Fr: Viet Do
Những Cái Cổ Xưa Nhất Ở Sài Gòn dưới 200 năm
Nếu tuỗi đời vào khoảng 70-80 mà còn sáng suốt , chúng ta nhìn lại thấy mình dự vào hơn 1/3 thời gian lịch sử ấy.
01. Ngôi trường xưa nhất
Trường
Lê Quý Đôn được xây vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản
lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi
thành Collège Chasseloup Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques
Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên
Trung tâm giáo dục Lê QuýĐôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường
Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được
kiến trúc ban đầu.
02.Nhà máy điện xưa nhất
Nhà
máy điện Chợ Quán được xây vào năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi
nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới
120MW [Megawatt]. Máy phát điện chính công suất 1000A/h [A=Ampere hay
Amp./h=hour]. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát
điện, hòa với lướiđiện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện
thành phố. Nhà máy tọa lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.
03. Bệnh viện xưa nhất
Bệnh
viện Chợ Quán được xây vào năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau
đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 [Bệnh viện được] giao cho Quân đội
và đổi tên thành Viện Bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y
tế Hàn-Việt với 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán.
Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610
Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.
04. Nhà hát xưa nhất
Nhà
hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp khởi công và hoàn tất vào ngày
17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ
giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi
trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956-1975, Nhà hát được
dùng làm trụ sở Hạ nghị viện cho các chính phủ Đệ I & II Việt Nam
Cộng Hòa; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ
niệm 300 năm Sài Gòn, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát đã được
tu sửa lại như lúc nguyên thủy
05. Khách sạn xưa nhất
Khách
sạn Conti--nental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, được xây vào năm 1880
do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày
đầu. Sau ngày cướp được miền Nam, khách sạn Continental bị tụi Bắc Việt
đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạnđược nâng cấp, chỉnh trang và
lấy lại tên cũ Continental với diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã
từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi
tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt
tiêu chuẩn quốc tế
06. Nhà thờ xưa nhất
Nhà
thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2 [phường], Q.5
[quận]được xây vào năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở
miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu
phương Tây, lợp ngóiđỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh
hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ
người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷNhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu
nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới
quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ [Hội Hồng Thập Tự]Quận 5.
07. Ngôi đình xưa nhất
Một
trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ
làđình Thông Tây Hội, được xây vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn
nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất
có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc
đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp, sau đổi thành
Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn
An Hội). Đình Thông Tây Hội có vịThành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần
thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử
Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành
“Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông
Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về
quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ.
Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.
08. Nhà văn hóa xưa nhất
Cung
Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cercle Sportif Saigonnais được
xây dựng làm sân thể thao cho các quan chức người Pháp với những hồ bơi,
sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân
chơi được mởrộng hơn [và] phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975,
Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ khu này cho Liên đoàn Lao
động Thành phố để biến cải thành khu hoạt động văn hóa thể thao và vui
chơi giải trí cho công nhân laođộng, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau
đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện
tích 2.8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động
là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn.
09. Công viên lâu đời nhất
Thảo
Cầm Viên do người Pháp xây vào năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng
người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo
Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi
nuôi & trồng nhữngđộng & thực vật [thuộc] miền nhiệt đới mà các
Thảo Cầm Viên của Pháp [lúc bấy giờ] chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật
đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz,
Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi,
Cashi, Kiaki, Inoki... Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà
lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc
kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn... Đến năm 1989,
Thảo Cầm Viên được trùng tu, mở rộng và nhận thêm nhiều giống thú mới,
trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ
thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm
1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú
Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động & thực vật
ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và
là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương.
10. Ngôi nhà xưa nhất
Ngôi
nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn
viên Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, số 180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm
1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở
cho Linh Mục Bá-Đa-Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà
được xây bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm
1799, Bá-Đa-Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811
đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình
Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho
Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện
nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud
(nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm
nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương,
sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trổ công phu
[với] hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của
ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám
chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục
Bá-Đa-Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là“Thần Chi Cách Tư”.
Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt
giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ
được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch
sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các
bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống - bản
sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một
khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch.
11. Ngôi chùa xưa nhất
Ngôi
chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít
người biết đến, [đó] là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi,
Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai
sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất
trong các chùa ở TP Sài Gòn nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày
đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế
chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh
Liễu Đạo cúng đất để xây lại ngôi chùa [cho] rộng rãi khang trang như
hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền
chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian
phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được
cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài
xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng,
giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu
đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát,
có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn
lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán
màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ“long ẩn vân” dùng trang trí.
Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân,
sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo
hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và
phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền
văn minh trên vùng đất hoang sơ.
12.Đường sắt đầu tiên ở thành phố
Tuyến
đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đường sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài
71km,được xây vào năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng
đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm
Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đường
sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi
súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong
việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho [đã]
ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga
Hòa Hưng. Vào ngày 8/8/1998, người ta khởi công xây cất Trung Tâm Văn
Hóa Thương Mại Sài Gòn trên nền Ga Sài Gòn cũ.
13. Kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
Ông
Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên,
tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông
hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông
được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị,
kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu
ghé Sài Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho
người Pháp. Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng
thánh Phao-lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây cất theo kiến
trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được
khởi công từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với
ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gô-tic, một tu viện, một nhà
nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây cất này là kết quả
nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông.
Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao-Lô vẫn giữ
đượcđường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn
Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp./.
14. Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
Ông
Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa
biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp
nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn
lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh
mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ
ngôn ngữ văn hóa phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất
bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên
viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã
được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình
bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa
học tiến bộ so với đương thời
15. Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên
Tờ
“Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng
4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin
kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng
tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành
hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869
16. Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
Ngày
1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới
Chung”nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công-nông-thương, đề cao
người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê
phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tín dị đoan, động viên
Phụ nữ quan tâm đến việc“Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam
giới ngoài việc tề gia nội trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ
bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn
Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên
khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong
dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng
đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.
17. Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
“Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ La-tinh của
Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản
1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ,
từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này
trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.
Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX
RFI March 27, 2015
Pétrus Ký và các học trò. | @historicvietnam.com/tim-doling/
Trong suốt cuối thế kỷ XVI và nửa đầu
thế kỷ XIX, chữ quốc chỉ được dùng trong mục đích truyền giáo. Đây là
loại kí tự dùng chữ cái La tinh để ghi lại tiếng nói của người Việt.
Công trình này lần lượt được các nhà truyền giáo dòng Tên khởi nguồn và
hoàn thiện, từ Gaspard d’Amaral và Antonio Barbosa, hai giáo sĩ dòng Tên
người Bồ Đào Nha, cho tới Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ) hay Pigneaux
de Béhaine (cha Bá Đa Lộc), người Pháp.
Khi mới đặt chân tới Tourane (Đà Nẵng)
vào năm 1624, cha Đắc Lộ đã không khỏi ngạc nhiên khi nghe người bản
địa, đặc biệt là phụ nữ, nói như “chim hót” và đã từng nghĩ không thể
nào học được tiếng nói này. Sau này, chính ông là người đã hệ thống hóa
và phổ biến loại chữ viết La tinh, vừa dễ học vừa nhanh hơn so với chữ
Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, chữ quốc ngữ được hoàn thiện như ngày nay là
nhờ vào công sức của cha Bá Đa Lộc trong khoảng cuối thế kỷ XVIII-đầu
thế kỷ XIX.
Sau khi chiếm được Sài Gòn và bắt đầu
công cuộc khai thác, chữ quốc ngữ trở thành công cụ hữu ích cho chính
sách đô hộ. Chính quyền Pháp muốn sử dụng loại chữ viết này để cắt hẳn
mọi liên hệ giữa người dân Nam Kỳ, giờ đây nằm dưới sự cai trị của người
Pháp, với nền văn minh Trung Hoa, tiếp theo là phổ biến học thuật Pháp
và đồng hoá dân bản địa.
Trong thư văn đề ngày 15/01/1866 gởi cho
thống đốc Sài Gòn, giám đốc nội vụ Paulin Vial có viết : « Từ những
ngày đầu người ta (Pháp) đã hiểu rằng chữ Hán còn là một ngăn trở giữa
chúng ta và người bản xứ ; sự giáo dục bằng thứ chữ tượng hình khó hiểu
làm chúng ta rơi tuột hoàn toàn ; lối viết này chỉ tổ khó cho việc
truyền đạt đến dân chúng những điều tạp sự cần thiết có liên quan tới
khung cảnh của nền cai trị mới cũng như cho việc thương mại… Chúng ta
bắt buộc phải theo truyền thống nền giáo dục riêng của chúng ta ; đó là
cách duy nhất khiến chúng ta có thể gần gũi người An Nam thuộc địa hơn,
ghi vào tâm não họ những manh mối của nền văn minh Âu châu đồng thời cô
lập họ khỏi ảnh hưởng đối nghịch của các lân quốc của chúng ta ».
Your browser does not support the audio element.
Tuy nhiên, các đô đốc Pháp nhanh chóng
hiểu rằng rất khó thay đổi được một đất nước chịu ảnh hưởng của Khổng
giáo và lòng trung thành sâu sắc của người dân đối với triều đình. Họ
chú ý tăng cường ảnh hưởng của Pháp tới đời sống và phong tục của người
Nam Kỳ. Để thực hiện thành công chính sách cai trị và “mị dân”, các
“quan” Pháp được khuyến khích học chữ hán, chữ quốc ngữ, nghiên cứu
phong tục tập quán, ngôn ngữ và lịch sử của Việt Nam. Chính vì thế, rất
nhiều tài liệu bằng tiếng Pháp và tiếng Việt mang tính chuyên môn cao
được các “học giả” quân sự dịch và soạn thảo trong giai đoạn này.
Mặt khác, họ đưa chữ quốc ngữ ra khỏi
khuôn khổ của Giáo Hội để phổ biến trong dân. Ngay từ năm 1864, các
trường tiểu học quốc ngữ được thành lập tại các trung tâm quan trọng
nhất và các làng công giáo. Mục đích chính là nhằm đào tạo một thế hệ
công chức tương lai tận tâm với nước Pháp, đồng thời cắt đứt ảnh hưởng
của Nho giáo. Bắt đầu từ năm 1882, chữ quốc ngữ được dùng là văn tự
chính thức trong giao dịch, giấy tờ hành chính, tư pháp và thương mại
của nhà cầm quyền thuộc địa. Các quan địa phương phải học chữ quốc ngữ
và chỉ được thăng chức hay giảm thuế nếu biết đọc, biết viết loại văn tự
này.
Biên soạn giáo trình dạy chữ quốc ngữ
Về phần mình, từ khi được bổ nhiệm làm
chánh tổng tài tờ Gia-định báo (16/09/1869), Trương Vĩnh Ký có cơ hội để
phát triển sự nghiệp dịch thuật và viết văn. Đây cũng là vị trí và công
cụ giúp ông phổ biến rộng rãi hơn chữ quốc ngữ. Thái độ ủng hộ việc
truyền bá học thuật bằng kí tự La tinh này đã được ông thể hiện với
Richard Cortembert ngay từ chuyến công du sang Pháp.
Sau này, lợi ích và vai trò của nó còn
được ông nhấn mạnh trong cuốn Manuel des écoles primaires (Giáo trình
cho các trường tiểu học, 1876) như sau : « Chữ quốc ngữ phải trở thành
chữ viết của nước nhà. Cần phải nắm vững nó cho điều tốt đẹp và cho sự
tiến bộ. Vì thế, chúng ta phải tìm mọi cách để phổ biến chữ viết này ».
Ông cho rằng loại chữ viết đơn giản, dễ học này sẽ là phương tiện hiệu
quả để tiếp thu những kiến thức mới vì ba lý do : Thứ nhất, do nạn mù
chữ đại trà trong dân, tiếp theo là chữ hán sẽ không còn có ích một khi
người Pháp cai trị Nam Kỳ và cuối cùng, chỉ cần ba tháng là có thể biết
đọc và viết chữ quốc ngữ.
Ngoài ra, ông còn khuyên nhủ người học như sau :
« Sách nầy là sách rút tóm lại những đều
đại-cái người ta phải học, để cho con trẻ mới vô trường, học những đều
đại lược mà phá ngu, cho đặng đến sau khi vào trường chung nghe dạy nghe
giải rộng các đều ấy thì mau hiểu hơn là một ; hai nữa là để mà tập
coi, tập đọc tập viết tiếng Annam trong chữ quốc-ngữ cho trúng tiếng,
cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ-ràng.
Khuyên các trò hãy bớt tính ham chơi, mà
chuyên việc học-hành, chữ-nghĩa, văn-chương cho được vào đường
công-danh với người-ta cho sớm, trước là cho đặng đẹp mặt nở mày cha mẹ,
giúp đời dạy dân, sau là cho mình được công thành danh toại, thơm danh,
tốt tiếng ở đời ».
Dù tên sách viết bằng tiếng Pháp nhưng
đây là bộ giáo án giành cho giáo viên, gồm hai phần, phần một là « phép
học chữ quốc ngữ, lịch sử An Nam và Tàu », và phần hai gồm « các khái
niệm khoa học cơ bản ». Trong đó, Trương Vĩnh Ký giải thích cách tổ chức
một buổi lên lớp, các hoạt động hay cách đánh giá học sinh.
« Hễ trò nào mới vô thì phóng vở theo đã ra trước nầy, giao cho nó, cấp cho một trò cũ đã biết mà nhác-biểu chỉ-vẽ cho nó.
Phân lớp ra mà dạy cho dễ : Như học-trò
đã biết viết, biết đọc thì bát nó viết mò, bát đọc một đoạn sách cho lẹ
cho xuôi. Viết mò thì lấy những tuồng, văn, thơ, phú, mà nói cho nó
viết, viết rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.
Còn mỗi bữa học, bát nó kiếm câu hát,
câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn vân vân, mà viết ra một đâu
câu chẳng hạn, đem tới nộp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại, để một
nơi.
Dạy toán thì trước hết dạy bốn phép,
cộng, trừ, nhơn, chia, cho rõ. Rồi cứ ra bài đố cho nó mần cho quen. Dạy
phép đo cũng vậy… Những tập nó học nó viết mỗi bữa học thì thầy sửa rồi
đề ngày vô cho nó, cho dễ xét đứa nào trễ-nải, đặng như quan có đòi thì
thầy có sẵn mà nộp cho quan ».
Một giáo trình khác được Trương Vĩnh Ký
biên soạn nhằm chủ yếu vào giới quan lại địa phương khi có nghị định bắt
buộc dùng chữ quốc ngữ trong các văn bản hành chính. L’Alphabet quốc
ngữ en treize tableaux avec des exercices de lecture (Vần quốc ngữ thông
qua 13 bảng và các bài tập đọc, 1887) giúp các quan học loại chữ viết
này trong một thời gian ngắn. Tám bảng đầu dạy học nguyên âm và phụ âm
cùng với sáu thanh điệu và cách ghép vần. Các bảng còn lại gồm các bài
tập đọc, từ đơn giản tới phức tạp.
Sưu tầm-chuyển ngữ
Song song với việc soạn giáo trình,
Trương Vĩnh Ký dùng chữ quốc ngữ ghi lại những cuốn sách Tàu và những
tác phẩm được viết bằng chữ nôm. Trên thực tế, hai loại chữ tượng hình
trên dần dần bị sao nhãng và ngày càng có ít người sử dụng. Chữ Hán chỉ
giành cho một bộ phận nhỏ gồm các nhà nho và quan lại. Trong khi đó, chữ
Nôm còn phức tạp hơn do mượn Hán tự. Vì vậy, cần phải biết chữ Hán mới
có thể học được loại chữ này.
Hơn nữa, Trương Vĩnh Ký cho rằng văn học
Việt Nam mới chỉ có thơ ca với nhiều thể loại khác nhau, song không có
văn xuôi và các loại khảo cứu, nghị luận. Dịch thuật là một cách giúp
học làm văn và làm giàu từ vựng tiếng Việt. Chính vì thế, không có gì
ngạc nhiên khi một phần ba trong tổng số 118 tác phẩm của ông là các
công trình dịch thuật.
Vấn đề phiên dịch các tác phẩm Tầu ra
thể văn vần chữ quốc ngữ cũng đã được Luro, một thanh tra bản xứ sự vụ,
trong bản báo cáo ngày 06/01/1873, đề xuất : « Từ lâu, tôi thỉnh cầu một
cách vô hiệu rằng người ta phải phiên dịch, dưới sự chăm sóc của một
hội đồng có đủ quyền hành, lịch sử nước An Nam và những sách cao quí
triết lý của Trung Hoa. Người dân ít nghe tiếng Quan thoại, họ sẽ rất
sung sướng có được những cuốn sách dịch bằng ngôn ngữ thường ngày của họ
một cách thanh nhã. Họ sẽ mua, sẽ đọc những cuốn sách đó. Trong số các
thừa sai và viên chức của chúng ta, chúng ta có nhiều người có đủ khả
năng để hoàn thành những sách dịch thanh nhã từ tiếng Quan thoại ra
tiếng nói hàng ngày ».
Như vậy, cả chính phủ Pháp và Trương
Vĩnh Ký đều tận dụng thời cơ để phổ biến chữ quốc ngữ. Chính quyền Pháp
muốn « mượn tay » những công chức Pháp hóa để tách rời dân chúng khỏi
ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Còn Trương Vĩnh Ký thì hoàn toàn tin
vào chính sách khai hóa của nước Pháp. Và, theo ông, công cụ duy nhất để
có thể đạt tới trình độ « Học thuật Châu Âu » là chữ quốc ngữ. Chính vì
thế, ông tìm mọi cách để loại chữ viết La tinh này được phổ biến rộng
rãi tới các tầng lớp dân chúng.
Từ khi chữ quốc ngữ trở thành văn tự
chính thức tại Nam Kỳ vào năm 1882, ông chuyển ngữ ngay nền văn chương
truyền khẩu bình dân, gồm những áng văn vần và chuyện dân gian rất được
ưa chuộng, như : Phép lịch sự Annam (1881), Thơ dạy làm dâu (1882), Thơ
mẹ dạy con (1882), Nữ tắc (1882), Thạnh suy bỉ thới phú (1883), Cờ bạc
nha phiến (1884), Ngư tiều trường điệu (1884)… Trong cuốn Nhà văn hiện
đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận định rất đúng khi viết : « Hồi đó, ông (Trương
Vĩnh Ký) cần phải xuất bản như thế, cốt dùng những chuyện phổ thông làm
cái lợi khí cho chữ quốc ngữ được lan rộng trong nhân gian… »
Tất cả đều được bán với giá rất hợp lý.
Thường những tập dày 7 đến 10 trang, được bán với giá từ 35 đến 50 xu
franc và từ 1 đến 2 franc đối với những tập dày trên hai mươi trang.
Viết văn
Thông qua những bản dịch, lần đầu tiên
một loại hình văn học mới được đưa vào Việt Nam. Đó là văn xuôi, với
nhiều thể loại khác nhau, như tiểu luận, kí sự hay tiểu thuyết. Tại thời
kỳ đó, thể loại này còn chưa được ưa chuộng và không được coi là « văn
học », vì người ta cho rằng văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ ngang như
lời nói. Công bằng mà nói, lời nhận xét khá đúng, vì ngôn từ và cách
hành văn trong các tác phẩm thời đó thiếu trau chuốt và tự nhiên như văn
của thế hệ sau này.
Bài văn xuôi đầu tiên do Trương Vĩnh Ký
biên soạn, dài khoảng bẩy trang, xuất hiện trên tờ Gia-định báo vào năm
1863, dưới tựa đề Ghi về vương quốc Khơ Me (1863). Phải chờ tới năm
1881, Trương Vĩnh Ký viết một tập bút kí khác, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất
Hợi (1876), công phu hơn và trau chuốt hơn. Tuy nhiên, ông phải mượn rất
nhiều từ Hán để có thể miêu tả tỉ mỉ chuyến đi này. Không bàn tới mục
đích của chuyến công du Bắc Kỳ của Trương Vĩnh Ký, ở đây chúng ta chỉ
quan tâm sau chuyến đi này, ông viết một bản hồi kí ghi lại những kỉ
niệm, những điều « mắt thấy tai nghe », vị trí địa lý, lịch sử, những
phong tục tập quán của những địa phương nơi ông đi qua.
Ví dụ văn phong trong một đoạn miêu tả «
Chợ » ở Bắc Kỳ : « Chợ-búa nội cả tỉnh cũng nhiều lắm. Mà chợ lớn có
tiếng và đủ đồ hơn hết tại Bắc-kỳ, thì là những chợ kể trong câu ví nầy :
Xứ Nam là chợ Bằng Vồi ; xứ bắc Giâu, Khám, xứ đoài Xuân Canh ; nghĩa
là tỉnh Hà-nội, Hưng-yên, Ninh-bình, Nam-định là phía nam, thì có chợ
Bằng, chợ Vồi có tiếng hơn hết. Còn bắc là Bắc-ninh, thì có chợ Giâu,
chợ Khám ; xứ đoài là trên Sơn-tây thì là chợ Thâm-xuân-canh ».
Một nhà nghiên cứu nhận xét đây là « một
trong vài tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ sớm nhất của thế kỷ XIX,
Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi để lại nhiều dấu ấn ngôn ngữ với những
phương ngữ, tiếng Việt cổ có giá trị về mặt ngôn ngữ. Câu văn khúc
chiết, sinh động chứng tỏ năng lực viết văn xuôi quốc ngữ của tác giả
trong buổi sơ khai của loại chữ mới mẻ này ».
Tới năm 1918, quốc ngữ trở thành chữ
viết bắt buộc tại Bắc Kỳ. Từ giai đoạn này trở đi, các nhà trí thức trẻ
không ngừng trau dồi, phát triển và phổ biến nền văn học hiện đại Việt
Nam. Năm 1954, quốc ngữ trở thành chữ chính thức của các cơ quan hành
chính Việt Nam. Điều này đã khẳng định tiên đoán cũng như mong muốn của
Trương Vĩnh Ký vào năm 1876 : « Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của
nước nhà ».