các quý ông muốn hỏi gì?

- Ngươi hẳn có một cái thang chứ? - Người có vẻ đứng đầu nhóm hộ tống hỏi tôi.

- Vâng, thưa ông, có một chiếc tôi vẫn trèo để hái quả.

- Đưa đây cho chúng ta, rồi lui vào trong nhà, đây là một đồng vàng vì chúng ta đã quấy quả ngươi. Và nhớ nếu ngươi chỉ nói ra một câu thôi những gì ngươi sắp trông thấy và nghe thấy bởi ngươi sẽ nhìn và sẽ chú ý nghe, ta tin chắc là như thế, dù chúng ta đã hăm dọa ngươi, ngươi sẽ toi mạng.

Nói rồi, hắn ta vứt cho tôi đồng tiền, tôi nhặt lấy và hắn mang thang đi!

Quả nhiên, sau khi đã đóng cổng hàng rào, tôi làm như trở vào nhà nhưng tôi lại ra ngay bằng lối cửa sau, luồn trong bóng tối tới tận lùm cây mộc hương, ở giữa lùm cây ấy, tôi có thể nhìn thấy hết mà không ai biết.

Ba người đó cho cỗ xe tiến về phía trước không một tiếng động, và lôi ra khỏi xe một người đàn ông lùn tịt, to ngang, tóc hoa râm, ăn mặc xuềnh xoàng, quần áo màu tối sẫm, người này thận trọng trèo lên thang, nham hiểm nhìn vào trong căn phòng rồi lại lén lút tụt xuống và nói nhỏ:

- Đúng ả ta!

Người đã nói chuyện với tôi lập tức đến gần cửa ngôi nhà hóng gió, dùng chiếc chìa khóa mang theo mở ra, đóng lại rồi biến mất. Cùng lúc đó hai người kia trèo lên thang. Lão già thấp bé đứng ở cửa xe, người đánh xe vẫn kìm mấy con ngựa thắng vào xe, và một tên hầu giữ mấy con ngựa cưỡi.

Bất thình lình những tiếng kêu thét vang lên trong ngôi nhà hóng gió, một người đàn bà chạy tới định mở cửa sổ nhào xuống.

Nhưng vừa thấy hai người đàn ông, bà ta nhảy lùi lại đằng sau, hai người đàn ông kia lao qua cửa sổ đuổi theo bà ta trong căn phòng.

Thế rồi chẳng nhìn thấy gì nữa. Nhưng tôi nghe thấy tiếng đồ đạc bị đập gãy. Người đàn bà kêu cứu. Nhưng những tiếng kêu bị dập tắt ngay, ba người đàn ông lại gần cửa sổ, khênh bà ta trên cánh tay, hai người xuống thang và chuyển bà ta vào trong xe, và lão già sau đó cũng chui vào. Tên còn lại trong ngôi nhà hóng gió đóng cửa sổ lại, một lát sau theo lối cửa ra khỏi nhà, kiểm tra xem người đàn bà đã chắc chắn ở trong xe chưa.

Hai tên đồng bọn đã lên ngựa đợi hắn, đến lượt hắn cũng nhảy lên yên, tên hầu lên ngồi cạnh người đánh xe, cỗ xe được ba kỵ sĩ hộ tống xa dần theo bước ngựa phi nước đại, và thế là hết. Từ lúc đó, tôi không còn trông thấy, nghe thấy gì hết".

D' Artagnan điếng người vì cái tin khủng khiếp đó, đứng lặng câm đi, trong khi đó tất cả những con quỷ giận dữ và ghen tuông gào thét trong lòng chàng. Nỗi thất vọng lặng câm đó hẳn đã tác dụng đến ông lão nhiều hơn nước tiếng kêu rên và nước mắt, khiến ông bảo chàng:

- Nhưng ông quý tộc này, thôi đi, đừng buồn phiền, chúng không giết mất người đàn bà của ông, đấy mới là điều cốt yếu.

D' Artagnan liền hỏi:

- Cụ có biết tí chút nào cái kẻ đã điều khiển cái cuộc viễn chinh âm ty địa ngục này không?

- Tôi chả biết gì về hắn.

- Nhưng một khi hắn đã nói với cụ thì cụ cũng nhìn thấy hắn chứ?

- À, ông muốn hỏi lão về đặc điểm của hắn chứ gì?

- Vâng.

- Một kẻ rắn sắt lại, da ngăm nâu, ria mép đen, mắt đen, dáng vẻ một nhà quý tộc.

- Đúng nó rồi? - D' Artagnan kêu lên - Vẫn lại nó! Luôn luôn nó. Hình như nó là con quỷ ám của tôi! Còn tên kia?

- Tên nào?

- Tên lùn tịt ấy.

- Ồ, tôi đảm bảo hắn không thuộc loại quyền quý. Vả lại, hắn không đeo gươm, những kẻ khác đối xử với hắn có vẻ khinh thường lắm.

- Chắc một tên hầu nào đó - D' Artagnan lẩm nhẩm - Ôi người phụ nữ tội nghiệp! Tội nghiệp cho nàng. Chúng nó đã làm gì nàng?

- Ông đã hứa giữ kín cho tôi đấy nhé - Ông già nói.

- Và cháu xin hứa lại với cụ lần nữa. Cụ yên tâm. Cháu là một nhà quý tộc. Một nhà quý tộc chỉ có một lời hứa và cháu đã hứa với cụ rồi.

D' Artagnan, lòng sầu não, trở lại con đường ra bến đò, lúc thì chàng không thể tin nổi đấy là bà Bonacieux và hy vọng hôm sau sẽ gặp lại nàng ở điện Louvre, lúc chàng lại e ngại nàng có chuyện dan díu với một người nào khác và tên ghen tuông ấy đã bắt quả tang và đem nàng đi(1), chàng phân vân, chàng rầu rĩ, chàng tuyệt vọng.

- Ôi, giá ta có các bạn ta ở đấy! chàng kêu lên - Ít nhất ta cũng sẽ có hy vọng tìm lại được nàng nhưng ai biết được bây giờ chính họ ra sao?

Đã gần nửa đêm. Phải tìm gặp lại Planchet thôi. D' Artagnan lần lượt gõ cửa tất cả các quán rượu mà chàng thấy còn ánh đèn le lói ở bên trong nhưng chẳng quán nào thấy Planchet cả.

Đến quán thứ sáu, chàng bắt đầu nghĩ tìm kiếm thế này chẳng qua cũng chỉ cầu may thôi. D' Artagnan chỉ hẹn với người hầu đến sáu giờ sáng mai, thì dù lúc này nó ở đâu đi nữa vẫn là quyền của nó.

Hơn nữa, chàng chợt nảy ra ý nghĩ, cứ nán lại quanh quẩn nơi sự cố xảy ra, có khi lại thu thêm được một điều gì đó làm sáng tỏ thêm cái vụ bí ẩn này. Thế là chàng dừng lại ở quán thứ sáu, gọi một chai vang thượng hạng, dựa tay trong góc tối nhất và quyết định ngồi đợi như thế đến sáng hôm sau, nhưng lần này nữa chàng lại hy vọng hão huyền và cho dù có hết sức lắng tai, chàng cũng chỉ nghe thấy giữa những tiếng nguyền rủa là những lời nhạo báng, chửi bới, lời qua tiếng lại giữa đám thợ chuyển, người hầu và phu xe hợp thành cái xã hội đáng kính mà chàng đang tham gia này, chứ chẳng có gì có thể giúp chàng lần ra dấu vết người đàn bà tội nghiệp bị bắt cóc.

Sau khi đã nốc hết chai vang do chẳng có việc gì làm và để khỏi dấy lên những nghi ngờ, chàng đành miễn cưỡng tìm trong góc mình ngồi, một tư thế thuận lợi nhất để ngủ thiếp đi đã, muốn ra sao thì ra.

D' Artagnan mới hai mươi tuổi, và ở cái tuổi ấy, giấc ngủ có những quyền vĩnh cửu để đòi hỏi một cách khẩn thiết cả đối với những con tim tuyệt vọng nhất.

Khoảng sáu giờ sáng, D' Artagnan thức dậy với một nỗi khó chịu thường thấy lúc sáng sớm sau một đêm tồi tệ. Chàng rửa ráy qua loa, kiểm tra xem người ta có lợi dụng chàng ngủ lấy cắp mất gì không, và thấy chiếc nhẫn kim cương vẫn trên ngón tay, ví tiền vẫn nguyên trong túi, súng ngắn vẫn ở đai lưng, liền đứng lên trả tiền chai rượu rồi đi ra để xem sáng nay việc tìm kiếm tên hầu của mình có may mắn hơn đêm qua không. Quả nhiên, thứ đầu tiên chàng trông thấy trong màu sương ẩm ướt và nhờ xám chính là tên Planchet thật thà, tay dắt hai con ngựa, đang đợi chàng ở ngoài cửa một quán rượu nhỏ tồi tàn mà giá D' Artagnan có đi qua trước cửa cũng không ngờ nó đang tồn tại.

Chú thích:
(1) Ở đây, tác giả lại tự mâu thuẫn với mình, vì khi nghe cụ già kể, D' Artagnan đã kêu lên "lại đúng vẫn nó" tức kẻ ở Mãng, tức là Bá tước Rochefort, kẻ đã bắt cóc bà Bonacieux lần trước.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 25

Porthos.

Đáng lẽ về thẳng nhà D' Artagnan lại xuống ngựa trước cửa nhà ông De Treville, leo vội lên cầu thang, lần này, chàng quyết định kể cho ông nghe tất cả những gì vừa diễn ra. Chắc chắn, ông sẽ cho chàng những lời khuyên tốt trong toàn bộ vụ này.

Rồi, vì ông De Treville hầu như gặp Hoàng hậu hàng ngày, biết đâu ông lại chẳng thể moi được ở Hoàng hậu tin tức nào đấy về người đàn bà tội nghiệp mà nữ chúa của nàng hẳn phải đền đáp lòng tận tụy của nàng với mình.

Ông De Treville lắng nghe câu chuyện chàng trai kể với mức độ nghiêm trọng chứng tỏ ông nhìn thấy một cái gì khác với chuyện dan díu yêu đương, trong toàn bộ cuộc phiêu lưu này.

Rồi khi, D' Artagnan đã kể xong, ông nói:

- Hừm, tất cả chuyện này, cách xa một dặm cũng đã ngửi thấy mùi của Giáo chủ.

- Nhưng phải làm gì? - D' Artagnan hỏi.

- Không làm gì hết, tuyệt đối không, lúc này, chỉ có rời khỏi Paris như ta đã bảo anh đó, càng sớm càng tốt. Ta sẽ gặp Hoàng hậu, ta sẽ kể lại mọi tình tiết về sự biến mất của người phụ nữ tội nghiêp, chắc bà còn chưa biết gì, những tình tiết ấy sẽ dẫn dắt bà phải làm gì về phía bà, và khi anh trở về, có thể ta sẽ có một tin tốt lành nào đó để nói với anh. Cứ yên tâm ở ta.

D' Artagnan biết rằng, dù là dân Gátxcông, ông De Treville không có thói quen hứa hẹn và khi tình cờ ông đã hứa, thì ông còn giữ lời hứa hơn đã ngỏ. Chàng liền chào ông, đầy lòng biết ơn cả trong quá khứ lẫn với tương lai, và ông đại úy đáng kính về phần mình cũng cảm thấy một mối thiện cảm mãnh liệt đối với chàng trai đến là can trường và kiên định, và trìu mến bắt tay chúc chàng lên đường may mắn.

D' Artagnan quyết định thực hiện ngay lúc này những lời khuyên của ông De Treville, rẽ về đường Phu đào huyệt, lo việc gói ghém quần áo. Về tới gần nhà, chàng nhận ra lão Bonacieux trong quần áo buổi sáng, đang đứng ở ngưỡng cửa. Tất cả những gì mà gã Planchet cẩn tắc đã nói với chàng đêm trước về tính tình nham hiểm của lão chủ nhà lúc này lại hiện ra trong đầu. D' Artagnan đang nhìn lão chăm chú hơn bao giờ hết. Thật quả, ngoài cái màu nhợt nhạt vàng nhờ bệnh hoạn chỉ rõ mật thấm tràn trong máu, mà cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên, D' Artagnan còn nhận ra một cái gì đó tráo trở nham hiển nơi những nếp nhăn trên mặt lão. Một tên bịp bợm không cười giống như một người thật thà, một kẻ đạo đức giả không khóc bằng những giọt nước mắt của người trung thực. Mọi giả tạo đều là một cái mặt nạ, và cho dù cái mặt nạ có làm khéo đến đâu, chỉ cần hơi chú ý, người ta vẫn phân biệt được với mặt thật.

Với D' Artagnan, hình như lão có đeo một cái mặt nạ thật và lại là cái mặt nạ khó coi nhất. Do đó, không thoát ra khỏi sự ghê tởm đối với con người đó, chàng đang định đi qua trước mặt mà không nói gì, thì giống như đêm trước, lão Bonacieux gọi chàng:

- Ê này, chàng trai trẻ - lão nói với chàng - Hình như đêm qua chúng ta ngủ mòng mắt? Bẩy giờ sáng rồi, khỉ thật! Tôi thấy hình như ông hơi đảo lộn những thói quen cũ, ông trở về nhà vào lúc người khác ra đi.

- Ngài Bonacieux ạ, người ta sẽ không thể trách ngài như vậy - chàng trai nói - vì ngài là mẫu mực cho những con người nền nếp mà. Đúng là khi người ta có một cô vợ trẻ đẹp, người ta cần gì phải tìm hạnh phúc ở đâu. Chính hạnh phúc tự khắc nó tìm đến mình có phải không ngài Bonacieux?

Bonacieux tái người đi như một xác chết, nhăn nhó cười:

- Chà, chà! Ông là một tay vui tính đấy. Nhưng đêm vừa rồi ông chạy nhông đi đâu thế, hở chú mình? Hình như đi ngang về tắt là không hay đâu đấy.

D' Artagnan cúi xuống nhìn đôi ủng đầy bùn của mình, nhưng đồng thời cũng nhìn luôn giầy tất lão hàng xén. Có thể nói chúng cùng chung một giuộc, của chàng và của lão đều vấy bẩn cùng một thứ bùn.

Thế là đột nhiên một ý nghĩ đi xuyên qua đầu chàng. Cái lão tóc hoa râm lùn tịt, to bè, một loại người hầu, mặc sẫm màu, bị bọn đeo gươm đi hộ tống đối xử miệt thị đích thực là Bonacieux chứ còn ai nữa. Tên chồng đã chủ mưu việc bắt cóc vợ mình.

D' Artagnan tự nhiên thèm muốn khủng khiếp nhảy chồm lên cổ họng lão hàng xén bóp hắn chết ngay, nhưng, như đã nói, chàng là một chàng trai rất thận trọng nên kìm giữ được. Tuy nhiên sự đảo lộn diễn ra trên mặt chàng vẫn cứ lồ lộ khiến Bonacieux hoảng và định thử lùi lại, nhưng lão lại ở ngay trước cửa mà cánh cửa lại đóng, khiến lão buộc phải đứng nguyên tại chỗ.

- Ra thế đấy. Nhưng con người tử tế ạ, ông lại đùa rồi - D' Artagnan nói - Tôi thấy hình như nếu đôi ủng của tôi cần phải lau chùi thì giầy, tất của ông cũng đòi bàn chải giúp đấy. Về phần mình, chắc ngài cũng lang thang phải không ngài Bonacieux? Chà, Mẹ kiếp! Như thế thì không thể nào tha thứ cho một người ở vào lứa tuổi ông, thêm nữa lại có một người vợ trẻ đẹp như vợ ông.

- Ôi, lạy Chúa, không phải thế - Bonacieux nói - mà hôm qua tôi đã ở Thánh Măngđê để nắm được tin tức về một con ở, không có nó tuyệt đối không được, và vì đường sá quá tồi, nên tôi đã tha cả đám bùn này về mà chưa có thì giờ làm sạch.

Địa điểm mà Bonacieux chỉ ra là lão đã đi đến đấy, lại là bằng chứng mới làm cho những nghi ngờ của D' Artagnan thêm vững vàng. Bonacieux nói đến Thánh Măngđê, bởi vì Thánh Măngđê ngược lại hoàn toàn phía Saint-Clu.

Khả năng xảy ra như thế làm chàng vơi dịu đi một phần. Nếu Bonacieux biết vợ mình hiện đang ở đâu vẫn có thể dùng những biện pháp cực đoan cậy răng lão hàng xén để tìm ra bí mật. Chỉ còn việc biến khả năng đó thành tất yếu.

- Xin lỗi, ông Bonacieux thân mến, nếu tôi xử sự với ông hơi khiếm nhã - D' Artagnan nói - nhưng không gì khát bằng đêm không được ngủ, tôi đang khát phát điên đây, vậy cho phép tôi vào uống cốc nước trong nhà ông nhé, ông cũng rõ, giữa hàng xóm với nhau, việc đó cũng tự nhiên thôi.

Và chẳng đợi chủ nhà cho phép, D' Artagnan cứ vào và liếc mắt nhanh nhìn cái giường, cái giường vẫn phẳng phiu.

Bonacieux không nằm ngủ, vậy là lão chỉ vừa mới về nhà được một hai giờ thôi. Lão đã bám theo vợ lão đến tận nơi người ta dẫn vợ lão đến, hoặc ít nhất cũng đến trạm đầu tiên.

D' Artagnan vừa uống cạn cốc nước vừa nói:

- Cám ơn ngài Bonacieux nhé. Tôi chỉ cần ở ông có thế thôi. Bây giờ tôi về nhà tôi đây. Tôi sẽ bảo Planchet đánh ủng cho tôi, khi nào nó làm xong, nếu ông muốn, tôi sẽ sai nó sang đánh giầy cho ông.

Và chàng rời nhà tay hàng xén còn đang hết sức ngỡ ngàng về sự chia tay kỳ lạ đó và tự hỏi có phải đã đâm đầu vào bẫy của chính mình không.

Lên đến trên thang gác, chàng thấy Planchet đang hốt hoảng. Thoạt trông thấy chủ mình, gã đã kêu lên:

- Ôi, ông chủ, lại có chuyện rồi, mà tôi thấy ông về muộn quá đấy?

- Có chuyện gì vậy - D' Artagnan hỏi.

- Ồ, tôi cho ông chủ đoán một trăm, không, cho hẳn một nghìn lần đấy xem tôi đã thay ông khi vắng mặt tiếp ai đến thăm nào?

- Khi nào?

Nửa giờ trước đây, khi ông còn ở nhà ông De Treville ấy.

- Vậy là ai đến, thôi nói đi nào.

- Ông De Cavoa.

- Ông De Cavoa ư?

- Đích thân ông ấy.

- Ông đại úy cận vệ của Đức ông?

- Chính ông ấy.

- Đến bắt ta?

- Tôi nghĩ vậy, thưa ông, mặc dầu vẻ mềm mỏng của ông ta.

- Mi bảo lão ta mềm mỏng?

- Nghĩa là như mật ong luôn, thưa ông.

- Đúng thế chứ?

- Ông ta nói mình đến là do Đức Giáo chủ phái đến, có nhã ý mời ông theo ông ta đến Hoàng cung.

- Thế mi trả lời thế nào?

- Là việc ấy không thể được, vì ông có ở nhà đâu, ông ta có thể thấy đấy.

- Thế lão ta bảo sao?

- Rằng, nội nhật hôm nay, ông đừng quên đến nhà ông ấy, rồi còn ghé tai nói thêm: "Bảo với chủ anh là Đức ông hoàn toàn biệt đãi chủ anh, tương lai tốt đẹp của chủ anh có lẽ phụ thuộc vào cuộc tiếp kiến này".

- Cái bẫy của Giáo chủ hơi vụng về. - Chàng mỉm cười nói.

- Thì tôi cũng thấy đó là cái bẫy chứ, và tôi trả lời khi ông trở về chắc ông sẽ tiếc lắm. "Thế ông ấy đi đâu?" ông De Cavoa hỏi tôi. Tôi trả lời: "Đi Troa vùng Sămpanhơ", "Ông ấy đi bao giờ? " "Tối hôm qua".

- Planchet, anh bạn của ta - D' Artagnan ngắt lời - mi thực sự là của quý của ta đấy.

- Ông biết không, tôi nghĩ nếu ông muốn gặp ông De Cavoa ông cứ việc bảo rằng ông chẳng đi đâu cả, rằng tôi nói dối đấy thôi, vẫn còn kịp chán, vì tôi không phải là nhà quý tộc, tôi có thể nói dối mà.

- Yên tâm đi, Planchet, mi sẽ giữ được danh tiếng một con người chính trực. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ đi.

- Tôi cũng đang định khuyên ông chủ như vậy. Nhưng ta đi đâu tôi không quá tò mò đấy chứ?

- Mẹ kiếp! Cứ đi ngược lại phía mi nói ta đã đi ấy. Vả lại, chắc mi không kém sốt ruột biết tin về Mousqueton, Grimaud và Bazin như ta muốn biết xem Athos, Porthos và Aramis ra sao chứ?

- Muốn quá chứ - Planchet nói. - Ông muốn lúc nào là tôi đi ngay. Không khí ở tỉnh nhỏ tôi tin là tốt hơn cho chúng ta ở Paris. Vậy nên…

- Vậy thì, gói ghém áo quần đi, Planchet và ta đi. Ta sẽ đi trước, hai tay đút túi, để đừng ai nghi ngờ. Mi sẽ đuổi kịp ta ở dinh trại cận vệ. À, Planchet này, ta tin mi nói đúng về lão chủ nhà đấy, chắc hẳn lão là một tên vô lại kinh tởm rồi.

- Ồ, xin ông chủ cứ tin tôi, khi tôi nói với ông điều gì, tôi là thầy tướng đấy.

D' Artagnan xuống trước như đã thỏa thuận, và để khỏi phải băn khoăn điều gì, chàng rẽ tới nhà ba bạn mình lần cuối nhưng cũng chẳng nhận được tin gì. Chỉ có mỗi một bức thư thơm nức và chữ viết rất nhỏ và bay bướm gửi cho Aramis. D' Artagnan nhận chuyển thư bộ. Mười phút sau, Planchet đuổi kịp chàng ở chuồng ngựa dinh trại cận vệ. Để khỏi mất thì giờ, D' Artagnan tự đóng lấy yên cương.

- Tốt lắm - chàng bảo Planchet, khi gã đã buộc gói quần áo vào túi hành trang - Bây giờ đóng yên cương cho ba con ngựa rồi ta đi.

- Ông tin mỗi người hai ngựa, ta sẽ đi nhanh hơn ư? - Planchet hỏi, sẽ tinh quái.

- Không, thưa ông đùa tồi - D' Artagnan trả lời - nhưng với bốn con ngựa, chúng ta có thể đem ba ông bạn của ta về, nếu ta tìm thấy họ còn sống.

- Nếu như thế sẽ là quá may đấy - Planchet trả lời - nhưng rất cuộc không nên thất vọng ở sự nhân từ của Thượng đế.

- Amen! - D' Artagnan nói và phốc lên ngựa.

Và cả hai ra khỏi dinh trại cận vệ, đến đầu phố, tách nhau ra, người đi trước, qua trạm Vi-lét, và người kia qua trạm Mông Mac ra khỏi Paris rồi ra ngoài gặp lại nhau ở Saint-Denis, một phương sách chiến lược được thực hiện cùng độ chính xác, đáng được khen thưởng vì kết quả tốt đẹp. D' Artagnan và Planchet cùng vào Piefit một lúc.

Phải nói Planchet ban ngày can đảm hơn ban đêm. Tuy nhiên tính thận trọng tự nhiên chẳng rời gã một phút. Gã không quên bất kỳ sự cố nào trong cuộc du hành lần trước, và luôn coi tất cả những ai gã chạm trán ở trên đường là kẻ thù. Việc đó dẫn đến gã không rời chiếc mũ trong tay khiến cho D' Artagnan sợ do sự lễ phép thái quá của người hầu, người ta coi mình là người tầm thường, nên đã quở trách Planchet thậm tệ.

Tuy nhiên, quả thật hoặc những người qua đường cảm động vì sự nhã nhặn của Planchet, hoặc lần này chẳng có ai rình rập trên đường, hai người tới Săngtily không gặp bất trắc gì và xuống ngựa ở lữ quán Saint-Martin lớn, vẫn cái lữ quán họ đã dừng chân chuyến đi trước.

Chủ quán thấy một chàng trai, theo sau có một tên hầu tay dắt hai ngựa, liền trịnh trọng tiến ra ngưỡng cửa. Mà vì đã đi được mười một dặm, nên D' Artagnan cho là nên nghỉ, dù Porthos có còn trong quán hay không còn đấy nữa. Rồi có thể sẽ là thiếu thận trọng nếu chưa chi đã hỏi xem chàng ngự lâm kia ra sao, nghĩ vậy, D' Artagnan xuống ngựa, giao ngựa cho người hầu rồi vào một phòng dành cho những ai muốn ngồi riêng, gọi một chai vang loại thượng hạng và một bữa điểm tâm càng ngon càng tốt, làm tăng thêm thiện cảm của chủ quán vốn là đã có từ lúc mới gặp lữ khách.

Vì thế, D' Artagnan được phục vụ nhanh chóng lạ kỳ.

Binh đoàn cận vệ tuyển mộ trong số đệ nhất quý tộc của vương quốc, và D' Artagnan với một người hầu theo sau, lại đi du hành với bốn người ngựa đẹp, mặc dầu bộ đồng phục giản dị vẫn không khỏi khiến người ta trọng nể. Chủ quán muốn đích thân phục vụ. Thấy thế D' Artagnan bảo mang ra hai chiếc cốc và gợi chuyện.

- Thật tình, ông chủ thân mến ạ - D' Artagnan rót đầy hai cốc và nói - tôi đã gọi loại vang hảo hạng của ông, và nếu ông lừa tôi, ông sẽ bị trừng phạt ở chỗ ông mắc tội, vì tôi ghét uống một mình, ông sẽ uống cùng tôi. Ông hãy nâng cốc và ta cùng uống. Ta uống chúc cái gì nhỉ, ở cái gì không phật lòng ai được nhỉ? À ta uống cho sự thịnh vượng của lữ quán ông.

- Quý ông làm cho tôi vinh dự quá - chủ quán nói - tôi xin thành thực cảm ơn lời chúc của ông.

- Nhưng xin ông đừng nhầm đấy - D' Artagnan nói - trong lời chúc của tôi, nó nhuốm màu ích kỷ nhiều hơn là ông nghĩ đấy.

- Có những quán làm ăn thịnh vượng, khách hàng được tiếp đón chu đáo, trong những lữ quán đang sa sút, tất cả đều rối tinh lên, và khách trọ thành nạn nhân của sự lúng túng của người chủ. Mà tôi lại đi du hành nhiều, nhất là trên con đường này, tôi muốn thấy tất cả các ông chủ quán đều làm ăn phát đạt.

- Quả thật - chủ quán nói - hình như đây không phải lần đầu tiên tôi có vinh dự được gặp ngài.

- Ồ, tôi qua Săngtily có lẽ tới chục lần rồi ấy chứ và trong số chục lần ấy, ít ra tôi cũng dừng lại ở quán ông ba bốn lần. Ông nhớ chứ, tôi vừa ở quán này cách đây mười hai ngày gì đó. Tôi dẫn đường cho mấy người bạn tôi, mấy ông ngự lâm quân, rồi một ông cậy mình là ngự lâm quân cãi lộn với một người lạ, người này chẳng biết kiếm cớ gì gây sự với ông ấy.

- À, thôi đúng rồi! - Chủ quán nói - Tôi nhớ hết chuyện đó.

- Có phải là ông Porthos quý ngài muốn nói với tôi không?

- Đúng, đấy là tên người bạn đồng hành của tôi. Lạy Chúa, ông chủ thân mến, nói cho tôi biết nào, bạn tôi có gặp chuyện không may gì không?

- Nhưng quý ngài chắc đã rõ ông ấy không thể tiếp tục lên đường.

- Quả vậy, ông ấy có hứa đuổi kịp chúng tôi, nhưng chúng tôi không gặp lại.

- Ông ấy đã cho chúng tôi cái vinh dự là ở lại đây.

- Sao? Ông ấy đã cho ông vinh dự ở lại đây?

- Vâng, thưa ông, trong lữ quán này. Chúng tôi còn rất lo ngại nữa.

- Về chuyện gì?

- Về các khoản chi dùng của ông ấy.

- Nhưng ông ấy dùng gì thì ông ấy sẽ trả chứ.

- Ôi, thưa ông, ông đúng là bôi cao xoa vào máu tôi rồi! Chúng tôi đã ứng trước những khoản lớn, và sáng nay nữa, nhà phẫu thuật tuyên bố với chúng tôi, nếu ông Porthos không trả tiền ông ấy, chính tôi phải chịu phạt, bởi vì chính tôi cho người đi tìm ông ấy.

- Nhưng Porthos bị thương ư?

- Thưa ông, tôi không thể nói ra với ông.

- Sao, ông không thể nói với tôi? Ông chắc phải biết rõ hơn ai hết chứ.

- Vâng, nhưng trong tình trạng hiện thời của chúng tôi, chúng tôi không nói tất cả những gì mình biết được thưa ông, nhất là khi người ta đã báo trước tai của chúng tôi đảm bảo cho lưỡi của chúng tôi.

- Vậy tôi có thể gặp Porthos không?

- Được chứ, thưa ông. Ông hãy theo cầu thang lên tầng một gõ cửa phòng số 1. Có điều ông phải báo trước là chính ông.

- Sao, tôi báo trước là chính tôi?

- Vâng, bởi ông có thể gặp chuyện rủi.

- Chuyện rủi nào xảy đến với tôi?

- Ông Porthos có thể tưởng lầm ông là người nhà này, và trong lúc tức giận, có thể đâm cho ông một mũi gươm xuyên qua người hoặc bắn vỡ sọ ông.

- Thế ông đã làm gì ông ấy?

- Chúng tôi chỉ đòi tiền ông ấy thôi.

- Ôi đồ quỷ! Tôi hiểu chuyện rồi. Đòi tiền trong khi không còn nữa thì Porthos luôn bậy bả rồi. Nhưng tôi biết chắc là ông ấy còn nhiều tiền kia mà.

- Thì tôi cũng nghĩ như thế, thưa ông. Nhà hàng chúng tôi vốn rất quy củ, tính toán hàng tuần, được khoảng tám ngày chúng tôi đưa ông ấy hóa đơn, nhưng hình như chúng tôi đưa không đúng lúc, vừa mới nói được câu đầu về chuyện thanh toán, ông ấy đã chửi vang lên, đúng là đêm trước ông ấy đánh bạc thật.

- Thế nào, đánh bạc đêm trước. Với ai?

- Ôi, Chúa ơi, ai biết được? Với một quý ông đi qua, và ông Porthos ngỏ ý chơi bạc với ông kia.

- Thế là kẻ khốn khổ nhẵn túi?

- Luôn cả con ngựa nữa thưa ông, vì khi người lạ mặt sắp ra đi, tôi thấy người hầu của ông ta đóng yên vào con ngựa của ông Porthos. Lúc đó chúng tôi cũng đưa ra nhận xét với người khách lạ, nhưng người này trả lời chúng tôi đừng dây vào chuyện không liên quan đến mình, và con ngựa đó là của ông ta. Chúng tôi cũng đã báo ngay cho ông Porthos điều gì vừa xảy ra, nhưng ông ấy bảo chúng tôi là đồ xấc láo mới đi nghi ngờ lời nói của một nhà quý tộc và rằng một khi ông ta đã nói con ngựa ấy là của ông ta, ắt nó là của ông ta.

- Tôi thừa biết điều đó rồi! - D' Artagnan lẩm nhẩm.

Ông chủ quán tiếp tục:

- Thế là tôi cho người đến nói với ông ấy rằng vì hình như chúng tôi không thể đi đến một thỏa thuận nào về việc thanh toán, tôi hy vọng ít nhất ông cũng tỏ ra biết điều, bạn cho đồng nghiệp của tôi ở lữ quán Chim Phượng hoàng cái ân huệ đón ông sang bên đó. Nhưng ông Porthos đáp lại rằng, vì quán của tôi tốt nhất, ông muốn lưu lại đây. Câu trả lời quá tâng bốc ấy khiến tôi không dám vật nài ông đi nữa. Tôi chỉ dám giới hạn xin ông trả lại căn phòng là phòng đẹp nhất lữ quán, vui lòng lên căn phòng xinh xắn ở tầng ba. Nhưng ông Porthos nói lúc nào ông cũng ngóng đợi người tình của ông là một trong những phu nhân quyền quý nhất triều đình, tôi đành phải hiểu rằng căn phòng mà ông đem lại cho tôi vinh dự là đã cư trú ở đấy chắc còn tồi tàn hơn nhiều đối với một nhân vật như thế. Tuy nhiên, dù nhận ra điều ông nói là hoàn toàn có thật tôi vẫn cứ vật nài ông, nhưng rồi chẳng thèm bàn cãi gì với tôi ông vớ luôn khẩu súng ngắn đặt lên bàn ngủ và tuyên bố chỉ cần nói ướm một câu về việc chuyển phòng dù sang phòng khác hay quán khác, ông sẽ bắn vỡ sọ kẻ nào dại dột đi xen vào chuyện chỉ liên quan đến ông, vì thế, từ lúc đó, không ai dám vào phòng ông, nếu không phải tên đầy tớ của ông.

- Vậy Mousqueton cũng ở đây?

- Vâng thưa ông, hắn đi đâu đó năm ngày rồi trở về mặt mũi cau có. Hình như trong chuyến đi hắn cũng gặp những chuyện bực bội. Khốn thay, hắn nhanh nhẹn tháo vát hơn chủ hắn cho nên cái gì cần cho chủ là hắn lục tung lên bằng được, vì nghĩ nếu hỏi có thể lại bị từ chối, hắn cứ lấy phứa mà chẳng hỏi ai.

- Thật ra - D' Artagnan trả lời - tôi luôn nhận thấy ở Mousqueton một lòng tận tụy và trí thông minh rất cao.

- Có thể đúng đấy, thưa ông, nhưng giả thử mà mỗi năm hắn đến tìm tôi bốn lần thì sau khi tiếp xúc với trí thông minh và lòng tận tâm ấy, chắc chắn tôi sẽ khuynh gia bại sản.

- Không, Porthos sẽ trả ông.

- Hừm! - Chủ quán tỏ vẻ nghi ngờ.

- Porthos là người được một vị đại phu nhân yêu quý, bà ta sẽ không để ông ấy trong tình trạng lúng túng và khốn khó đang mắc với ông đâu.

- Nếu như tôi dám nói ra điều tôi tin trong chuyện này…

- Ông tin thế nào?

- Còn hơn là tin, mà là biết.

- Điều mà ông biết?

- Mà còn biết chắc chắn nữa.

- Nhưng ông biết chắc chắn điều gì?

- Tôi nói là tôi biết cái bà đại phu nhân ấy.

- Ông?

- Vâng, tôi.

- Thế làm thế nào ông biết được?

- Ồ, thưa ông, liệu tôi có thể tin được tính kín đáo của ông không?

- Ông nói đi, xin thề danh dự của người quý tộc, ông sẽ không phải hối tiếc về sự tin cậy của ông đâu.

- Đó, ông xem, sự lo lắng cũng làm được khối việc đấy chứ.

- Ông đã làm được những việc gì?

- Ồ, chẳng có gì ngoài việc một chủ nợ có quyền làm.

- Rốt cuộc là cái gì?

- Ông Porthos trao cho chúng tôi một bức thư cho bà nữ Công tước đó, và dặn chúng tôi bỏ vào hòm thư. Gã đầy tớ của ông ấy chưa về. Vì ông ấy không thể rời khỏi phòng mình, ông ấy phải nhờ chúng tôi.

- Rồi sao?

- Đáng lẽ bỏ thư vào hòm thư, việc ấy không bao giờ chắc chắn cả, nhân một tên hầu bàn của tôi có việc phải đi Paris, tôi ra lệnh cho nó mang thẳng bức thư đến tận tay bà Công tước.

- Như thế là làm tròn ý định của ông Porthos đã hết sức tin cậy trao cho chúng tôi bức thư, có phải không?

- Gần như thế.

- Thế ông có biết cái bà đại phu nhân ấy là thế nào không?

- Không, tôi có được nghe Porthos nhắc đến, có thế thôi.

- Ông có biết cái bà tự nhận là nữ Công tước ấy là người thế nào không?

- Tôi xin nhắc lại, tôi không quen biết bà ta.

Đó là bà biện lý(1) già ở Satơlê, tên là bà Coquenard, bà ta ít nhất cũng năm mươi tuổi và vẫn có vẻ còn ghen tuông ghê lắm.

- Tôi thấy điều đó khá lạ lùng, một nữ Quận chúa mà lại cư trú ở phố Lũ gấu.

- Làm sao ông biết chuyện đó?

Bởi vì bà ta nổi cơn tam bành khi nhận bức thư, và nói rằng ông Porthos là một kẻ thay lòng đổi dạ, rằng lại vì một con mụ nào nữa mà xơi nhát gươm kia.

Nhưng ông ấy bị xơi một nhát gươm thật à?

- Ôi, lạy Chúa! Tôi vừa nói gì đấy nhỉ?

- Ông nói là Porthos bị xơi một nhát gươm.

- Vâng, nhưng ông ấy cấm ngặt tôi không được nói.

- Tại sao vậy?

- Sao ư? Thưa ông, tại vì ông ấy đã huênh hoang sẽ đâm xiên qua cái người lạ mặt mà ông để mặc cho tranh cãi nhau ấy, và rồi chính cái người lạ mặt kia, trái lại, đã cho ông Porthos lăn kềnh ra đất, bất chấp mọi thói anh hùng rơm(2) của ông ấy. Mà vì ông Porthos là một người quá tự phụ, nên trừ đối với bà nữ Công tước mà ông tưởng làm bà ta thích thú bằng việc kể những chuyện phiêu lưu của mình, ông không muốn thú nhận với bất kỳ ai rằng ông đã xơi một nhát gươm.

- Như thế, tức là một nhát gươm khiến ông ta nằm liệt giường?

- Và một nhát gươm bậc thầy, tôi xin cam đoan với ông như vậy. Chắc linh hồn bạn ông phải đóng chốt trong thể xác ông ấy.

- Ông có mặt ở đây à?

- Thưa ông, tôi đi theo họ là do hiếu kỳ, thành thử tôi được nhìn thấy trận đấu, còn các đấu sĩ lại không nhìn thấy tôi.

- Thế trận đấu diễn ra thế nào?

- Ồ! Không lâu đâu, tôi đảm bảo như thế. Họ đều giữ thế thủ, người lạ mặt làm một đòn nhử, rồi doãi chân, tất cả quá nhanh đến nỗi ông Porthos mới định đỡ thì gần một gang tay sắt đã găm vào ngực ông rồi. Ông ngã ngửa ra đằng sau. Người lạ mặt gí ngay mũi gươm vào họng ông. Ông Porthos thấy mạng mình đã trong tay địch thủ, liền xin thua. Người lạ hỏi tên ông và khi biết tên ông là Porthos chứ không phải D' Artagnan, liền đỡ ông ấy dậy dìu về lữ quán, rồi lên ngựa và biến mất.

- Như thế tức là D' Artagnan mới là người hắn ta thù hận?

- Hình như thế.

- Và ông có biết hắn ta thế nào rồi không?

- Không, cho đến khi ấy, tôi chưa bao giờ thấy ông ta, và từ bấy, tôi chưa hề gặp lại.

- Tốt lắm, tôi đã biết được điều tôi muốn biết. Ông bảo hiện thời ông Porthos đang ở phòng số 1 tầng một?

- Vâng, phòng đẹp nhất quán trọ, đáng lẽ tôi đã cho thuê chục lần rồi ấy chứ.

- Thôi được, ông cứ yên tâm - D' Artagnan vừa cười vừa nói - Porthos sẽ trả ông bằng tiền của nữ Công tước Coquenard.

- Ôi thưa ông, bà biện lý hay bà công tước cũng được, miễn là bà ta nới dải buộc túi tiền. Nhưng bà ấy đã trả lời dứt khoát là bà ấy chán những đòi hỏi và sự không chung thủy của ông Porthos lắm rồi, và sẽ không gửi cho ông ta một xu nào nữa.

- Và ông nói lại với vị khách trọ của mình chứ?

- Chúng tôi phải giữ chứ, nếu không ông ấy sẽ biết chúng tôi chuyển thư bằng cách nào.

- Và ông ấy cứ thoải mái đợi tiền?

- Ồ, lạy Chúa, vâng! Mới hôm qua, ông ta lại viết, nhưng lần này là tên đầy tớ bỏ vào thùng thư.

- Và ông nói bà biện lý già và xấu ư!

- Ít nhất năm mươi tuổi, và chẳng đẹp chút nào, theo như Patô nói.

- Nếu thế, thì ông yên tâm đi, bà ta chả thoát khỏi mềm lòng, vả lại, Porthos không thể nợ ông nhiều lắm.

- Sao, không nhiều lắm ư? Hai chục đồng vàng rồi đấy, chưa tính tiền thuốc. Ôi, ông ấy chẳng chịu từ bỏ thứ gì, quen sống thoải mái rồi mà.

- Không sao đâu! Nếu tình nhân của ông ta bỏ rơi ông ta, ông ta sẽ tìm, được các bạn bè, tôi đảm bảo như vậy. Như thế, ông chủ quán thân mến ạ, đừng lo ngại gì cả, ông cứ tiếp tục cung ứng cho ông ấy tất cả những gì đang cần thiết đi.

- Ông đã hứa với tôi là không nói gì về bà biện lý và không nói ra một câu nào về vết thương rồi đấy nhé.

- Đã thỏa thuận thế rồi, tôi đã hứa mà.

- Ông phải biết, ông ấy sẽ giết tôi đấy!

- Ông đừng sợ, ông ấy không đến nỗi hung dữ như bộ dạng ông ấy đâu.

Vừa nói, D' Artagnan vừa leo lên cầu thang, để lại ông chủ quán đã hơi yên tâm về hai điều ông ta hình như hết sức quan tâm: món nợ và mạng sống của ông ta.

Phía trên cầu thang, chiếc cửa dễ nhận ra nhất ở hành lang, trên cửa kẻ chữ số 1 khổng lồ bằng sơn đen, D' Artagnan gõ một tiếng, bên trong có tiếng mời cứ vào, và chàng bước vào.

Porthos đang nằm và đang chơi bài với Mousqueton để luyện tay chơi, trong khi đó một xiên gà gô đang quay trên lửa và ở mỗi góc của một lò sưởi lớn, là hai cái chảo trên hai bếp lò đang sôi sùng sục tỏa ra thơm lừng mùi thỏ nấu sốt vang và cá om. Ngoài ra, trên bàn và trên mặt đá hoa chiếc tủ ngăn kéo, đầy vỏ chai.

Nhìn thấy bạn, Porthos reo lên mừng rỡ và Mousqueton kính cẩn đứng lên nhường chỗ cho chàng, lui ra kiểm tra hai cái chảo.

- Ôi, Mẹ kiếp! Là cậu ư - Porthos nói với D' Artagnan - Rất mừng là cậu đã đến, nhưng xin lỗi nếu như mình không ra đón cậu được. Nhưng Porthos vừa nhìn D' Artagnan vừa nói tiếp - cậu biết chuyện gì xảy với mình chứ?

- Không.

- Chủ quán không nói gì với cậu à?

- Tôi hỏi thăm anh rồi lên thẳng đây thôi.

Porthos thở phào nhẹ nhõm. D' Artagnan tiếp tục hỏi:

- Thế có chuyện gì xảy ra với anh ư, Porthos thân mến?

- Xảy ra với mình khi mình nhoài người về phía địch thủ mà mình đã xỉa cho hắn ba nhát rồi đấy chứ, mình định kết liễu hắn bằng nhát thứ tư, thế là chân mình giẫm lên một hòn đá, và mình bị trẹo gối.

- Thật thế ư?

- Thề danh dự mà! Cũng may cho thằng đểu ấy, chứ không mình đã cho nó chết toi tại chỗ rồi, mình đảm bảo với cậu như vậy.

- Và rồi nó ra sao?

- Ồ, mình cũng chẳng biết gì hết. Nó bị thế là đủ lắm rồi. Nó chuồn mất mà không dám đòi những gì còn lại.

- Bị trẹo gối - D' Artagnan tiếp tục - đến nỗi không ra được khỏi giường ư?

- Ờ Lạy Chúa, thế thôi. Mấy lại chỉ mấy ngày nữa là mình lại đi được mà.

- Tại sao lúc đó anh không để người ta khênh mình về Paris? Ở đây chắc anh phải buồn dữ dội.

- Đấy là ý định của mình. Nhưng, bạn thân mến ạ, mình phải thú nhận với cậu một chuyện.

- Chuyện gì?

- Chính vì mình buồn dữ dội như cậu nói và lại có trong túi bẩy nhăm đồng vàng mà cậu chia cho, để giải sầu, mình đã cho mời một tay quý tộc đi qua đây và đã đề nghị chơi xúc xắc với hắn, hắn nhận lời và không thể ngờ được cả chỗ bẩy nhăm đồng vàng trong túi mình chuyển hết sang túi hắn không kể con ngựa của mình, hắn cũng dắt mất. Còn cậu, D' Artagnan thân mến?

- Anh Porthos thân mến, anh muốn gì nữa, người ta không thể cái gì cũng gặp may được - D' Artagnan nói - Anh hẳn biết câu châm ngôn: "Đen bạc, đỏ tình". Anh quá may trong tình trường không tránh được canh bạc nó trả thù, nhưng cần cóc gì cái vận rủi! Chẳng phải một tay bợm gái may mắn như anh không có một nữ Công tước không thể quên được việc đến giúp anh sao?

Porthos trả lời, vẻ thoải mái nhất đời:

- Ấy đấy, D' Artagnan thân mến ạ, chẳng qua mình gặp vận đen nên mới phải viết thư bảo gửi cho mình khoảng năm mươi đồng vàng mình tuyệt đối cần trong tình cảnh hiện thời.

- Rồi sao?

Rồi thì, chắc mụ ta tịch rồi hay sao không thấy trả lời.

- Thật thế ư?

- Không, vì thế, hôm qua mình lại tống cho một thư nữa thúc ép hơn thư trước. Nhưng còn cậu, bạn rất thân của mình, nói về cậu đi nào. Mình xin thú thực với cậu mình bắt đầu thấy lo lo cho cậu rồi đấy.

- Nhưng mà chủ quán có vẻ đối xử tốt với anh ghê nhỉ, anh Porthos? - D' Artagnan vừa nói vừa chỉ cho người ốm, những chảo đầy và những vỏ chai rỗng.

- Cũng được được? - Porthos trả lời - Cách đây ba bốn ngày cái tên xấc xược đó đưa bảng thanh toán cho mình, thế là mình tống hết ra khỏi cửa, cả tên chủ lẫn bảng thanh toán, thành thử mình ở đây với tư cách người chiến thắng, kẻ chinh phục. Vì vậy, cậu thấy đấy, mình phải vũ trang đến tận răng, vì luôn sợ bị buộc phải rời khỏi cương vị chiến thắng ấy.

- Tuy nhiên - D' Artagnan vừa nói vừa cười, chỉ mấy cái chảo và những vỏ chai - Thỉnh thoảng hình như anh vẫn xuất ngoại đấy chứ.

- Khốn nạn thay, không phải mình! - Porthos nói - cái trò trẹo xương khốn nạn đó giữ chặt mình ở giường, nhưng Mousqueton đi lang thang khắp nơi và mang thực phẩm về.

- Mousqueton, anh bạn của ta - Porthos tiếp - Mi xem, chúng ta có viện trợ rồi, phải bổ sung thức nhắm thôi.

- Mousqueton - D' Artagnan nói - Ta cần anh gíúp một việc.

- Việc gì thưa ông.

- Là truyền cho Planchet cái bảo bối của anh. Đến lượt ta, cũng có thể bị bao vây lắm chứ, lúc đó ta ắt sẽ không bực mình vì hắn cũng làm cho ta được hưởng từng này lợi ích giống như anh bạn thưởng cho chủ anh ấy.

- Ôi, trời ơi, thưa ông - Mousqueton nói vẻ khiêm tốn - không gì dễ hơn. Chỉ cần khéo léo một chút, thế thôi. Tôi lớn lên ở thôn quê, và cha tôi, những lúc nhàn rỗi, đôi khi cũng săn bắn trái phép.

- Thời gian còn lại ông ấy làm nghề gì?

- Thưa ông, cha tôi thực hành một công nghệ mà tôi thấy cũng tươm lắm.

- Nghề gì?

- Vì đó là thời chiến tranh giữa người Cơ đốc giáo và giáo phái Canvanh, và ông thấy những người Cơ đốc giáo tàn sát những người phái Canvanh, và những người phái Canvanh lại tàn sát người Cơ đốc giáo, bên nào cũng nhân danh tôn giáo, ông cụ liền tự cho phép mình tín ngưỡng cả hai, lúc thì Cơ đốc giáo, lúc lại Canvanh. Ông cụ thường súng khoác vai, lang thang sau nước rào giậu bờ đường và khi thấy một người Cơ đốc đi một mình liền nổi máu Tin lành ngay tức khắc. Ông hạ súng hướng về phía lữ khách, rồi khi chỉ còn cách mươi bước chân, ông vào đề đối thoại và hầu như luôn kết thúc bằng việc người kia bỏ lại túi tiền để thoát lấy mạng mình. Ông đi không nói một lời khi thấy một người Canvanh đang tới, ông lại nổi máu Cơ đốc rất dữ dội đến nỗi chẳng hiểu tại sao mới mười lăm phút trước đây ông lại có thể có những nghi ngờ về sự siêu đẳng của tôn giáo thần thánh chúng ta. Bởi vì tôi, thưa ông, tôi theo Cơ đốc giáo, cha tôi, trung thành với những nguyên tắc của ông, bắt anh cả tôi là dân Canvanh.

- Cuối cùng con người đáng kính ấy thế nào? - D' Artagnan hỏi.

- Ôi, thưa ông, một cách khốn nạn nhất. Một hôm ông cụ bị túm trên một con đường trống vắng giữa một người Canvanh và một người Cơ đốc giáo đã từng mắc chuyện với ông cụ, cả hai đều nhận ra ông, thế là họ họp lại với nhau chống lại và treo cổ ông cụ lên một cái cây, rồi họ lại đến huyênh hoang về cái việc quá ư liều lĩnh họ đã làm, trong một tửu quán ở ngôi làng chợt đến mà anh tôi và tôi cũng đang uống ở đó.

- Rồi các anh làm gì? - D' Artagnan hỏi.

- Chúng tôi để mặc cho chúng nói - Mousqueton tiếp - Thế rồi, ra khỏi cái quán đó, mỗi tên đi về một phía trái ngược nhau, anh tôi đi phục ở con đường gã Cơ đốc đi, và tôi phía gã Tin lành. Hai giờ sau, thế là xong, chúng tôi ai nấy tính sổ xong với chúng, và hết sức khâm phục tính lo xa của ông bố đáng thương của chúng tôi đã đề phòng nuôi dạy chúng tôi mỗi người một tôn giáo khác nhau.

- Quả thật, như anh nói ấy, Mousqueton, bố anh hình như từng là một người rất thông mình. Và anh nói, lúc nhàn rỗi, con người tử tế ấy lại là tay săn bắn trộm?

- Vâng, thưa ông, chính ông cụ đã dạy tôi cách buộc bẫy chim muông và đặt dây câu ngầm. Kết quả là khi thấy lão chủ quán ty tiện nuôi chúng tôi bằng đống thịt bạc nhạc chỉ hợp với bọn quê mùa và không thích hợp chút nào với hai cái dạ dày yếu ớt như của chúng tôi, tôi đành xoay xở đôi chút với cái nghề cũ của mình. Lang thang trong khu rừng nhỏ của vị Hoàng thân, tôi giăng bẫy trên các lối đi, ngủ bên bờ nước của Điện hạ, tôi luồn dây câu xuống dưới ao hồ. Thành thử nhờ trời, giờ đây chúng tôi chẳng thiếu những gà gô, thỏ, cá chép, lươn, tất cả các loại thức ăn lành và dễ tiêu, thích hợp với người bệnh, ông có thể coi xem có đúng không.

- Nhưng còn rượu vang - D' Artagnan nói - ai cung cấp rượu vang? - chủ quán chứ?

- Nghĩa là đúng và không.

- Đúng và không là thế nào?

- Đúng là ông ta cung cấp, nhưng ông ta không biết mình có cái vinh dự ấy.

- Giải thích xem nào, Mousqueton, câu chuyện của anh đầy những điều bổ ích đấy.

- Thế này, thưa ông. Tình cờ xui khiến tôi gặp được một người Tây Ban Nha, trong những cuộc đi chơi xa, anh ta từng thăm nhiều nước trong đó có cả Tân thế giới.

- Tân thế giới thì có liên quan gì đến những chai vang trên bàn giấy và trên cái tủ ngăn kia?

- Bình tĩnh nào, thưa ông, đâu sẽ có đấy mà.

- Đúng vậy, Mousqueton. Ta tin và vẫn nghe anh đây.

- Người Tây Ban Nha ấy có một người hầu đi theo sang Mêhicô. Người hầu ấy lại là đồng hương của tôi, thành thử chúng tôi liên kết với nhau rất nhanh vì giữa chúng tôi còn rất hợp nhau về tính cách nữa. Cả hai chúng tôi đều yêu săn bắn trên hết mọi thứ, thành thử hắn kể cho tôi nghe những thổ dân đã săn hổ và bò tót trong những đồng cỏ ở Nam Kỳ với những thòng lọng quăng vào cổ những con vật kinh khủng ấy như thế nào. Lúc đầu, tôi không muốn tin người ta lại có thể đạt tới trình độ khéo léo, cách xa hai ba mươi bước quăng đầu thòng lọng đúng nơi mình nhằm. Bạn tôi đặt một cái chai cách ba mươi bước và lần nào cậu ấy quăng cũng giật được chai trong thòng lòng. Trước bằng chứng ấy, phải nhận câu chuyện là có thật thôi. Tôi cũng lao vào luyện tập, và vì trời phú cho chút ít nàng khiếu, bây giờ tôi quăng thòng lọng giỏi ngang với bất kỳ ai. Thế là, ông có hiểu không? Chủ quán có một hầm chứa đầy rượu và lão ta không bao giờ rời chìa khóa. Có điều hầm rượu có lỗ thông hơi. Thế là, qua lỗ thông hơi đó tôi quăng thòng lọng và giờ đây thì tôi đã biết được góc nào lấy tốt rồi, và cứ nơi ấy tôi kéo. Đó, thưa ông. Tân thế giới có liên quan đến những chai vang trên bàn giấy và tủ ngăn như thế đấy. Bây giờ ông hẳn muốn nếm thử rượu vang của chúng tôi và đừng có thành kiến, ông cho biết uống thấy thế nào.

- Cám ơn, anh bạn của ta, cám ơn, nhưng thật không may ta vừa ăn điểm tâm xong.

- Dào ôi! - Porthos nói - Bày bàn đi, Mousqueton và trong khi chúng ta ăn điểm tâm, D' Artagnan sẽ kể cho chúng ta nghe mười ngày xa chúng ta, cậu ấy ra sao.

- Xin sẵn sàng - D' Artagnan nói.

Trong khi Porthos và Mousqueton ăn điểm tâm với vẻ ngon lành của người ốm ăn giả bữa, và của tinh thần huynh đệ của những con người xích lại gần nhau trong cơn hoạn nạn, D' Artagnan kể Aramis bị thương và buộc phải nằm ở lại Vỡ Tim thế nào, rồi D' Artagnan phải bỏ Athos lại ở Amiêng mặc Athos chống chọi giữa bốn tên buộc tội chàng là tên làm bạc giả ra sao, và chính D' Artagnan đã buộc phải đâm xuyên qua bụng Bá tước De Wardes để sang được nước Anh thế nào.

Nhưng đến đây, việc tâm sự của D' Artagnan dừng lại, chàng chỉ thông báo ở nước Anh về, chàng mang theo bốn con ngựa đẹp lộng lẫy, một con cho chàng, và đồng đội mỗi người một con. Rồi chàng kết thúc bằng việc báo cho Porthos biết con ngựa dành cho Porthos đã được đưa vào chuồng ngựa của lữ quán.

Đúng lúc đó, Planchet vào và báo cho chủ biết rằng lũ ngựa đã được nghỉ ngơi đầy đủ và có thể đến ngủ ở Clécmông.

Vì D' Artagnan đã gần yên tâm về Porthos và chàng thấy nóng lòng muốn có tin tức của hai người bạn kia, chàng đưa tay cho người bệnh và báo cho biết chàng sắp lên đường tiếp tục tìm kiếm. Vả lại, vì chàng dự tính sẽ trở về theo con đường này, nếu trong vòng bảy tám ngày nữa, Porthos vẫn còn ở lữ quán lớn Saint-Martin, chàng sẽ ghé qua đón bạn.

Porthos trả lời, cái chỗ xương bị trẹo hoàn toàn có thể không cho phép chàng rời khỏi lữ quán. Vả lại chàng phải ở lại ở Săngtily để đợi nữ Công tước của chàng trả lời.

D' Artagnan chúc Porthos mau nhận được sự trả lời và một sự trả lời tốt đẹp. Và sau khi đã nhờ Mousqueton lần nữa trông nom Porthos, trả tiền các khoản cho chủ quán, chàng lại cùng Planchet lên đường, giảm bớt được một con ngựa dắt theo.

Chú thích:
(1) Nguyên văn: Procureuse: bà biện lý. cũng có nghĩa trùm nhà thổ tú bà nữa. Tác giả có ý chơi chữ ở đây với anh chàng Porthos bạt tử chăng?
(2)Nguyên văn: bất chấp thói Rodomontades của ông ấy - Rút từ tính cách huênh hoang khoác lác của vua Rodomont nước Algérie, một nhân vật trong Orlando Furioso của Tasso.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 26

Luận văn của Aramis

D' Artagnan không nói gì với Porthos về vết thương, cũng chẳng nói đến bà biện lý. Chàng Bearn dù còn rất trẻ nhưng lại rất khôn ngoan, để giả bộ tin hết mọi điều mà anh chàng ngự lâm quân hão huyền kể cho mình, vì tin chắc không có tình bạn nào trụ vững trước một bí mật bị lật tẩy, nhất là bí mật ấy lại quan thiết đến lòng kiêu hãnh, rồi thêm nữa người ta thường luôn nhìn xuống đối với những người mình biết rõ đời tư. Mà trong những dự định mưu toan sắp tới, D' Artagnan đã quyết định sẽ biến ba người đồng đội thành công cụ cho hạnh vận của mình, và vui vẻ túm trước lấy những sợi dây vô hình mà nhờ chúng chàng tính chuyện điều khiển họ.

Tuy nhiên, suốt dọc đường, một nỗi buồn sâu sắc xiết lấy trái tim chàng, chàng nghĩ tới bà Bonacieux trẻ và xinh đẹp thật xứng đáng với lòng tận tụy của chàng. Nhưng phải nói ngay rằng nỗi buồn đó xuất phát từ niềm tiếc nuối hạnh phúc đã mất ở chàng ít hơn là nỗi sợ hãi chàng cảm thấy tai họa giáng xuống người phụ nữ đáng thương. Với chàng, không còn nghi ngờ gì nữa nàng là nạn nhân của sự báo thù của Giáo chủ và như đã biết, sự báo thù của Đức ông thì thật là khủng khiếp. Làm sao chàng có thể tin được sự tha thứ trước mắt ngài Thủ tướng, đó là điều chính bản thân chàng cũng không biết được, họa chăng chỉ có ông De Cavoa mới có thể tiết lộ cho chàng nếu viên đại úy cận vệ đó tìm thấy chàng ở nhà.

Không có gì khiến thời gian trôi mau, và rút ngắn bớt con đường bằng một ý nghĩ hút hết mọi khả năng suy nghĩ của người ta. Sự tồn tại bề ngoài lúc đó giống như một giấc ngủ mà ý nghĩ đó như là một cơn mơ. Do ảnh hưởng của nó, thời gian không đo được nữa, không gian không còn khoảng cách. Người ta đi từ một nơi và đến ở một nơi, có thế thôi. Từ chặng đường đi qua, chẳng còn gì hiện rõ trong ký ức ta ngoài một lớp sương mù mờ ảo, trong sương, hàng nghìn hình ảnh mơ hồ của cỏ cây, sông núi, cảnh vật tự xóa đi. Bị đàm chìm trong cái ảo giác đó mà D' Artagnan cứ mặc cho ngựa chạy, chả mấy chốc đã vượt qua bẩy tám dặm đường từ Săngtily đến Vỡ Tim, và khi đến làng này chàng chẳng còn nhớ được điều gì mình đã gặp trên dọc đường.

Chỉ đến đây, trí nhớ mới trở lại, chàng làc đầu nhận ra cái quán mà chàng đã để lại Aramis, và thúc ngựa đi nước kiệu tới dừng ở trước cửa.

Lần này không phải ông chủ mà là bà chủ quán ra đón chàng. D' Artagnan biết xem tướng nên chỉ nhìn qua bộ mặt đầy đặn tươi tỉnh của nữ chủ nhân, chàng đã hiểu không cần phải giấu giếm bà ta, và chả có gì đáng sợ đối với bộ mặt vui tươi đến thế.

- Bà chủ phúc hậu ơi - D' Artagnan hỏi - bà có thể nói cho tôi biết một người bạn mà tôi buộc phải bỏ lại ở đây, cách đây khoảng mười hai ngày ra sao rồi không?

- Một người đàn ông trẻ đẹp, chừng hăm ba, hăm bốn tuổi, hiền lành, dễ mến, chững chạc?

- Đúng thế.

- Còn thêm bị thương ở vai?

- Đúng vậy.

- Ồ, thưa ông, ông ấy vẫn ở đây.

D' Artagnan nhảy ngay xuống, ném dây cương vào tay Planchet nói:

- Chết thật! Bà chủ thân mến, bà cứu sống tôi rồi. Anh ấy ở đâu, anh Aramis yêu quý của tôi ấy, để tôi ôm hôn anh ấy, bởi vì tôi thú thực với bà, tôi phát sốt vì muốn gặp anh ấy đây.

- Nhưng tôi xin lỗi, thưa ông, tôi không tin ông ấy có thể gặp ông lúc này.

- Tại sao thế? Ông ấy đang ở với một người đàn bà ư?

- Jêsuma! Ông nói gì vậy, chàng trai tội nghiệp! Không, thưa ông, ông ấy không ở với một phụ nữ.

- Vậy thì với ai?

- Với ông mục sư Môđiđiê và ông giáo trưởng dòng Tên của Amiêng.

- Lạy Chúa? D' Artagnan kêu lên - Bệnh tình anh ấy nậng hơn ư?

- Không đâu, trái lại ông ạ, nhưng sau trận ốm, được Chúa ban phúc, ông ấy đã quyết định thụ giới.

- Đúng thế - D' Artagnan nói - tôi quên kuấy anh ấy chỉ là ngự lâm quân tạm thời.

- Vâng, ông vẫn muốn gặp ông ấy ư?

- Hơn bao giờ hết.

- Được thôi! ông cứ việc theo cầu thang bên phải ở ngoài sân, lên tầng hai, phòng số 5.

D' Artagnan lao theo hướng đã chỉ, tìm thấy một chiếc cầu thang ngoài mà ngày nay ta còn thấy ngoài sân những quán trọ cổ lỗ. Nhưng không thể đi như thế đến chỗ ông tu viện trưởng tương lai, những lối đi ngoắt ngoéo đến phòng Aramis được canh giữ không hơn không kém những khu vườn của Aramis(1).

Bazin đóng chốt ở hành lang ngăn không cho chàng đi qua, càng táo tợn hơn sau những năm thử thách cuối cùng Bazin thấy mình sắp đi đến cái kết quả vẫn hằng hy vọng.

Thật vậy, mơ ước của Bazin tội nghiệp vẫn luôn là được phục vụ một nhà tu hành, và gã vẫn sốt ruột đợi chờ cái khoảnh khắc không ngừng hé mở trong tương lai Aramis, cuối cùng vứt bỏ chiếc áo đồng phục ra bụi rậm thay bằng chiếc áo thày tu. Lời hứa ông chủ trẻ tuổi hằng ngày nhắc lại rằng cái khoảnh khắc đó cũng không lâu nữa đâu là điều duy nhất đã giữ gã lại phục vụ một ngự lâm quân, thứ công việc theo như gã bảo nhỡ ra có thể làm gã mất linh hồn.

Vì vậy Bazin tràn trề vui sướng. Lần này, hoàn toàn có khả năng chủ gã không sai lời. Sự kết nối đau đớn thể xác với đau đớn tinh thần đã tạo ra hiệu quả vẫn hằng khao khát từ lâu Aramis vừa đau đớn thể xác lẫn tinh thần, cuối cùng đã dừng đôi mắt và ý nghĩ của mình lại ở nơi tôn giáo và chàng coi cái tai họa kép đã xảy đến với chàng, nghĩa là sự biến mất đột ngột của người lính và vết thương trên vai, như một sự cảnh tỉnh của trời cao.

Có thể hiểu được, trong tình thế hiện nay, không gì khó chịu cho Bazin bằng việc D' Artagnan đã đến và lại có thể ném chủ gã vào trong xoáy lốc của những ý tưởng phàm thế đã từng lôi cuốn chủ gã quá lâu rồi. Vì vậy gã quyết định bảo vệ can trường chiếc cửa, và vì đã bị bà chủ quán phản bội rồi, gã không thể nói rằng Aramis đi vắng, gã cố tỏ ra cho kẻ mới đến biết thật là vô cùng bất nhã định đến quấy rầy chủ gã đang trong một cuộc hội thảo thành kính bắt đầu từ buổi sáng và theo Bazin nói không thể kết thúc trước buổi tối.

Nhưng D' Artagnan chẳng buồn chú ý đến bài diễn văn hùng biện của thầy Bazin, và cũng chẳng hơi đâu đi lý sự với người hầu của bạn mình, chàng chỉ đơn giản lấy tay gạt gã ra và tay kia vận núm cửa phòng số 5.

Cửa mở, và D' Artagnan vào trong phòng.

Aramis mặc áo ngoài đen, đầu đội một loại mũ tròn và bẹt khá giống loại mũ chỏm đầu, đang ngồi trước một cái bàn hình bầu dục phủ đầy những cuộn giấy và những cuốn sách khổ đôi khổng lồ, bên phải là ông giáo trưởng dòng Tên, và bên trái là ông mục sư Môngđiđiê. Những tấm rèm cửa chỉ vén ra một nửa để lọt vào một thứ ánh sáng huyền bí thích hợp với sự mơ màng mộ đạo. Mọi vật dụng thời lưu có thể đập vào mắt khi bưôc vào phòng chàng trai trẻ và nhất là chàng trai lại là ngự lâm quân đều biến mất như có phép mầu, và chắc sợ nhìn thấy những thứ ấy chủ mình lại hướng đến những ý nghĩ của thế giới trần tục, Bazin đã dọn sạch gươm súng, mũ cài lông, các đồ thêu, ren các kiểu các loại.

Nhưng thay vì thấy những thứ đó, D' Artagnan tưởng như nhìn thấy ở một góc tối một thứ gì đó giống như chiếc roi hành xác treo trên một cái đinh ở trên tường.

Nghe tiếng D' Artagnan mở cửa Aramis ngẩng đầu lên và nhận ra bạn mình. Nhưng điều làm D' Artagnan hết sức ngạc nhiên là việc chàng xuất hiện hình như chẳng tạo nên một ấn tượng lớn nào đối với chàng lính ngự lâm này, chừng như đầu óc anh ta đã tách rời khỏi mọi vật nơi trần thế.

- Xin chào D' Artagnan thân mến - Aramis nói - xin anh tin là tôi vui sướng được gặp anh.

- Tôi cũng vậy - D' Artagnan nói - cho dù tôi còn chưa tin có phải tôi đang nói với anh Aramis không.

- Với hắn ta đấy, bạn ạ, với chính hắn đấy! Nhưng ai có thể làm cho anh nghi ngờ?…

- Tôi đã sợ là tôi nhầm phòng và lúc đầu tôi cứ tưởng là tôi vào phòng của một vị tu hành nào đó, rồi tôi lại mắc thêm một cái nhầm nữa khi thấy anh đang cùng với các vị đây.

Hai người mặc đồ đen kia hiểu rõ ý đồ của D' Artagnan, liếc nhìn chàng có vẻ như hăm dọa, nhưng chàng không hề tỏ ra sợ

- Có thể tôi làm phiền anh, anh Aramis - D' Artagnan tiếp tục - Bởi vì theo những gì tôi thấy, tôi đành phải tin rằng anh đang xưng tội với các vị đây.

Aramis thoáng đỏ mặt:

- Anh mà làm phiền tôi ư? Ồ, hoàn toàn trái lại, bạn thân mến ạ, tôi xin thề với anh đấy, và coi như bằng chứng điều tôi vừa nói là anh hãy cho phép tôi được vui mừng thấy anh được bình an vô sự.

"A, thế mới phải chứ?" D' Artagnan nghĩ thầm "chưa đến nỗi nào?".

- Bởi vì ông đây là bạn tôi, vừa mới thoát khỏi một mối nguy khốc liệt - Aramis vừa tiếp tục nói giọng cảm động vừa trỏ D' Artagnan giới thiệu với hai vị giáo chức kia.

- Xin ông hãy tạ ơn Chúa đi? - Hai người đồng thanh đáp và nghiêng mình.

D' Artagnan về phần mình cũng nghiêng mình đáp lễ.

- Thưa các vị đáng kính, tôi đã không quên đâu.

- D' Artagnan thân mến - Aramis nói - Anh đến thật đúng lúc, anh tham gia vào cuộc tranh luận đi, góp ý kiến làm sáng tỏ vấn đề. Ngài giáo trưởng xứ Amiêng, ngài mục sư Môngđiđiê và tôi, chúng tôi đang tranh luận một số vấn đề thần học mà chúng tôi đã quan tâm từ lâu, tôi sẽ rất vui được biết ý kiến của anh.

D' Artagnan bắt đầu lo ngại trước sự đổi hướng của mọi chuyện, chàng trả lời:

- Ý kiến của một kẻ võ biền thì còn đâu ra trọng lượng, xin hãy tin tôi, anh có thể yên tâm về trình độ khoa học của các vị đây.

Hai người mặc áo đen lại đáp lễ.

- Trái lại - Aramis lại tiếp - ý kiến của anh sẽ rất quý với chúng tôi. Vấn đề là thế này, ông giáo trưởng tin rằng bản luận văn nhất thiết phải có tính giáo lý và giáo huấn.

- Bản luận văn! Vậy ra anh làm một luận văn?

- Hẳn rồi, - vị giáo sĩ dòng Tên trả lời - với kỳ sát hạch trước khi thụ phong, bản luận văn là nhất thiết phải có.

- Thụ phong? - D' Artagnan kêu lên, chàng không thể tin nổi vào cái điều mà bà chủ quán và Bazin kế tiếp nhau nói với chàng – Lễ thụ phong.

Và chàng đưa mắt hoang mang nhìn ba nhân vật đang ngồi trước mặt chàng. Còn Aramis thì chễm chệ trên chiếc ghế bành ở tư thế duyên dáng như thể vẫn trong phố hẻm, ngắm nghía thỏa thích bàn tay trắng trẻo và mũm mĩm như bàn tay đàn bà của chàng rồi giơ tay lên cho khỏi bị dồn máu và nói:

- D' Artagnan này, như anh đã nghe thấy đấy, ông giáo trưởng muốn bản luận văn của tôi có tính giáo lý, trong khi tôi lại muốn nó duy lý. Chính vì vậy mà tại sao ông giáo trưởng lại đề nghị với tôi cái chủ đề còn chưa hề được lý giải trong đó tôi nhận thấy có vấn đề cho những sự phát triển rực rỡ: Utraque manus in benedicendo clerieis inferioribus necessaria est.

D' Artagnan mà chúng ta đã biết rõ sự uyên bác của chàng đến đâu, chả buồn chau mày trước câu trích dẫn này hơn câu ông Treville đã trích dẫn về các món quà mà ông cho là chàng đã nhận của ông De Buckingham.

Để D' Artagnan hoàn toàn dễ hiểu, Aramis lại tiếp:

- Câu ấy có nghĩa: Hai bàn tay rất cần thiết cho các tu sĩ cấp thấp, khi họ ban phúc lành.

- Đề tài tuyệt vời! - vị tu sĩ dòng Tên kêu lên.

- Tuyệt vời và giáo lý nữa! - Ông mục sư nhắc lại, tiếng Latinh của ông ta chắc cũng đại khái như D' Artagnan, cho nên ông theo dõi chăm chú ông giáo sĩ dòng Tên để bắt chước và lặp lại những lời ông này nói như một loại tiếng vọng mà thôi.

- Còn D' Artagnan chàng hoàn toàn thờ ơ trước nhiệt tình của hai ông áo đen.

- Vâng tuyệt vời! Prorsù admirabile!(2) - Aramis tiếp tục - nhưng đòi hỏi một sự nghiên cứu uyên thâm của cha và Kinh thánh. Tôi đã thú nhận với các vị giáo sĩ thông thái này với tất cả sự kém cỏi của tôi rằng những đêm tuần canh của bộ đội vệ binh và việc phục vụ nhà Vua khiến tôi lơ là việc nghiên cứu: Vì vậy tôi thấy thoải mái hơn facilius natans(3) trong một đề tài do tôi lựa chọn, và sẽ là những vấn đề thần học hóc búa, giống như vấn đề đạo lý đối với siêu hình học trong triết học ấy.

D' Artagnan chỉ thấy vô cùng chán ngán và ông mục sư cũng vậy.

- Đã thấy nhập đề tuyệt chưa! - Ông dòng Tên kêu lên.

- Exordium(4) ông mục sư lặp lại cho ra vẻ.

- Quem ad… modum inter coelorum imnrensitatem(5).

Aramis liếc nhìn D' Artagnan và thấy bạn mình đang ngáp đến sái quai hàm, liền nói với ông giáo trưởng dòng Tên:

- Thưa cha, ta nói tiếng Pháp thôi, ông D' Artagnan sẽ thưởng thức những ý kiến của chúng ta nhiệt tình hơn.

- Vâng tôi mệt mỏi khi đi đường - D' Artagnan nói - và mọi thứ tiếng Latinh ấy tuột đi hết.

- Đồng ý - Ông dòng Tên hơi khó chịu nói, trong khi đó ông mục sư thấy dễ chịu hẳn lên, quay lại nhìn D' Artagnan với đầy lòng biết ơn. - Đồng ý để xem cách giải thích ấy đi đến điều gì.

- Môixe(6) kể tôi đòi của Chúa… Ông ta chỉ là kẻ tôi đòi, các vị hiểu chứ? Môixe ban phúc bằng hai bàn tay, để mặc mọi người đỡ hai tay, trong khi người Hêbrơ đánh đuổi quân thù, vậy là ông ban phước bằng hai bàn tay. Vả lại kinh Phúc âm nói thế này, Imponite manus chứ không manum: Đánh lên hai bàn tay chứ không phải bàn tay.

- Với thánh Pie, mà kế vị ngài là các giáo hoàng, thì trái lại - ông giáo sĩ dòng Tên tiếp - Porrige digitas. Hãy chìa các ngón tay ra, bây giờ các vị đã hiểu chưa?

Aramis rất thoải mái trả lời:

- Nhất định thế rồi, nhưng vấn đề rất tinh tế.

- Những ngón tay! - Ông giáo sĩ tiếp - Thánh Pie ban phúc bằng những ngón tay. Vì vậy giáo hoàng cũng ban phúc bằng những ngón tay. Và ngài ban phúc bằng bao nhiêu ngón tay?

- Với ba ngón, một vị Cha, một vị con, một vị Thánh thần.

Mọi người đều làm dấu. D' Artagnan cho là phải bắt chước theo.

Giáo hoàng là người kế vị Thánh Pie và đại diện cho ba quyền lực của cõi thiêng, còn lại ordines inferiores (những chức danh cấp thấp - ND) của đẳng cấp giáo chức, ban phúc nhân danh các thánh đại thiên sứ và thiên sứ. Những giáo chức tầm thường nhất, như các trợ tế, các người coi đồ thánh thì ban phúc bằng những vòi phun giả vờ như vô tận những ngón tay ban phúc. Thế là đề tài đã được đơn giản hóa Argumentum ommi denu datum ornamento(7)- Ông giáo sĩ dòng Tên tiếp - Tôi sẽ triển khai thành hai tập khổ như tập này.

Và trong lúc đang hứng khởi ông ta đấm tay lên cuốn Thánh Crixếtxtôn khổ to, làm võng cả mặt bàn dưới sức nặng của nó.

D' Artagnan rùng người.

- Đúng vậy rồi, Aramis nói - Tôi xin trả lại sự đúng đắn cho những vẻ đẹp của luận thuyết đó, nhưng đồng thời tôi cũng nhận ra nó nặng nề đối với tôi. D' Artagnan thân mến, tôi đã chọn cái tên bài này, anh cho biết liệu anh có thích không: Non inutile est desiderium in oblatone hoặc thế này thì hay hơn. Còn hơi luyến tiếc thì không hợp với lễ vật dâng lên Chúa.

- Dừng lại đi? - Giáo sĩ dòng Tên to tiếng - bởi cái luận đề ấy sa vào tà giáo. Có một đề thuyết gần giống như vậy trong cuốn Ôgúttinutx của tên dị giáo Jăngxêniuytx, mà sớm muộn gì cuốn sách đó cũng bị đốt bởi bàn tay đao phủ. Coi chừng, ông bạn trẻ, ông đang ngả về những tà thuyết đấy, ông có nguy cơ đấy!

- Ông có cơ nguy đấy! - Ông mục sư vừa nói vừa lắc đầu đau đớn. Ông đang đến sát cái quan điểm trứ danh của tự do ý chí nó là một mỏm đá ngầm đó. Ông đang đến gần kề những lối bóng gió của bọn Pêlagiêng và nửa Pêlagiêng(8).

- Nhưng thưa đức cha… - Aramis nói sau loạt lý sự đổ lên đầu mình như mưa đá.

Vị thầy tu dòng Tên không để chàng kịp nói tiếp:

- Làm sao ông có thể chứng minh được người ta lại luyến tiếc trần gian khi hiến thân dâng Chúa? Hãy nghe cái quan điểm hai mặt này: Chúa là chúa và trần gian là quỷ dữ, luyến tiếc trần gian là luyến tiếc quỷ dữ; đó là kết luận của tôi.

- Cũng là của tôi nữa - Ông mục sư nói.

- Nhưng làm ơn… - Aramis nói tiếp.

- Desideras diabolum(9) hơi con người bất hạnh! - Giáo sĩ dòng Tên kêu lên.

- Ông ta luyến tiếc quỹ dữ! Chà, ông bạn trẻ - Ông mục sư rên rỉ nói - đừng luyến tiếc quỷ dữ làm gì, tôi van ông đấy.

D' Artagnan không buồn nghe thứ tiếng nhố nhăng ấy nữa. Chàng cảm thấy như đang trong một ngôi nhà của lũ điên, và chàng cũng sắp phát điên như họ. Có điều chàng buộc phải im miệng, vì chẳng hiểu gì về cái thứ tiếng đang nói trước mặt mình.

- Nhưng các vị hãy nghe tôi đã nào - Aramis nói tiếp với vẻ lễ độ nhưng đã bắt đầu lộ ra đôi chút bực bội. - Tôi không nói là tôi luyến tiếc - Không, tôi không bao giờ đọc lên cái câu không chính giáo ấy…

Giáo sĩ dòng Tên giơ hai tay lên trời, ông mục sư cũng làm theo:

- Không, nhưng ít nhất ông cũng phải công nhận rằng thật chẳng ra gì khi chỉ đem hiến dâng cho Chúa những gì mà mình đã hoàn toàn phát ngán. Tôi nói có đúng không, D' Artagnan?

- Ừ, thì đúng! - D' Artagnan nói to.

Ông mục sư và ông giáo sĩ bật người lên. Aramis nói:

- Tam đoạn luận là xuất phát điểm của tôi, thế gian không thiếu sức cám dỗ, tôi rời bỏ thế gian, vậy là tôi đã hy sinh. Thánh kinh nói một cách tích cực hơn: Hãy hy sinh cho Chúa.

- Điều đó đúng! - Những người đối lập nói.

- Và rồi - Aramis vừa tiếp tục - vừa bấm vào tai cho đỏ lên và vung vẩy hai tay cho trắng lên - Và rồi tôi đã làm một đoản khúc về vấn đề đó, năm ngoái tôi đã đưa cho ông Voatuya xem và ông ta đã hết lời khen ngợi.

- Một đoản khúc! - ông mục sư lắp lại như cái máy.

- Đọc đi! Đọc đi! D' Artagnan nói to - May ra nó thay đổi không khí một chút.

- Không thay đổi gì đâu, bởi nó vẫn là tôn giáo - Aramis trả lời - Đó là thần học viết thành thơ.

- Chết cha người ta! - D' Artagnan nói.

- Nó đây - Aramis nói với vẻ hơi khiêm tốn không ngoại trừ đượm màu đạo đức giả.

Anh khóc thương quá khứ đầy mê hoặc

Và gánh chịu những người bất hạnh kia

Mọi nỗi đau rồi cũng sẽ xa lìa

Khi dâng hiến lệ mình riêng cho Thượng đế

Ôi anh đang khóc thương như thế.

D' Artagnan và ông mục sư tỏ vẻ khoái lỗ tai lắm. Còn giáo sĩ dòng Tên vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình.

- Ông hãy cẩn thận với các sở thích phàm tục trong văn phong thần học. Thật quả, thánh Augustin đã nói thế nào nhỉ? Severussti Clericsorum sermo.

- Vâng, phải để lời thuyết giáo được rõ ràng. - Ông mục sư nói.

Thấy người phụ tá của mình lạc đề, giáo sĩ dòng Tên vội ngắt lời:

- Những luận đề của ông sẽ làm đẹp lòng các quý bà, có thế thôi. Nó sẽ có được thành tích như một bài biện hộ của thầy cãi - Patru(10).

- Cầu trời, phù hộ! - Aramis tràn trề vui sướng reo lên.

- Ông thấy đấy nhé! - Tu sĩ dòng Tên nói to - Trần tục hãy còn cất cao tiếng nói trong ông. Altisima voce (tiếng Latinh: cao giọng) ông theo thế tục, ông bạn trẻ ạ, và tôi sợ rằng ơn cứu rỗi không có chút hiệu quả nào.

- Xin đức cha tôn kính yên tâm, tôi xin đảm bảo về tôi.

- Một giọng tự phụ phàm tục!

- Thưa cha, tôi hiểu mình chứ, quyết định của tôi là bất di bất dịch.

- Vậy ông vẫn bướng bỉnh theo đuổi luận đề đó?

- Tôi tự cảm thấy mình được kêu gọi xử lý luận đề đó chứ không bất kỳ luận đề nào khác, vậy tôi sẽ tiếp tục, và ngày mai, tôi hy vọng cha sẽ thỏa mãn về những điều tôi sẽ sửa lại theo ý kiến cha.

- Ông cứ làm từ từ thôi - Ông mục sư nói - chúng tôi sẽ để cho ông được chuẩn bị tốt nhất.

Giáo sĩ dòng Tên nói:

- Phải, đất đai đã được gieo hạt khắp rồi và chúng ta không có gì để sợ một phần hạt bị rơi xuống đá, một phần rơi vãi dọc đường và phần còn lại Chúa trời ăn nốt, aves coeli comederumt illam.

D' Artagnan nói:

- Cho ôn dịch bóp chết cái tiếng Latinh của ngươi đi!

- Xin chào, con trai, hẹn đến mai - Ông mục sư nói.

- Hẹn đến mai, chàng trai táo tợn - tu sĩ dòng Tên nói - Ông hứa sẽ thành một trong những vầng sáng của nhà thờ, cầu trời cho vầng sáng ấy không thành một vầng lửa ngốn ngấu.

D' Artagnan suốt một tiếng đồng hồ gặm móng tay sốt ruột bắt đầu gặm cả vào thịt.

Hai người mặc đồ đen đứng dậy chào Aramis và D' Artagnan rồi tiến ra phía cửa. Bazin vẫn đứng đó lắng nghe cuộc cãi lý với vẻ hân hoan sùng kính, liền lao về phía họ đỡ lấy quyển kinh, đi trước để dẫn đường cho họ.

Aramis ra tiễn tới tận chân cầu thang rồi lên ngay với D' Artagnan đang mơ màng.

- Còn lại mình họ, hai người bạn thoạt tiên vẫn giữ im lắng lúng túng nhưng rồi cũng phải có một trong hai người phá tan sự im lặng đó, và D' Artagnan có vẻ muốn nhường vinh dự đó cho bạn mình:

- Anh thấy đấy, - Aramis nói - Anh thấy tôi trở về với những ý tưởng căn bản của mình.

- Phải, ơn cứu rỗi đã tiếp xúc với anh rồi, như các ông ấy vừa rồi đã nói đó.

- Ồ, kế hoạch rút lui đã hình thành từ lâu, và anh đã từng nghe tôi nói, có phải không, bạn tôi?

- Hẳn vậy, nhưng tôi xin thú thực tôi tưởng anh chỉ đùa thôi.

- Đùa với những loại chuyện như vậy ư? Ôi, anh D' Artagnan!

- Mẹ kiếp! Đùa cả với cái chết ấy chứ?

- Và người ta đã nhầm, D' Artagnan ạ, bởi cái chết chính là cửa ải, dẫn đến sự ngộ nan hoặc cứu rỗi.

- Đồng ý, nhưng làm ơn đi, đừng nói về thần học với nhau nữa, Aramis, anh chắc còn khối thì giờ để nghĩ đến chuyện đó, còn tôi, tôi xin thú thật, tôi gần như quên hết một tí vốn Latinh mà tôi chẳng bao giờ hiểu cả, tôi cũng xin thú thật với anh, từ mười giờ sáng nay, tôi chưa ăn uống gì cả và tôi đang đói chết cha đây.

- Chúng ta sẽ ăn trưa ngay thôi, bạn thân mến ạ, có điều mong anh nhớ cho, hôm nay thứ sáu, mà trong những ngày này, tôi không thể nhịn cũng không thể ăn thịt được. Nếu anh hài lòng ăn trưa với tôi, thì bữa ăn chỉ có rau tứ giác luộc với trái cây thôi.

- Rau tứ giác là loại gì vậy? - D' Artagnan lo lắng hỏi.

- Là rau dền ấy mà - Aramis nói tiếp - nhưng với anh tôi sẽ thêm trứng và đấy là phạm luật nghiêm trọng rồi, vì trứng là thịt, vì trứng nở ra gà con.

- Bữa tiệc này chẳng ngon lành gì, nhưng cóc cần, để ở lại với anh, tôi chịu được hết.

- Tôi rất biết ơn anh về sự hy sinh ấy - Aramis nói - Nhưng nếu như nó không có lợi gì cho thể xác anh, nó sẽ có lợi cho tâm hồn anh, xin anh hãy tin chắc như vậy.

- Như thế, Aramis, tức là anh dứt khoát đi tu rồi. Bạn bè chúng ta sẽ nói sao, ông De Treville sẽ nói ra sao? Họ sẽ coi anh là kẻ đào ngũ tôi xin báo trước cho anh như vậy.

- Tôi không đi tu, tôi trở lại việc tu hành. Chính là vì trần thế mà tôi đã đào ngũ khỏi nhà thờ, bởi anh cũng biết rằng tôi đã tự ép buộc mình khoác áo ngự lâm quan.

- Tôi, tôi chẳng biết cái gì cả?

- Anh không biết tôi đã rời bỏ tu viện.

- Hoàn toàn không.

- Đây là chuyện của tôi. Vả lại Thánh kinh nói: "Các con hãy sám hối với nhau". Vậy tôi xin sám hối với anh, D' Artagnan.

- Và tôi tôi xá tội cho anh trước, anh thấy tôi nhân từ chưa.

- Xin đừng đùa với những chuyện của thánh thần, bạn tôi ạ.

- Vậy anh nói đi tôi nghe đây:

"Tôi vào tu viện từ năm chín tuổi. Tới khi ba ngày nữa tôi tròn hai mươi tuổi, tôi sắp thành tu viện trưởng. Một việc đã được ấn định rồi. Một tối, theo thói quen tôi đi đến một ngôi nhà vẫn thích thú lui tới. Khi người ta trẻ, người ta thường yếu đuối, làm thế nào được. Một viên sĩ quan nhìn tôi bằng con mắt ghen tuông khi thấy tôi đang đọc cuốn "Những cuộc đời của Thánh nhân" cho nữ chủ nhân ngôi nhà nghe, liền bất thình lình xộc vào nhà không báo trước. Đúng buổi tối hôm ấy tôi đã dịch một mẩu chuyện của Juyđít và tôi cũng vừa đưa mấy câu thơ cho nữ chủ nhân xem, bà ta hết lời khen ngợi và ngả vào vai tôi để cùng đọc với tôi. Cái tư thế ấy có đôi chút hơi buông thả, tôi phải thú nhận như vậy và đã làm viên sĩ quan tổn thương, gã không nói gì nhưng khi tôi đi ra, hắn cũng ra theo và đuổi kịp tôi.

- Thưa ông tu viện trưởng - hắn nói - Ông có thích ăn đòn không?

- Tôi không thể nói điều ấy được, thưa ông - tôi đáp - vì không ai dám cho tôi bao giờ cả.

- Vậy nghe đây, ông tu viện trưởng, nếu ông còn trở lại ngôi nhà, mà tôi đã gặp ông tối nay, thì tôi dám đấy.

- Tôi tin là tôi cũng sợ, tôi tái hẳn người đi, cảm thấy như chân mình không còn nữa, tôi tìm một câu trả lời mà không được, tôi đành im.

Viên sĩ quan đợi câu trả lời đó và thấy mãi không có, hắn phá lên cười, quay lưng lại phía tôi và trở vào ngôi nhà. Tôi trở về tu viện.

Tôi là nhà quý tộc dòng dõi, và tôi có bầu máu nóng, như anh đã có thể nhận thấy, D' Artagnan thân mến, sự lăng mạ thật là khủng khiếp mặc dầu chẳng ai biết chuyện đó, tôi vẫn cảm thấy nó sống động trong đáy tim tôi. Tôi tuyên bố với các bề trên của tôi rằng tôi cảm thấy chưa chuẩn bị đầy đủ cho việc thụ phong và theo yêu cầu của tôi, người ta lui lễ lại một năm.

Rồi tôi xin thày dạy gươm bậc nhất ở Paris, đặt điều kiện với ông mỗi ngày học một bài đấu gươm và cứ như thế tôi học trong vòng một năm. Rồi tới ngày kỷ niệm một năm tôi bị lăng nhục, tôi treo áo thày tu lên, mặc một bộ đồng phục kỵ sỹ, rồi tôi đến một vũ hội do một quý bà, bạn tôi tổ chức và tôi biết con người kia của tôi thế nào cũng có mặt. Vũ hội ở phố Những thị dân tự do cạnh ngay phố Sức mạnh.

Quả nhiên viên sĩ quan của tôi có mặt. Tôi lại gần hắn, lúc hắn đang vừa hát một ca khúc ngắn về tình yêu vừa trìu mến nhìn một phụ nữ và tôi ngắt lời hắn giữa điệp khúc thứ hai. Tôi bảo hắn:

- Thưa ông, ông vẫn không hài lòng khi tôi quay lại ngôi nhà ở phố Payen và ông không còn cho tôi xơi đòn nữa, nếu như tôi nảy ra ý nghĩ kỳ quặc không tuân lời ông đấy chứ?

Viên sĩ quan nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói:

- Ông muốn gì tôi thưa ông? Tôi không quen biết ông.

- Tôi là viên tu viện trưởng nhỏ đọc cuốn "Cuộc đời các Thánh nhân" và dịch Juyđít thành thơ ấy mà.

- À, à… Tôi nhớ ra rồi - Viên sĩ quan chớt nhả - Ông muốn gì tôi nào?

- Tôi muốn ông có chút thì giờ nhàn rỗi đi dạo một vòng với tôi.

- Sáng mai, nếu ông muốn, và sẽ không gì làm tôi vui bằng.

- Không sáng mai gì cả, yêu cầu ông ngay lập tức.

- Nếu ông dứt khoát đòi như vậy.

- Phải, tôi đòi thế đấy.

- Vậy, ra thôi; thưa các quý bà - Viên sĩ quan nói - xin cứ tự nhiên. Đủ thì giờ để giết ông đây thôi và tôi sẽ quay lại hoàn tất điệp khúc cuối hầu các quý bà.

Chúng tôi đi ra.

- Tôi dẫn hắn đến phố Payen, đúng địa điểm một năm trước, đúng đến cả giờ hắn đã chúc mừng tôi, mà tôi vừa kể đó. Trăng sáng tuyệt đẹp, chúng tôi cầm gươm và ngay miếng đầu tiên, tôi đâm hắn chết tươi.

- Khiếp nhỉ! - D' Artagnan nhận xét.

Aramis tiếp tục:

- Thế rồi, vì các quý bà không thấy ca sĩ của mình trở lại, và người ta tìm thấy xác hắn ở phố Payen với một nhát gươm rất đậm xuyên qua người, người ta nghĩ chính tôi đã dính vào chuyện đó, và sự việc trở thành bê bối. Vì vậy tôi buộc phải cởi bỏ chiếc áo thày tu ít lâu. Athos mà tôi làm quen thời kỳ đó và Porthos là người đã dạy tôi thêm vài ngón gươm giang hồ ngoài những bài đấu gươm tôi đã học, cả hai quyết định tôi xin vào ngự lâm quân. Nhà Vua rất yêu quý cha tôi bị chết trong trận vây Arát nên đã ban chiếc áo ngự lâm quân cho tôi. Bây giờ, anh chắc hiểu đã đến lúc tôi phải trở lại trong sự nâng niu che chở của nhà thờ.

- Và tại sao hôm nay chứ không hôm qua hoặc ngày mai? Hôm nay cái gì đã xảy ra với anh, khiến anh có những ý nghĩ dữ tợn đến như vậy?

- D' Artagnan thân mến ạ, vết thương này đã là một lời cảnh cáo của Thượng đế đối với tôi.

- Vết thương ư? Chết tiệt? Nó đã gần khỏi rồi. Tôi tin chắc không phải nó làm anh đau đớn nhất.

- Thế thì cái gì? - Aramis đỏ mặt hỏi.

- Nó ở trong tim anh cơ! Aramis, một vết thương sâu và đẫm máu hơn, một vết thương do một người đàn bà kia.

Mắt Aramis long lanh lên ngoài ý mình, chàng giấu xúc động của mình dưới vẻ giả vờ hững hờ và nói:

- Đùng nói về những chuyện ấy nữa! Tôi mà lại đi nghĩ đến những chuyện ấy ư? Lại có những sầu muộn tình yêu ư? Vanitas Vanitatum!(11) vậy theo ý anh, đầu óc tôi đã bị đảo lộn rồi ư? Và vì ai? Vì con bé lam lũ lẳng lơ nào, hay cô ả hầu phòng nào mà tôi đã tán tỉnh trong trại lính ư? Xì!

- Xin lỗi, Aramis thân mến, nhưng tôi tin anh hướng lên tầm cao hơn kia.

- Cao hơn? Và tôi là ai mà lại đi có tham vọng đến thế? Một gã ngự lâm quân khốn khổ vô cùng quẫn bách, và hết sức tối tăm, căm ghét sự quỵ lụy và cảm thấy quá ư lạc lõng trong thế giới thời lưu.

- Aramis ơi là Aramis ơi! - D' Artagnan vừa kêu lên vừa nhìn bạn mình với vẻ nghi ngờ.

- Cát bụi, tôi trở về cát bụi. Cuộc đời là biển nhục, là bể khổ, chàng tiếp tục và sầm mặt lại - Mọi sợi dây gắn kết hạnh phúc với cuộc đời lần lượt bị đứt gãy trong bàn tay con người nhất là những sợi dây bằng vàng - Ôi, D' Artagnan thân mến của tôi - Aramis vừa tiếp tục vừa đem đến một vẻ cay đắng nhẹ nhàng cho giọng nói của mình - hãy tin tôi, hãy giấu kín những vết thương, đi nếu anh có. Sự im lặng là niềm vui cuối cùng của những con người bất hạnh, hãy giữ đừng để bất kỳ ai biết được dấu tích của những đau khổ của anh, những kẻ tò mò sẽ bâu vào hút nước mắt anh như lũ ruồi bâu vào hút máu một con hoẵng bị thương vậy.

- Than ôi! Aramis thân mến! - D' Artagnan đến lượt mình cũng thở dài nói - Chuyện anh nói cũng chính là chuyện của bản thân tôi đấy!

- Làm sao?

- Phải, một người đàn bà tôi yêu, tôi tôn thờ, vừa bị dùng bạo lực bắt cóc. Tôi không biết hiện giờ nàng ở đâu, người ta dẫn nàng tới đâu, nàng có thể là tù binh, cũng có thể nàng đã chết.

- Nhưng ít ra anh cũng có được niềm an ủi để tự bảo rằng nàng đã không tự nguyện rời bỏ anh, rằng nếu anh không có được chút tin tức nào của nàng, chính vì mọi thông tin với anh đều bị ngăn cấm, trong khi…

- Trong khi…

- Không - Aramis tiếp - không có gì.

- Như vậy, anh mãi mãi từ bỏ trần thế, một quyết định dứt khoát rồi chăng?

- Hoàn toàn mãi mãi. Hôm nay anh là bạn tôi. Ngày mai anh chỉ còn là một cái bóng với tôi mà thôi, hoặc hơn nữa, anh không tồn tại nữa. Còn thế gian, đó chính là một phần mộ chứ không phải cái gì khác.

- Quỷ sứ ơi! Điều anh nói với tôi thật quá thảm sầu!

- Anh còn muốn gì? Thiên hướng của tôi cuốn hút tôi, và bắt tôi đi!

D' Artagnan mỉm cười và không trả lời. Aramis tiếp tục:

- Tuy nhiên, chừng nào tôi vẫn còn trên trái đất này, tôi vẫn muốn nghe nói về anh, về các bạn của chúng ta.

- Và tôi - D' Artagnan nói - tôi lại muốn nói với anh về chính anh, nhưng tôi thấy anh đã quá tách mình ra khỏi tất cả. Những mối tình, anh không thèm nữa, bạn bè là những cái bóng, thế giới là một phần mộ.

Aramis thở dài:

- Than ôi! Rồi chính anh cũng sẽ thấy như vậy.

- Thôi không nói về những cái ấy nữa - D' Artagnan nói - và ta đốt quách bức thư, chắc chắn, chỉ có thông báo cho anh biết một sự phụ bạc mới của một ả lẳng lơ hoặc một cô hầu phòng của anh mà thôi.

- Thư nào? - Aramis vội reo lên hỏi.

- Một bức thư gửi đến cho anh, anh vắng mặt, nên nhờ tôi chuyển cho anh.

- Nhưng bức thư của ai?

- À, của một hầu gái khóc lóc, một ả lam lũ lẳng lơ đang thất vọng nào đó, có thể là cô gái hầu phòng của bà De Chevreuse cũng nên, cô ta buộc phải trở lại thành Tours với nữ chủ nhân của mình, và để làm ra vẻ tao nhã đã dùng giấy thơm và đã niêm phong thư của mình bằng con dấu của nữ Công tước.

- Anh bảo sao cơ?

- Xem nào hay tôi đánh mất rồi! - D' Artagnan tinh quái vừa nói vừa giả vờ tìm - May sao thế gian là một phần mộ, những người đàn ông, do đó cả những người đàn bà nữa đều là những cái bóng, và tình yêu là thứ tình cảm mà anh không thèm nữa!

- A, D' Artagnan ơi là D' Artagnan? - Aramis kêu lên - Cậu làm tớ chết mất thôi?

- A, nó đây rồi! - D' Artagnan nói. Và chàng rút bức thư ra khỏi túi.

Aramis chồm đến giật lấy bức thư bóc ra đọc, đúng hơn là ngốn ngấu, mặt bừng sáng lên.

- Hình như ả hầu gái văn phong hay lắm! - Người đưa thư uể oải nói.

- Cám ơn D' Artagnan! - Aramis sướng mê lên rối rít - Nàng buộc phải trở lại thành Tours. Nàng không phụ bạc mình. Lại đây, lại đây cho mình ôm hôn bạn. Mình đến ngất vì sung sướng mất!

Và hai người bạn ôm lấy nhau nhảy múa xung quanh cuốn kinh Thánh Critxtôm giẫm đạp một cách can trường lên những trang luận văn lăn lóc trên sàn nhà.

Đúng lúc đó, Bazin bước vào cùng với rau dền và trứng rán.

Aramis ném cái mũ chỏm thầy tu vào mặt gã hét lên:

- Tếch đi, đồ khốn kiếp? Từ đâu đến hãy xéo về đấy! Mang hết những thứ rau hãi hùng và món phụ ghê tởm này đi! Gọi một thỏ rừng nấu chua, một gà thiến béo, một đùi cừu ướp tỏi và bốn chai Buốcgô lâu năm cho ta.

Bazin ngơ ngác nhìn chủ chả hiểu gì về sự thay đổi ấy cả, rầu rĩ mặc cho trứng rớt xuống rau và rau rớt xuống sàn.

D' Artagnan thấy vậy nói:

- Giờ đây là lúc cống hiến đời anh cho Đức Vua của các Nhà vua, nếu anh còn định giữ chút lễ nghĩa với người. Non inutile desderium in oblatione.

- Vứt mẹ nó thứ tiếng Latinh của cậu cho quỷ sứ đi!

- D' Artagnan thân mến. Chúng ta hãy uống! Mẹ kiếp! Uống tươi uơng sống! Uống thật nhiều vào, và kể cho mình nghe người ta làm gì ở đó đi?

Chú thích:
(1) Rút từ "Jêrudalem giải phóng" anh hùng ca của nhà thơ Ý Torquato Tasso (1544-1595). Một nhân vật có sắc đẹp quyến rũ nhất của Jêrudalem đã giữ chân người anh hùng Rinaldo lạỉ trong khu vườn được phù phép. Thường dùng vườn Aramis để chỉ việc dùng sắc đẹp quyến rũ và làm điên đảo các tu mi nam tử.
(2) Tiếng Latinh có nghĩa: hoàn toàn tuyệt vời.
(3) Bơi dễ dàng hơn.
(4) Nhập đề, vào đề
(5) Đúng như sự bao la của thượng giới.
(6) Môixe, theo Cựu ước. một chiến binh một chính khách. ngưới giải phóng, nhà đạo đức, nhà lập pháp của dân tộc Hêbrơ, vốn chỉ là một đứa bé do một người đàn bà ở bộ tộc Lévi bỏ rơi trên sông Nile.
(7) Tiếng Latinh có nghĩa: Lời tranh cãi được chuyển hoàn toàn thành lời hoa mỹ hoặc lời giải thích cặn kẽ
(8) Giáo phái xuất xứ thời Brơtông, thế kỷ 5, phủ nhận tác dụng của sự cứu rỗi và tội truyền kiếp.
(9) Tiếng Latinh: Sự thèm muốn quỷ dữ
(10) Olivier Patru - một luật sư nổi tiếng thế kỷ 17.
(11) Tiếng Latinh: Phù phiếm cả mà thôi!


BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 27

Người vợ của Athos

Sau khi đã kể cho chàng Aramis lanh lợi biết rõ mọi việc diễn ra ở kinh đô từ khi họ ra đi và một bữa trưa thịnh soạn làm cho người thì quên đi bản luận văn, người thì quên hẳn nỗi mệt nhọc, D' Artagnan nói:

- Bây giờ việc còn lại là phải biết tin tức về Athos.

- Cậu tin anh ấy gặp bất hạnh ư? - Aramis hỏi - Anh Athos rất chi lạnh tính, rất can trường và là tay gươm rất giỏi kia mà.

- Hẳn thế rồi, và không ai biết rõ hơn tôi về lòng can đảm và tay gươm tuyệt vời của Athos. Nhưng tôi thích gươm tôi đấu với giáo hơn là với gậy. Tôi sợ rằng anh Athos sẽ bị bọn gia nhân quần cho tơi bời, mà lũ gia nhân thì chúng đánh dữ và dai lắm. Vì vậy mà tôi phải thú thật với anh, tôi muốn lại ra đi ngay càng sớm càng tốt.

- Mình sẽ cố đi cùng với cậu - Aramis nói - cho dù mình cảm thấy chưa đủ sức lên ngựa mấy. Hôm qua, mình đã thử dùng cái roi hành xác treo trên tường đó, và đau quá mình không thể tiếp tục được cái bài tập thành kính ấy.

- Chính thế đấy, bạn thân mến, chả ai bao giờ thấy việc thử chứa một phát đạn hỏa mai bằng vụt roi vào người cả. Nhưng anh còn ốm, và ốm đau làm cho đầu óc không tỉnh táo, tôi bỏ qua cho anh. Mai, sớm tinh mơ. Đêm nay anh cứ ngủ cho thật tốt vào, và ngày mai, nếu anh có thể, chúng ta sẽ cùng đi.

- Vậy để đến mai - Aramis nói - vì dù có xương đồng da sắt đi nữa, cậu cũng cần phải nghỉ ngơi.

Hôm sau, khi D' Artagnan bước vào phòng Aramis, đã thấy Aramis ở cửa sổ, D' Artagnan hỏi:

- Anh nhìn gì ở đó thế?

- Thú thật! Tôi đang chiêm ngưỡng ba con ngựa đẹp lộng lẫy mà bọn trai coi ngựa đang giữ cương. Cưỡi những con ngựa đó mà đi du hành thì sướng như ông hoàng.

- Thế thì anh Aramis thân mến của tôi ơi, anh hãy sướng đi bởi vì một trong mấy con ngựa đó là của anh.

- Thật không? Thế con nào?

- Con anh thích nhất trong ba con ấy, tôi thì con nào cũng thế thôi.

- Và cả tấm thảm đắt giá phủ lưng ngựa cũng là của tôi?

- Chắc chắn rồi.

- Cậu định giỡn tôi chắc, D' Artagnan?

- Từ lúc anh nói tiếng Pháp, tôi không còn giỡn anh nữa.

- Cả những bao súng ngắn mạ vàng, tấm nhung phủ hông ngựa, bộ yên ghim đinh bạc cũng là của tôi?

- Của chính anh, cũng như con ngựa đang dậm chân là của tôi và cái con đang nhảy nhót kia là của Athos.

- Mẹ kiếp! Đúng là ba con ngựa tuyệt luân?

- Tôi rất mừng vì chúng hợp với sở thích của anh.

- Vậy là nhà Vua đã ban tặng cậu món quà đó ư?

- Chắc chắn không phải của Giáo chủ rồi. Nhưng anh đừng bận tâm chúng từ đâu đến, hãy nghĩ một trong ba con thuộc của anh thôi.

- Mình lấy cái con thằng hầu tóc hung đang giữ ấy.

- Cừ lắm!

- Thượng đế muôn năm! - Aramis reo lên - Thế này thì còn đau ở đâu cũng sẽ hết. Ba mươi phát đạn vào người, mình vẫn sẽ phi nó cho mà xem. Ôi, thề trên linh hồn mình đó, những cái bàn đạp mới đẹp tuyệt chứ! Ê, nào, Bazin đâu, đến đây ngay tức khắc đi!

Bazin rầu rĩ và héo úa người đi, hiện ra trước cửa.

- Lau chuốt thanh gươm của ta, nắn lại mũ, chải lại áo khoác và nạp đạn thuốc vào mấy súng ngắn cho ta.

D' Artagnan ngắt lời:

- Không cần lời dặn cuối đâu. Đã có sẵn súng ngắn nạp thuốc rồi trong các bao súng.

Bazin thở dài.

- Thôi nào, thầy Bazin, yên tâm đi - D' Artagnan nói - - Người ta có thể đến được vương quốc cái thiên thần trong mọi hoàn cảnh mà.

- Ông chủ đã từng là một nhà thần học tài ba! - Bazin nói mà rưng rưng nước mắt - Ông ấy có thể trở thành giám mục hoặc hồng y Giáo chủ ấy chứ.

- Thôi nào! Bazin khốn khổ của ta ơi, đừng nghĩ ngợi làm gì. Là người tu hành thì làm được cái gì, ta xin anh đấy. Mà tu hành thì có tránh ra trận được đâu. Anh thừa biết Giáo chủ ra trận lần đầu với cái mũ bình thiên và ngọn giáo trong tay. Còn ông Nôgarê đờ la Valét, anh nói thế nào? Ông ta cũng là Giáo chủ đấy. Thử hỏi lính hầu của ông ta xem bao nhiêu lần phải băng bó cho ông ta?

- Ôi! Bazin thở dài - tôi cũng biết thế, thưa ông, ngày nay mọi chuyện trong thế giới đều lộn tùng phèo hết.

Trong khi đó, hai chàng trai trẻ và gã người hầu khốn khổ cùng đi xuống. Rồi Aramis nói:

- Giữ bàn đạp cho ra, Bazin.

Rồi Aramis nhẹ nhàng, duyên dáng nhảy tót lên yên ngựa như mọi khi, nhưng chỉ sau mấy lần con ngựa quý nhảy cỡn và chồm lên, chàng kỵ sĩ của nó cảm thấy đau không chịu nổi, tái người đi và lảo đảo. D' Artagnan đã tiên liệu tai nạn đó, nên vẫn không rời mắt, liền chạy băng tới, đỡ xuơng và dẫn bạn mình về phòng rồi bảo:

- Tốt rồi, Aramis thân mến, anh cứ chữa trị đi, tôi sẽ đi một mình tìm Athos.

- Cậu đúng là một con người thép - Aramis nói.

- Không, tôi may hơn, có thế thôi. Nhưng trong khi đợi tôi, anh sẽ sống ra sao? Không còn những lời chú giải về số ngón tay ban phúc và những lời ban phúc nữa chứ, hả?

Aramis mỉm cười, nói:

- Mình sẽ làm thơ.

- Phải đấy, những vần thơ thơm nức mùi nước hoa bức thư ngắn của ả hầu bà De Chevreuse. Anh hãy dạy âm vận thơ cho Bazin đi, cái đó sẽ an ủi gã. Còn con ngựa, hàng ngày cưỡi nó một chút để điều khiển nó cho quen đi.

- Ồ về chuyện đó, cậu cứ yên tâm - Aramis nói - Khi trở lại cậu sẽ thấy mình đã sẵn sàng theo cậu rồi.

Họ chào tạm biệt nhau, và sau khi đã ủy thác bạn mình cho Bazin và bà chủ quán, D' Artagnan cho ngựa đi nước kiệu về phía Amiêng.

Chàng sẽ tìm Athos thế nào đây và liệu có tìm thấy không? Chàng đã để bạn mình lại trong tình thế hiểm nghèo. Người bạn thở dài khiến chàng buông khẽ những lời thề báo hận.

Trong tất cả số bạn bè, Athos là người nhiều tuổi nhất, và bề ngoài ít gần với sở thích và tình cảm của chàng nhất. Tuy nhiên, chàng lại ưa thích con người quý tộc ấy rõ rệt nhất. Phong thái cao quý và thanh lịch của anh ấy, tầm lớn lao của anh thỉnh thoảng lại lóe sáng từ vùng bóng tối mà anh tự nguyện giấu mình vào, tính tình điềm tĩnh không suy suyển khiến anh là người bạn dễ dãi nhất trên đời, niềm vui bất đắc dĩ và cay đắng, sự can trường có thể gọi là mù quáng nếu không phải là kết quả của sự bình tĩnh hiếm hoi nhất, bấy nhiêu phẩm chất ấy của anh khiến chàng hết lòng ngưỡng mộ và còn hơn cả chỉ là quý trọng và bạn bè thân thiết với anh.

Quả thật, đem so sánh ngay với ông De Treville, một triều thần tao nhã và cao quý, Athos trong những ngày anh vui vẻ, anh còn có phần hơn. Vóc người tầm thước, nhưng thân hình lại quá ư cân đối, và tuyệt đẹp, mà, nhiều lần trong những cuộc đấu sức anh đã quật đổ Porthos, gã khổng lồ mà sức mạnh thể xác đã trở thành huyền thoại trong ngự lâm quân. Khuôn mặt với đôi mắt sắc, mũi thẳng, với chiếc cằm như tượng tạc kiểu cằm của Brutus(1); một tính cách cao thượng và duyên dáng khó xác định; đôi bàn tay không hề chăm chút nhưng vẫn làm cho Aramis phải thất vọng mặc dầu chàng ra sức chăm sóc tay mình bằng kem hạnh nhân và dầu thơm; giọng nói của anh nghe thấm thía lại du dương, và rồi, cái khó xác định trong người Athos, người luôn luôn tỏ ra thấp kém và lu mờ, cái đó chính là cái khoa học về thời lưu và về những lề thói của cái xã hội sáng giá nhất, cái thói quen của một nhà dòng dõi tự lộ ra mà không hề hay biết trong những hành động nhỏ nhặt nhất của mình.

Về mặt ăn uống, Athos đặt ăn giỏi hơn bất kỳ ai, xếp khách ăn đúng chỗ và đúng ngôi thứ mà tổ tiên hoặc chính bản thân họ đã tạo ra cho mình. Về khoa huân huy chương, Athos thông thạo mọi gia tộc quý phái trong vương quốc, phả hệ của họ, sự liên minh giữa các dòng họ, gia huy và nguồn gốc gia huy. Về nghi thức anh biết đến từng chi tiết. Anh biết rõ quyền lợi của các đại điền chủ là thế nào. Anh biết sâu sắc cách săn bắn bằng chó và chim ưng, và một hôm nhân đàm đạo về cái nghệ thuật lớn này, anh làm Vua Louis XIII phải ngạc nhiên, trong khi đó, bản thân nhà Vua thuộc lại bậc thầy.

Cũng như các đại lãnh chúa thời ấy, anh cưỡi ngựa và sử dụng vũ khí thuộc loại thiện nghệ. Thêm nữa việc học hành của anh không một chút xao lãng, ngay cả trong lĩnh vực kinh viện học rất hiếm thấy trong giới quý tộc, anh chỉ mỉm cười khi Aramis phun ra mấy câu Latinh cụt ngủn, còn Porthos thì ra vẻ hiểu. Vài ba lần khi Aramis để lộ ra một sai lầm sơ đẳng nào đó, đặt động từ không đúng thời, một danh từ không đúng cách, Athos đã sửa lại trước sự ngạc nhiên vô cùng của các bạn. Ngoài ra, tính chính trực của anh là không thể lay chuyển được trong cái thế kỷ mà các quân nhân quá dễ dàng coi nhẹ tôn giáo và lương tâm của mình, các tình nhân quá dễ dàng coi nhẹ sự tế nhị nghiêm ngặt của thời đại chúng ta, và những người nghèo coi nhẹ dễ dàng đối với điều răn thứ bẩy của Chúa. Vì vậy, Athos quả là một con người rất phi thường.

Và tuy vậy cái bản tính quá ưu việt, cái sinh linh quá tốt đẹp cái khí chất quá tinh tế ấy quay lại một cách vô cảm với cuộc sống vật chất, cũng như các cụ già quay lại với sự ngây ngô về thể xác và tinh thần. Athos trong những giờ phút thiếu thốn đó, mà những giờ phút đó lại khá thường xuyên đã tự tắt trong cái phần tỏa sáng của mình và cái mặt ngời ngời của anh bị biến mất trong đêm trường sâu thẳm.

Thế là phần bán thần tàn lụi, anh chỉ còn gần như một con người. Đầu gằm xuống, mắt lơ mơ, lời nói nặng nề và khó khăn. Athos nhìn hàng mấy giờ liền hoặc cái chai và chiếc cốc, hoặc Grimaud, kẻ đã quen vâng lời bằng tín hiệu và đọc được trong con mắt vô sắc của chủ mình cả tới những ước muốn tầm thường nhất để thỏa mãn chủ ngay tức khắc. Giá như bốn người bạn tụ hội vào nước lúc như thế, hết sức cố gắng thất ra được một lời để góp vui vào câu chuyện cũng là hết mức đối với Athos rồi. Đổi lại, Athos một mình uống bằng bốn người và tuy uống như thế, nhưng anh tựa như không có gì thay đổi ngoài sự cau mày lộ liễu hơn và nỗi buồn sâu sắc hơn.

D' Artagnan như ta đã biết, vốn có óc xét đoán và sắc sảo, dù có đôi chút quan tâm để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình về chuyện đó, cũng vẫn không thể gán cho nó bất kỳ nguyên nhân nào, hoặc xác định được do hoàn cảnh nào đã dẫn đến tình trạng suy sụp đó của Athos. Không bao giờ Athos nhận được thư từ, cũng chẳng bao giờ tiến hành một việc gì mà các bạn không biết.

Không thể nói rượu đem lại cho anh nỗi sầu muộn đó, trái lại anh chỉ uống để dẹp nỗi buồn sầu mà phương thuốc đó càng làm thêm u uất hơn. Cũng không thể gán cho cái vẻ u sầu thái quá ấy do thua bạc vì trái hẳn với Porthos tùy theo lúc đỏ đen thường hát ca hay chửi rủa, Athos dù thua dù được vẫn bình thản như không. Người ta đã từng thấy anh tại câu lạc bộ ngự lâm quân một tối được một nghìn đồng vàng, rồi lại thua hết, và mất cả chiếc đai lưng thêu sợi vàng dùng trong ngày hội, rồi lại được tất cả cộng thêm một trăm đồng vàng louis nữa, mà đôi lông mày đẹp và đen nhánh của anh không hề dướn lên hay cúp xuống, mà đôi bàn tay anh không hề mất đi vẻ ngà ngọc, và việc chuyện trò vui vẻ tối đó không vì thế mà không bình tĩnh và thoải mái.

Càng không phải, như những người láng giềng Anh quốc do ảnh hưởng của khí hậu mà sầm tối mặt mày, bởi nỗi sầu muộn đó càng thấm đậm hơn vào những ngày đẹp trời trong năm.

Tháng sáu và tháng bảy là những tháng khủng khiếp của Athos. Đối với cuộc sống hiện tại, anh không có gì buồn phiền, anh nhún vai khi người ta nói với anh về tương lai. Bí mật của anh đã thuộc về quá khứ, như người ta đã nói một cách mơ hồ với D' Artagnan.

Cái sắc dạng bí ẩn nhuốm màu trên khắp người anh, khiến cái con người trong lúc say sưa túy lúy nhất, đôi mắt và cái miệng cũng không bao giờ hé ra điều gì dù những câu hỏi dò xét được đưa ra khéo léo nhất, càng được người ta mến mộ hơn.

D' Artagnan lẩm bẩm giờ này Athos tội nghiệp có khi đã chết rồi, mà chết do lỗi của ta, bởi chính ta đã lôi anh vào việc này, mà anh lại không biết gốc gác, chẳng rõ kết quả, và cũng chẳng được lợi lộc gì.

- Chưa kể, thưa ông - Planchet trả lời - Chúng ta sống có lẽ là nhờ ông Athos. Ông có nhớ ông ấy đã kêu lên: "Chạy đi, D' Artagnan, tôi bị tóm rồi". Và sau khi đã nổ hai phát súng ngắn, tiếng gươm vun vút của ông ấy mới khủng khiếp làm sao!

- Có thể nói đến hai chục người, đúng hơn là hai chục quỷ dữ đang điên dại!

Những lời nói ấy làm tăng gấp bội bầu máu nóng của D' Artagnan, chàng thúc ngựa, mà con ngựa thì chẳng cần phải thúc cũng đã mang người kỵ sỹ của mình phi nước đại rồi.

Khoảng mười một giờ sáng thì trông thấy Amiêng, và mười một rưỡi, hai người đã tới trước cửa cái quán trọ đáng nguyền rủa.

D' Artagnan vẫn thường luôn suy tính đến một cuộc trả thù thích đáng tên chủ quán điên đảo này họa chăng mới thỏa lòng chàng. Chàng kéo mũ dạ sụp xuống che mắt, tay trái giữ chuôi gươm tay phải quất roi ngựa vun vút bước vào quán trọ.

- Ông còn nhớ tôi chứ? - chàng nói với chủ quán đang tiến ra để chào khách.

- Thưa quý ông, tôi không có được cái vinh dự ấy - gã trả lời, mắt còn đang lóa lên vì đoàn người ngựa quý giá xuất hiện cùng với chàng.

- Chà, ông lại không biết ta ư?

- Không, thưa quý ông.

- Thôi được! Chỉ mấy câu hỏi là làm ông nhớ hết thôi. Ông đã làm gì nhà quý tộc cách đây khoảng mười lăm ngày, đã bị ông cả gan buộc tội làm bạc giả?

Chủ quán xanh mặt, bởi D' Artagnan tỏ thái độ hăm đọa dữ tợn nhất, và Planchet cũng làm y như chủ mình.

- Ôi thưa Đức ông, xin đừng nói với tôi về chuyện ấy, - tên chủ quán kêu lên bằng một giọng muốn khóc - Ôi! Thưa đại nhân, tôi đã phải trả giá đắt chừng nào về cái lỗi lầm này. Ôi, khốn nạn cái thân tôi!

- Nhà quý tộc, ta hỏi ông, bây giờ ra sao?

- Xin Đức ông nghe tôi nói, và xin đại lượng từ bi, xin làm phúc hãy ngồi xuống đã nào.

D' Artagnan giận và lo không nói được ra lời, ngồi xuống, hầm hầm như một quan tòa. Planchet ngạo nghễ tựa lưng vào ghế bành của mình.

- Thưa Đức ông, chuyện là như thế này - chủ quán run như cầy sấy nói tiếp - vì lúc này tôi đã nhận ra ngài rồi, ngài là người đã đi mất khi tôi mắc vào cái chuyện rắc rối khốn khổ với nhà quý tộc mà ngài nói.

- Phải, chính ta, như vậy, ông thừa biết, ông đừng mong ta tha tội, nếu ông không nói toàn bộ sự thật cho ta!

- Vậy mong hãy nghe tôi, và ngài sẽ rõ tất cả.

- Ta nghe đây.

- Tôi đã được nhà đương cục báo trước một tên làm bạc giả trứ danh sẽ đến quán trọ tôi với mấy tên đồng bọn tất cả đều cải trang dưới trang phục cận vệ hoặc ngự lâm quân. Ngựa, người hầu và hình dạng các vị đều được miêu tả cho tôi rõ.

D' Artagnan nhận ra ngay do đâu có sự chỉ điểm chính xác đến như thế. Chàng hỏi:

- Rồi sao nữa? Sao nữa?

- Vậy là được nhà đương cục phái đến sáu người tiếp viện, và ra lệnh cho tôi, tôi đã sử dụng những biện pháp mà tôi cho là khẩn cấp để bắt giữ kỳ được mấy người bị mạo danh làm bạc gia.

Nghe mấy tiếng làm bạc giả. D' Artagnan nóng rực tai lên:

- Lại vẫn nói thế hả?

- Xin Đức ông tha thứ, vì đã chót nói ra những điều như vậy, nhưng đây thật ra chỉ là cái cớ của tôi thôi. Nhà cầm quyền làm tôi sợ và ngài cũng biết một chủ quán thì phải biết làm theo nhà cầm quyền.

- Nhưng một lần nữa ta hỏi đây, nhà quý tộc ấy ở đâu? Ông ấy ra sao? Còn sống hay đã chết?

- Thưa Đức ông, xin hãy kiên nhẫn một chút, tôi nói ngay bây giờ đây. Vậy là xảy đến cái điều ngài đã biết, mà việc ra đi đột ngột của ngài - chủ quán nói thêm với vẻ ranh ma không lọt khỏi con mắt của D' Artagnan - việc ra đi ấy dường như đã cho phép có lối thoát. Nhà quý tộc, bạn ngài chống cự tuyệt vọng.

- Người hầu của ông ấy chẳng may vô tình gây sự với các nhân viên của nhà chức trách cải trang làm bồi coi chuồng ngựa.

- Chà, quân khốn kiếp! - D' Artagnan hét lên - tất cả bọn ngươi đã đồng lõa với nhau, ta không hiểu vì cái gì mà chưa giết sạch lũ ngươi!

- Ôi, không, thưa Đức ông, chúng tôi không đồng lõa cả lũ với nhau đâu, rồi Đức ông sẽ thấy ngay thôi. Ngài bạn của Đức ông (tôi xin lỗi vì không biết tên) sau khi đã loại khỏi vòng chiến hai người bằng hai phát súng ngắn, vừa đánh chống đỡ để rút lui bằng lưỡi gươm của mình, rồi đâm què thêm một người nữa của tôi và dùng mặt gươm quật tôi bất tỉnh.

- Nhưng, tên đao phủ kia, mi có chấm dứt đi không? - D' Artagnan nói - Athos, ông Athos ra sao kia?

- Vừa đánh vừa lùi, như tôi đã nói với ngài, ông ấy thấy phía sau mình cầu thang của hầm rượu và vì cửa đang mở, ông ấy rút chìa khóa cất đi và chặn lại từ bên trong, vì người ta tin chắc có thể tìm lại ông ấy, họ để mặc cho ông ấy tự do.

- Phải - D' Artagnan nói - người ta chưa định giết ông ấy nên mới chỉ tìm cách cầm tù ông ấy thôi.

- Trời ơi. Cầm tù ông ấy ư, thưa Đức ông? Ông ấy tự cầm tù thì có, tôi xin thề đấy. Lúc đầu ông ấy đã làm một việc khốc liệt: một người bị chết tươi và hai bị thương nặng. Người chết và hai người bị thương được đồng đội khênh đi và tôi chẳng còn nghe thấy nói năng gì về người này, người khác trong bọn họ nữa. Bản thân tôi khi tỉnh lại, tôi đến gặp ông trấn thủ kể lại mọi chuyện và hỏi tôi phải làm gì với người tù. Nhưng ông trấn thủ như rơi từ trên mây xuống, ông nói hoàn toàn chẳng hay biết gì điều tôi muốn nói, và những mệnh lệnh đến với tôi không phải do ông ban ra, và nếu tôi vô phúc nói ra với bất kỳ ai là ông có chút dính dáng đến cuộc xung đột này. Ông sẽ cho treo cổ tôi.

- Thưa ông, có vẻ như tôi đã bắt giữ nhầm người này thay cho người khác và người đáng ra phải bị bắt đã trốn thoát.

Thấy nói nhà cầm quyền bỏ mặc câu chuyện, D' Artagnan càng sốt ruột gấp bội và hét lên:

- Nhưng còn Athos? Athos ra sao?

- Tôi vội sửa chữa ngay những sai lầm của tôi đối với người tù - chủ quán tiếp - tôi đến hầm rượu và định thả ông ra. Ôi! Thưa ông, không phải một con người nữa mà là một con quỷ. Về việc đề nghị thả, ông tuyên bố đấy là một cái bẫy giăng ra bắt ông và trước khi ra, ông buộc phải tuân theo các điều kiện của ông. Tôi hạ mình hết mức nói với ông rằng tôi sẵn sàng tuân chịu những điều kiện của ông, bởi tôi chẳng giấu cái tình cảnh tồi tệ tôi tự chuốc lấy vì đã dám ra tay với một ngự lâm quân của Hoàng thượng. Thế rồi ông bảo tôi: "Trước hết, ta muốn trả người hầu được trang bị vũ khí cho ta".

Chúng tôi vội tuân lệnh ngay, bởi vì ngài thừa hiểu, chúng tôi bị đặt vào tình thế phải làm tất cả những gì bạn ngài muốn.

Ông Grimaud, ông ấy đã nói tên ra, và chỉ thế thôi, được đưa xuống hầm, vẫn đầy mình thương tích. Thế rồi, ông chủ nhận người hầu xong lại chặn cửa lại và ra lệnh cho chúng tôi cứ ở trong cửa hàng.

- Nhưng rốt cuộc - D' Artagnan lại hét lên - Ông ấy ở đâu? Athos ở đâu rồi?

- Trong hầm rượu, thưa ông.

- Sao, đồ khốn kiếp, mi giữ ông ấy trong hầm rượu từ bấy đến nay ư?

- Trời đất quỷ thần ơi! Đâu có, thưa ngài. Chúng tôi mà lại giữ được ông ấy trong hầm! Vậy ngài không biết ông ấy làm gì trong hầm ư? Ôi, nếu ngài có thể làm ông ấy chịu ra, tôi sẽ suốt đời biết ơn ngài, tôi xin thờ ngài như vị thánh tổ của tôi.

- Nghĩa là ông ta vẫn ở đó? Ta sẽ tìm lại được ông ta ở đó?

- Chắc chắn rồi, thưa ngài, ông ấy cứ khăng khăng ở lại. Hàng ngày, phải đưa bánh và thịt bằng một cái xỉa qua lỗ thông hơi khi ông yêu cầu. Nhưng than ôi! Không phải bánh và thịt là khoản tiêu thụ lớn nhất của ông. Một bữa, tôi cùng hai gã hầu bàn định thử xuống hầm nhưng ông liền nổi giận khủng khiếp.

- Tôi nghe thấy tiếng ông ấy nạp đạn vào súng ngắn và Grimaud nạp đạn vào súng trường. Rồi vì là chúng tôi hỏi các ông có ý định gì, ông chủ trả lời rằng thầy trò ông ấy có bốn chục viên đạn và sẽ bắn đến phát cuối cùng còn hơn cho phép bất kỳ ai trong chúng tôi đặt chân xuống hầm. Thưa ông, thế là tôi lại đến kêu với ông trấn thủ, ông trả lời rằng thế mới đáng kiếp cho tôi, và việc đó sẽ dạy cho tôi biết thế nào là lăng nhục các vị đại nhân đáng kính đến trọ ở quán tôi.

- Thành ra từ lúc đó… - D' Artagnan không thể nhịn cười trước bộ mặt thiểu não của chủ quán, liền hỏi.

- Từ lúc đó, thưa ngài, đời sống chúng tôi trở nên cực kỳ bi đát, bởi vì ngài phải biết rằng tất cả nguồn thực phẩm của chúng tôi đều ở dưới hầm, nào là vang chai, vang thùng, bia, dầu, gia vị, mỡ, và xúc xích, và vì bị cấm được xuống, chúng tôi buộc phải từ chối lữ khách tới trọ gọi uống, gọi ăn đến nỗi ngày nào lữ quán chúng tôi cũng mất khách. Bạn ngài chỉ ở thêm một tuần lễ nữa dưới hầm là chúng tôi phá sản.

- Thế mới công bằng, đồ vô lại ạ? Nhìn dáng bộ chúng ta lại không biết chúng tôi là những con người danh giá chứ không phải đồ giả mạo hay sao?

- Vâng, thưa ông, ông nói đúng - chủ quán nói - Nhưng, xem nào, xem nào, ông ấy lại nổi giận đấy.

- Chắc hẳn lại quấy rầy ông ấy chứ gì? - D' Artagnan nói.

- Nhưng đành phải quấy rầy ông ấy thôi. - Chủ quán nói - vì mới có hai vị quý tộc người Anh đến quán chúng tôi.

- Thì sao?

- Thì thế đấy! Bọn người Anh thích vang ngon như ông biết đấy. Bọn họ đòi loại thượng hạng. Vợ tôi chắc có lẽ đến van xin ngài Athos cho phép xuống hầm để thỏa mãn các vị kia. Và ông ấy chắc đã từ chối như thường lệ, ôi trời đất ơi, tiếng la hét, mắng nhiếc lại tăng lên gấp bội.

Quả nhiên, D' Artagnan cũng nghe thấy tiếng ầm ầm cạnh hầm rượu. Chàng liền đứng dậy, đi trước là chủ quán vừa đi vừa vặn vẹo hai tay, và theo sau là Planchet cầm theo súng trường đã nạp đạn, đến gần chỗ xảy ra cảnh náo loạn.

Hai nhà quý tộc Anh đang nổi cáu, họ đã đi một đoạn đường dài và đang sắp chết đói và chết khát.

- Nhưng như thế là bạo hành quá đáng! - Bọn họ hét lên bằng tiếng Pháp rất chuẩn, tuy có hơi lơ lớ giọng nước ngoài - Cái lão điên này lại không cho những con người tốt này sử dụng rượu vang của họ. Đã thế thì chúng tôi sẽ phá cửa mà vào và nếu hắn điên quá, chúng tôi giết béng hắn đi thế là xong.

- Đứng lại các vị! - D' Artagnan vừa nói vừa rút hai khẩu súng ngắn ở đai lưng ra. Các vị sẽ không giết ai hết, xin vui lòng vậy - Tốt thôi, tốt thôi! - Tiếng của Athos bên sau cánh cửa bình tĩnh phát ra - cứ để bọn ăn thịt trẻ con ấy vào thử một chút xem sao nào.

Có vẻ rất can trường thế đấy, nhưng hai nhà quý tộc người Anh nhìn nhau ngại ngùng. Người ta đồn trong hầm rượu có một con quỷ đói, gã khổng lồ trong huyền thoại dân gian mà không ai vào trong hang của nó mà không bị trừng phạt. Lặng đi một lúc, cuối cùng người Anh sợ lùi sẽ xấu hổ, và gã bẳn tính hơn bằng hai bước đã xuống năm sáu bậc thang và đập mạnh vào cửa tưởng đến vỡ cả tường.

- Planchet - D' Artagnan vừa nói vừa lên đạn hai khẩu súng ngắn - ta đảm nhiệm tên đứng trên, còn anh thằng phía dưới.

- Này các vị, các vị muốn giao chiến! Thế thì người ta đến để giao chiến với các vị!

- Trời ơi! - Giọng trầm sâu của Athos hét toáng lên - Hình như ta nghe thấy tiếng D' Artagnan.

- Đúng đấy - D' Artagnan cũng cao giọng nói vọng vào - chính tôi đây, bạn ạ.

- A, tốt lắm, - Athos nói - Ta quần cho cái bọn phá cửa này một trận chứ.

Mấy người quý tộc kia đã lăm lăm tay gươm, nhưng họ thấy mình giữa hai làn đạn nên lừng chừng thêm một lát, nhưng cũng như lần trước lòng kiêu hãnh đã thắng và thêm một cái đạp chân làm vỡ cánh cửa suốt từ trên xuống.

Athos kêu lên:

- Tránh ra, D' Artagnan, tránh ra đi, tôi bắn đấy.

- Các vị! - D' Artagnan nói, - hãy kiên nhẫn đã các vị tự nhiên đâm đầu vào một chuyện tồi tệ, và chỉ tổ nát người. Tôi và người hầu của tôi đây sẽ nã vào các vị ba phát và cũng ngần ấy phát từ trong hầm rượu tương ra các vị. Rồi chúng tôi lại còn gươm nữa chứ, mà tôi xin đảm bảo với các vị tôi và bạn tôi sử dụng cũng kha khá. Vậy hãy để tôi thu xếp việc của các vị với việc của tôi. Tôi xin hứa danh dự chỉ chốc nữa các vị sẽ được uống ngay thôi.

- Nếu như còn rượu - giọng Athos làu bàu giễu cợt.

Gã chủ quán cảm thấy một dòng mồ hôi lạnh chạy dọc xương sống.

- Sao, nếu như còn rượu ư? - Gã lẩm bẩm.

- Con khỉ ạ? Sẽ còn tôi - D' Artagnan tiếp - cứ bình tĩnh nào, có hai người làm sao uống hết cả hầm rượu, còn các vị, tra gươm vào vỏ đi. Thế thì ông cũng cài súng vào đai lưng đi!

- Xin sẵn sàng.

Và D' Artagnan làm gương trước. Rồi quay lại phía Planchet, chàng ra hiệu tháo đạn súng trường.

Bọn người Anh đã tin chắc, làu bàu tra gươm vào vỏ. Người ta kể lại cho họ chuyện Athos bị cầm tù. Và vì họ là những nhà quý tộc đứng đắn nên họ cho lỗi là ở tại chủ quán.

- Bây giờ thưa các vị - D' Artagnan nói - xin mời các vị trở về phòng mình, và trong mười phút, tôi đảm bảo người ta sẽ mang tới cho các vị tất cả những gì các vị muốn.

Bọn người Anh chào và đi ra.

- Bây giờ còn lại có mình tôi - D' Artagnan nói - Anh Athos thân mến ạ, mở cửa cho tôi đi, tôi xin anh đấy.

- Mở ngay đây - Athos nói.

- Thế là người ta nghe thấy tiếng rầm rầm của những thanh gỗ đập vào nhau và của những dầm nhà kêu kẽo kẹt. Đó là những ụ chống và pháo đài của Athos, mà bản thân kẻ bị vây hãm đang phá hủy.

Một lát sau cái cửa rùng rùng chuyển động, bộ mặt xanh xao của Athos hiện ra và đảo mắt rất nhanh dò xét xung quanh.

D' Artagnan nhảy lên bá cổ và ôm hôn trìu mến Athos. Rồi khi chàng định lôi anh ra khỏi nơi trú ngụ ẩm thấp, thì chỉ đến lúc đó chàng mói thấy anh đang lảo đảo:

- Anh bị thương ư? - Chàng hỏi.

- Tôi ư? Không đời nào. Chỉ bí tỉ, thế thôi. Và chả có ai bao giờ lại có thể say hơn như thế. Chúa trời muôn năm, chủ quán ơi! Riêng phần tôi, ít nhất cũng phải uống đến một trăm năm chục chai đấy.

- Khốn nạn thân tôi! - chủ quán kêu lên - Nếu người hầu của ông chỉ uống bằng phân nửa chủ mình thì tôi cũng đến phá sản mất.

- Grimaud là một người hầu dòng dõi thế gia, không cho phép mình tầm thường như tôi đâu. Hắn chỉ uống ở thùng thôi. Xem nào, tôi tin là hắn quên đóng nắp lỗ thùng. Các ông nghe thấy không? Nó đang chảy đấy.

D' Artagnan cười phá lên làm cho cơn run rẩy của chủ quán thành cơn sốt nóng.

Cùng lúc đó Grimaud đến lượt mình cũng hiện ra sau ông chủ, súng trường trên vai, đầu lắc lư như những kẻ dâm đãng say sưa trong những tranh của Rubens(2). Người hắn cả đằng trước lẫn đằng sau ướt đẫm một thứ nước nhờn mà chủ quán nhận ra đó là loại dầu ô-liu hảo hạng.

Đoàn người trịnh trọng đi xuyên qua đại sảnh và đến trụ tại một phòng sang nhất lữ quán mà D' Artagnan đàng hoàng chiếm lấy.

Trong khi đó, vợ chồng chủ quán cầm đèn nhảy bổ xuống căn hầm đã khá lâu bị cấm và một cảnh tượng đáng sợ đang chờ họ ở đó.

Phía sau những thành lũy mà Athos đã phá hủy để đi ra, bao gồm đòn, ván, bó que, thùng rỗng đã được chất xếp hoàn toàn theo những quy tắc chiến thuật phòng thủ, người ta thấy đây đó xương thừa của đùi lợn muối đã ăn rồi như đang bơi trong những vũng dầu và rượu vang, trong khi một đống vỏ chai vỡ ngổn ngang ở góc trái căn hầm và một thùng lớn, vòi không đóng, đang chảy nốt những giọt máu cuối cùng của nó. Hình ảnh của tàn phá và chết chóc nói như nhà thơ cổ đang ngự trị trên bãi chiến trường.

Năm mươi xâu xúc xích treo trên dầm nhà còn lại chưa đầy mười xâu.

Thế là tiếng kêu khóc của vợ chồng chủ quán như thể chọc thủng cả vòm hầm khiến chính D' Artagnan cũng phải mủi lòng. Còn Athos thì không cả ngoảnh đầu lại.

Nhưng cơn điên dại kế tiếp nỗi đau. Chủ quán vũ trang một cái đinh ba, trong cơn tuyệt vọng, lao vào căn phòng mà đôi bạn đã lui về đấy.

- Rượu ư!- Athos thấy chủ quán liền nói.

- Rượu đấy! - Chủ quán la lên rụng rời - Rượu đấy! Ông đã uống của tôi mất hơn một trăm đồng vàng rồi, ông làm tôi phá sản, nguy khốn, tiêu vong rồi!

- Thế à? = Athos nói - Nhưng chúng tôi đã lúc nào hết khát đâu.

- Nhưng giá các ông chỉ chịu uống thôi đã đỡ, lại còn đập hết các vỏ chai.

- Tại ông đẩy tôi vào cái đống ấy nó mới đổ vỡ đấy chứ. Đấy là lỗi của ông.

- Dầu ăn của tôi mất hết!

- Dầu là loại cao bôi thần diệu chửa trị các vết thương cho nên gã Grimaud tội nghiệp phải lấy để xoa bôi những vết thương ông gây ra cho gã chứ.

- Mọi xâu xúc xích của tôi bị gặm hết.

- Trong hầm rượu có vô số chuột cống.

Chủ quán nổi khùng kêu lên:

- Ông sẽ phải trả tiền tôi tất cả những thứ đó.

- Quân ba đời vô lại! - Athos vừa nói vừa đứng dậy. Nhưng chàng liền ngã xuống. Chàng đã kiệt sức rồi.

D' Artagnan chạy lại đỡ chàng, và vung roi ngựa lên.

Chủ quán lùi lại một bước và òa lên khóc. D' Artagnan nói:

- Điều đó sẽ dạy cho ông biết cách đối xử lịch sự hơn với những khách trọ mà Chúa đã gửi tới cho ông.

- Chúa ư? Quỷ sứ thì có.

- Ông bạn thân mến - D' Artagnan nói - Nếu ông còn làm rách màng nhĩ chúng tôi, cả bốn chúng tôi lại tự nhốt vào hầm và chúng tôi sẽ coi xem sự thiệt hại có thật sự to lớn như ông nói không.

- Thôi được! Vâng, thưa các ngài tôi xin thú nhận tôi sai - Chủ quán nói - Nhưng tội nào cũng phải được lòng nhân đức xá cho và các ngài đều là các bậc quyền quý, còn tôi chỉ là gã chủ quán khốn khổ, xin các ngài rủ lòng thương.

- A, nếu nhà ngươi nói như thế - Athos nói - ngươi làm ta đến tan nát trái tim mất, rồi nước mắt ta cũng lại chảy như rượu chảy từ thùng ra. Cũng không đến nỗi là quỷ như cái vẻ bề ngoài đấy nhỉ. Nào, lại đây ta nói chuyện.

Chủ quán lại gần vẻ lo lắng:

- Lại đây, ta bảo rồi, đừng sợ - Athos tiếp tục - Lúc định trả tiền ngươi, ta có đặt túi tiền của ta lên bàn.

- Vâng, thưa Đức ông.

- Trong túi có sáu mươi đồng vàng. Đâu cả rồi?

- Chuyển lên phòng lục sự, thưa Đức ông. Họ bảo đó là tiền giả.

- Thế à, vậy đi mà đòi lại và giữ lấy sáu chục đồng vàng.

- Nhưng Đức ông biết thừa là phòng lục sự chẳng nhả ra cái gì họ giữ đâu. Nếu đó là tiền giả, may ra còn đòi được, nhưng khốn nỗi lại là tiền thật cả.

- Vậy ngươi đi mà thu xếp với họ, con người tử tế ạ, chuyện đó chẳng liên quan gì đến ta, mà ta cũng có còn xu nào đâu.

- Này - D' Artagnan nói - Con ngựa cũ của Athos ở đâu?

- Ở chuồng.

- Đáng giá bao nhiêu?

- Năm mươi đồng vàng là hết nước.

- Nó đáng giá tám mươi đấy - Hãy giữ lấy con ngựa. Coi như xong.

- Sao, cậu bán ngựa của mình - Athos nói - cậu bán con Badadê của tôi ư? Tôi sẽ cưỡi gì để ra trận? Cưỡi lên thằng Grimaud ư?

D' Artagnan nói:

- Tôi mang đến cho anh một con khác rồi.

- Con khác?

- Và tuyệt đẹp? - Chủ quán tấm tắc.

- Thế thôi, nếu quả có một con ngựa khác đẹp hơn, ít tuổi hơn, thì ngươi cứ giữ lấy con ngựa cũ đi và cho uống đi thôi.

- Loại nào ạ? Chủ quán hỏi, mặt mũi đã tươi tỉnh lên.

- Loại ở cuối hầm gần đống ván mỏng ấy. Chỗ ấy vẫn còn hai nhăm chai đấy, những chai khác bị vỡ hết lúc ta bị ngã rồi. Đem sáu chai lên đây.

- Loại người này đúng là lưu linh tái thế đấy! - Chủ quán nói với riêng mình - Chỉ cần hắn ở lại đây mười lăm ngày nữa, và uống đến đâu trả đến đấy, ta sẽ phục hồi lại được công việc làm ăn.

- Và đừng quên - D' Artagnan nói tiếp - mang bốn chai cùng loại cho mấy vị người Anh.

- Giờ thì - Athos nói - trong khi chờ đợi họ mang rượu lên.

- D' Artagnan cậu hãy kể cho mình những người kia thế nào.

D' Artagnan kể lại mình đã tìm thấy Porthos nằm liệt giường vì bị trẹo đầu gối như thế nào, và Aramis trước cái bàn giữa hai nhà thần học. Chàng vừa kể xong cũng là lúc chủ quán quay lại với những chai rượu đã gọi và một cái đùi lợn may sao cho hắn lại ở ngoài hầm.

Athos rót đầy cốc mình và cốc bạn rồi nói:

- Về Porthos và Aramis thế là ổn rồi, còn cậu, cậu thế nào, có chuyện gì xảy ra với riêng cậu không? Tôi thấy cậu có vẻ gặp tai ương thì phải.

- Than ôi! - D' Artagnan nói - Chính tôi mới là kẻ khốn khổ nhất trong mấy người chúng ta.

- Cậu khốn khổ ư, D' Artagnan! - Athos nói - Thế cậu khốn khổ ra sao nào? Nói tôi nghe đi.

- Để sau đã, - D' Artagnan nói.

- Để sau đã! Tại sao phải để sau? Vì cậu tưởng tôi say ư, D' Artagnan? Hãy nhớ lấy điều này: tôi không bao giờ có được những ý tưởng minh bạch hơn trong rượu nhé. Vậy hãy nói đi, tôi chú ý nghe đấy.

D' Artagnan kể lại cuộc phiêu lưu tình ái của mình với bà Bonacieux.

Athos lắng nghe không cau mày, khi chàng kể xong, Athos nói:

- Đau khổ cả mà thôi - Athos nói - Chỉ đau khổ thôi!

Đó là từ Athos ưa dùng.

- Anh luôn luôn nói đau khổ, anh Athos thân mến của tôi? - D' Artagnan nói - Điều đó không hợp với anh, người không bao giờ yêu cả.

Con mắt lạc hồn của Athos bỗng rực sáng lên, nhưng chỉ như một tia chớp, nó lại trở lại mờ đục và mơ hồ như trước.

- Đúng thế - Chàng bình tĩnh nói - tôi chưa bao giờ yêu cả.

- Vậy anh hẳn thấy, trái tim sắt đá ơi - D' Artagnan nói - Anh đã sai khi tỏ ra cứng rắn với những trái tim mềm yếu như chúng tôi chứ.

- Trái tim mềm yếu - Athos nói - là trái tim bị đâm xuyên.

- Anh nói sao?

- Tôi nói, tình yêu chỉ là trò xổ số, mà kẻ nào trúng, trúng luôn cái chết. Cậu không trúng thế là phúc đấy. Tin tôi đi, D' Artagnan thân mến, và nếu tôi có lời khuyên cậu thì là khuyên luôn luôn không trúng.

- Nàng có vẻ quá chi là yêu tôi?

- Nàng mới có vẻ thôi.

- Ô, nàng yêu tôi.

- Trẻ con! Chẳng có người đàn ông nào lại không tin như cậu rằng người tình của mình yêu mình, và chẳng có người đàn ông nào lại không bị người tình của mình lừa dối.

- Trừ anh chứ, Athos, vì anh đã bao giờ có đâu.

- Đúng vậy - Athos nói sau một lúc lặng đi - tôi chưa bao giờ có cả, đúng vậy. Ta uống thôi!

- Vậy thì là một triết gia - D' Artagnan nói - Anh hãy dạy tôi, nâng đỡ tôi. Tôi cần hiểu biết và cần được an ủi.

- An ủi cái gì?

- Nỗi đau khổ của tôi.

- Nỗi đau khổ của cậu làm tôi buồn cười - Athos nhún vai nói - Tôi tò mò muốn biết cậu sẽ nói thế nào nếu tôi kể cho cậu nghe một chuyện tình.

- Xảy ra với anh?

- Hoặc với một người bạn tôi, thì đã sao!

- Nói đi, Athos, anh nói đi.

- Uống đã, sẽ thú vị hơn.

- Vậy anh uống và kể đi.

Athos uống cạn một cốc, rót đầy cốc nữa rồi nói:

- Được thôi, vừa uống vừa kể là hay nhất.

- Tôi nghe đây - D' Artagnan nói.

Athos như đang nhớ lại, và càng nhớ lại, D' Artagnan thấy Athos càng tái đi. Anh đang nhớ tới cái giai đoạn trong cơn say mà những kẻ uống tầm thường, thường gục ngã và ngủ thiếp đi, còn anh, anh vẫn mơ màng, lớn tiếng mà không ngủ. Cái trạng huống mộng du say sưa ấy có một cái gì đó thật hãi hùng.

- Cậu muốn nghe thật chứ! - Athos hỏi.

- Tôi xin anh đấy - D' Artagnan nói.

- Vì vậy đã muốn thì phải kể thôi. Một người bạn tôi, một trong số những bạn tôi, cậu hiểu chứ, chứ không phải tôi - Athos ngừng lại một lát với một nụ cười u tối. Một trong những Bá tước ở tỉnh tôi, nghĩa là ở Bery, dòng dõi cao quý như một Đăngđôlô(3) hoặc một Môngmôrăngxi(4) năm hăm nhăm tuổi si mê một thiếu nữ mười sáu tuổi, xinh đẹp như bản thân tình yêu.

Một tâm hồn nồng cháy biểu hiện trong vẻ ngây thơ của tuổi trẻ, không phải một tâm hồn phụ nữ, mà là tâm hồn của nhà thơ.

Nàng không làm người ta thích mà làm người ta si mê. Nàng sống ở một thị trấn nhỏ cạnh người anh là một mục sư. Cả hai đều là người nơi khác đến đấy sinh sống. Không ai biết họ từ đâu đến. Nhưng thấy nàng quá xinh đẹp và anh nàng quá sùng đạo người ta cũng chẳng nghĩ đến việc hỏi họ từ đâu tới. Hơn nữa, người ta nói họ xuất thân từ gia đình tử tế, bạn tôi lúc ấy là lãnh chúa xứ này lẽ ra có thể quyến rũ nàng hoặc cưỡng đoạt nàng theo sở thích, vì chàng là chúa tể ở đây. Ai sẽ đến bảo vệ hai kẻ xa lạ, hai kẻ vô danh? Khốn nỗi chàng là một người lương thiện, chàng cưới nàng hẳn hoi - Một kẻ dại dột, ngớ ngẩn, ngu đần?

- Nhưng tại sao lại thế, vì chàng yêu nàng cơ mà? - D' Artagnan hỏi.

- Khoan đã nào - Athos nói - chàng đưa nàng về lâu đài của mình và đưa nàng lên hàng đệ nhất phu nhân của tỉnh. Nhưng công bằng mà nói, nàng tỏ ra xứng đáng với địa vị ấy.

- Rồi sao nữa? - D' Artagnan hỏi.

- Rồi một hôm nàng đi săn với chồng - Athos tiếp tục giọng nhỏ hơn và nói rất nhanh - nàng bị ngã ngựa và ngất đi. Bá tước lao đến cứu, do nàng bị ngột ngạt trong bộ quần áo đi săn, chàng bèn lấy dao găm rạch áo nàng ra để hở vai nàng. D' Artagnan cậu thử đoán xem nàng có cái gì trên vai nào? - Athos nói và cười phá lên.

- Tôi có thể biết là cái gì không? - D' Artagnan hỏi.

- Một bông huệ - Athos nói - Nàng bị đóng dấu sắt nung phạm tội.

Và Athos uống một hơi cạn cốc rượu trên tay.

- Khủng khiếp quá! - D' Artagnan kêu lên - Anh nói gì với tôi thế?

- Sự thật. Bạn thân mến, thiên thần là quỷ dữ. Cô thiếu nữ tội nghiệp đó đã ăn cắp.

- Và Bá tước tính sao?

- Bá tước là một đại lãnh chúa, chàng có quyền xét xử các vụ án cấp thấp và cấp cao. Chàng xé nốt quần áo của nữ Bá tước, trói quật tay ra sau lưng và treo cổ nàng trên cây.

- Trời ơi, Athos! Một vụ sát nhân! - D' Artagnan la lên.

- Đúng, một vụ giết người, không hơn không kém - Athos tái người đi như một cái xác không hồn - Nhưng hình như thiếu rượu cho tôi rồi đấy.

Và Athos túm lấy cổ chai rượu cuối cùng còn lại, đưa vào tận miệng và tu thẳng một hơi cạn chai rượu, như bình thường cạn một cốc rượu.

Rồi chàng gục đầu lên hai bàn tay, D' Artagnan ngồi trước mặt chàng rùng mình kinh hoảng.

- Chuyện đó đã chữa khỏi bệnh đàn bà đẹp, thơ mộng và đa tình cho tôi - Athos vừa nói vừa đứng lên không nghĩ tới việc tiếp tục câu chuyện có tính chất ngụ ngôn về ông Bá tước - Cầu chúa cho cậu cũng được khỏi bệnh như vậy - Thôi ta uống đi!

- Thế là nàng đã chết? - D' Artagnan ấp úng.

- Cho chết! - Athos nói - Nhưng nâng cốc lên chứ. Đùi lợn đâu, quân đê tiện - Athos hét lên - chúng ta không thể uống được nữa!

- Thế còn anh nàng? - D' Artagnan rụt rè hỏi thêm.

- Anh nàng ư? - Athos lặp lại.

- Ừ, ông linh mục ấy?

- À, tôi đã cho dò tìm để đem treo cổ cả hắn, nhưng hắn đã phòng xa, bỏ chức mục sư từ đêm trước.

- Ít nhất cũng phải biết tên khốn khiếp ấy là ai chứ?

- Chắc chắn đó là người tình đầu tiên và kẻ đồng lõa của người đẹp, một người danh giá đã đóng giả mục sư để cưới người tình của mình và đảm bảo thân phận của nàng. Rồi cũng sẽ bị xé xác ra thôi, tôi cho là như vậy.

- Ôi! Lạy Chúa? Lạy Chúa! - D' Artagnan kêu lên và choáng váng hết cả người vì câu chuyện hãi hùng đó.

- Ăn miếng đùi lợn này đi, D' Artagnan, tuyệt vời đấy, - Athos vừa nói vừa xẻo một lát đặt vào đĩa của bạn - Thật không may trong hầm lại không có bốn cái đùi lợn này, chỉ cần có thế, có lẽ tôi đã uống thêm năm mươi chai rượu nữa.

D' Artagnan không thể chịu nổi cuộc trò chuyện này nữa, vì nó có thể khiến chàng phát điên. Chàng để gục đầu lên hai bàn tay và giả vờ ngủ thiếp đi.

Athos nhìn chàng thương hại nói:

- Bọn trẻ không biết uống nữa rồi. Tuy nhiên, cậu này vẫn cứ là loại cừ nhất!

Chú thích:
(1) Marcus Junius Brutus (sinh năm 85 trước công nguyên) nổi giận vì những tham vọng của bạo chúa Xêda, bị kich động thêm vi những thư vắn bí mật gửi cho mình: "Brutus, mi đang ngủ và Rôma đang trong xiềng xích" cùng Catxiútx âm mưu giết Xêda - Sau bị Antoine và Octave truy đuổi. Theo Plưtác, sau khi cất lời than cay đắng: "Ôi đức hạnh! Mi chỉ là một ngôn từ!" Brutus lao mình vào gươm của bạn mình tự sát (năm 42 trước công nguyên).
(2) Pierre Paul Rubens: Họa sĩ người xứ Flandre (1577-1640).
(3) Một dòng họ ở Vơnidơ đã có tới bốn ngưới làm thủ lĩnh của nền cộng hòa.
(4) Một dòng họ ở nước Pháp có nhiều nhân vật danh tiếng như nguyên soái. thống chế. quốc vương. từ triều đại Louis VII thế kỷ 12. người cuối cùng là quốc vương Henri XI chết vì bì phóng một mũi thương vào mắt trong cuộc cưỡi ngựa đấu thương với Montgome.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét