Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay như một thứ luật pháp không thành văn. Nhưng chính vì thế nó trở thành mục tiêu của nhiều thế lực muốn làm chủ miền đất này như thể một mảnh đất vô chủ.
Cho đến nay người
dân thiểu số chưa bao giờ -dù chỉ một lần- có tiếng nói trên mảnh đất của họ.
Bài viết này nói thay cho những kẻ không có tiếng nói- kẻ phải làm thinh.
Bài viết này chỉ
nhằm giới thiệu sơ lược các tác giả Pháp cũng như Việt viết về Tây Nguyên. Đó
là những khảo cứu của họ chuyên đề về địa lý, lịch sử, truyền thống, các giá
trị huyền thoại của Tây Nguyên.
Bởi vì xét ra
không cần giới thiệu đầy đủ về Tây Nguyên ngày hôm nay. Việc đó có thể là thừa,
vì Tây Nguyên ngày nay đã không còn là Tây Nguyên nữa. Tây Nguyên đang bị vong
thân và hủy diệt bởi nhiều thế lực chính trị- nhưng nhất là cho những tham vọng
thực dân cộng sản ngay từ sau 1975!
Viết về Tây
Nguyên là viết như một thái độ phản kháng, thái độ không còn bất nhẫn được nữa.
Nhưng về mặt
tuyên truyền, Hà Nội đang ra sức quảng cáo, phô trương dưới đủ hình thức những
giá trị cổ xưa cho cái được gọi là Du Lịch Sinh Thái. Nhất là nơi địa bàn các
sắc dân thiểu số miền Thượng Du Bắc Việt. Các nền Văn hóa bản địa hầu hết ở
phía Bắc mà hằng năm có đến hàng ngàn lễ Hội tổ chức tốn kém.
Đó là cái mà
Nguyên Ngọc gọi là Văn Hóa diễn, tách ra khỏi đời sống thực của bản làng.
Tất cả chỉ là
những màn kịch, tất cả chỉ là cái bề ngoài, tất cả chỉ là dịch vụ. Ngay cả tôn
giáo cũng có nguy cơ biến thành dịch vụ “buôn thần bán thánh”. Tất cả chỉ là sự
bắt chước thô kệch, tất cả chỉ là những hình nhân, những con múa rối qua tiếng
nhạc, tiếng trống, quần áo lòe loẹt!
Vật thể văn hóa ở
trạng thô sơ nguyên thủy (état brut) đã bị hủy diệt. Cái còn lại chỉ là sự cóp
nhặt.
Còn cái hồn của
các giá trị ấy không còn nữa!
Đó là bi kịch
Việt Nam,
đó là điều cần lên tiếng .. Vì thế, trong bài tôi đặc biệt trân trọng đối với
những ai trong quá khứ đã có lòng với Tây Nguyên, đã đứng về phía Tây Nguyên,
cho dù đó là những viên chức thời Pháp thuộc như Léopold Sabatier.
Về mặt địa lý
Tây nguyên bao
gồm năm tỉnh: Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. Nó là một cao
nguyên thấp trên dưới 500 mét với thỗ nhưỡng đa phần là đất đỏ bazan-60% diện
tích đất đỏ với hai triệu hectares-, rất tốt cho việc trồng các cây kỹ nghệ như
cà phê, cao suvv.. với thảm sinh vật và thực vật đa dạng, phong phú nhất so với
cả nước.
Đặc sản của Tây
Nguyên có thể nói chủ yếu là rừng. Rừng là Tây Nguyên. Đối với các dân tộc Tây
Nguyên, đất và rừng không chỉ là một không gian sinh tồn- nền tảng vật chất cho
việc sinh sống làm ăn. Rừng còn là một không gian xã hội- văn hóa, tín ngưỡng
-với bản làng- với tập tục- với đời sống tâm linh đậm nét vật linh(animiste).
Rừng mang ý nghĩa văn hóa, bản sắc dân tộc, cái hồn, cái thần tính mà nơi đó
thần linh ngự trị. Người Thượng còn hiểu được dược tính của từng cái lá, từng
cái cây, từng lịch sử của cây trong cái thảo nguyên rộng rãi bao la của họ.
Và họ nghĩ rằng
Chỗ nào có đất, có rừng là của họ.
“Toàn vùng được
rừng già dầy dặc bao phủ để cho búa rìu người Thượng đốn chặt sử dụng từ từ,
nhưng cây con cũng sớm mọc lại và tăng trưởng thay thế rất nhanh lẹ không ngờ.
Không thấy có đồng bằng ở đó ngoại trừ đi chếch về phía Đông Nam và phía Tây tại vùng dân
Re-Ngao”.
Lá thư đầu tiên
của cha Combes gửi về Bề trên Thừa sai Ba Lê đề: Kon Kơsâm, ngày 29 tháng 9 năm
1853. Trích trong Dân Làng Hồ, Pierre Dourisboure, trang 206 (1)
Cho nên khi người
ta phá hoại rừng là trực tiếp hủy diệt chẳng những cái ăn của người Tây Nguyên,
đồng thời làm đổ vỡ cơ cấu xã hội, tinh thần, đạo đức của người Tây Nguyên.
Về đặc điểm địa
lý này, người Pháp đã có kế hoạch để khảo sát địa khoa núi, địa lý thủy văn và
các vùng thảo nguyên tại khu Nam –Trung bộ của Đông Dương. Và sau được in thành
tài liệu sách trong cuốn Les Jungles Moi của Henri Maitre.
Người Pháp tài
trợ cho Henri Maitre khảo sát vào năm 1909-1911 tại khu Nam- trung bộ của Đông
Dương. Năm 1914 Henri Maitre bị ám sát chết tại một vùng bên Kampuchia. Cuốn
sách Les Jungles Moi sau này đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Rừng Người
Thượng (2).
Và như nhà Dân
Tộc Học Nguyễn Từ Chi cũng đã khẳng định dứt khoát: Tiêu diệt rừng đồng nghĩa
với việc tiêu diệt Tây Nguyên. Vậy mà ngày nay công việc ấy đang được diễn ra
từng ngày.
Nguyễn Từ Chi là
con bác sĩ Nguyễn Kinh Chi. Năm 1933, bác sĩ Nguyễn Kinh Chi được điều lên
Kontum làm việc. Ông có người em trai là Nguyễn Đổng Chi. Ông đã viết thư cho em
trai nghỉ học một năm để lên Kontum khảo sát về người Mọi ở đây. Nhờ đó hai anh
em đã cho xuất bản cuốn: Người Ba-Na ở Kontum, cho xuất bản năm 1937 (3).
Cho nên mất đất,
phá rừng thì họ còn lại gì? Đấy là nguy cơ số một về sự sống còn của Tây
Nguyên.
Các công trình
khảo sát Tây Nguyên
Nhiều người đã
viết, đã khảo sát, đã lên tiếng, đã báo động. Chúng ta hãy dùng con mắt lịch sử
để rảo qua những công trình ấy.
Các nhà truyền
giáo đầu tiên chỉ mới đến đến Tây Nguyên năm 1833 và đã ghi lại đầy đủ về những
bước đi truyền giáo với đầy những gian lao và thử thách của các giáo sĩ trong
đó công trình đầu tiên là của Pierre Dourisboure.
Và cũng thật bất
ngờ trong số những nhà truyền giáo ấy có một người Việt Nam. Đó là Thày Sáu Do- một người
Việt Nam
đầu tiên đặt chân lên Tây Nguyên qua ngõ An Sơn.
Đức cha Cueno
(Tên tiếng Việt là Thể) biết rõ và đánh giá cao Thầy Do, Ngài quyết định giao
phó cho Thầy thực hiện hoài bão mà Ngài đang ấp ủ. Ngày kia, Ngài gọi thầy Do
đến và không rào trước đón sau gì cả, đi thẳng vào đề :
Thầy phải mở
đường, qua ngõ An Sơn, một con đường để đi truyền giáo cho người Thượng; Thầy
sẽ làm thế nào để hoàn thành việc đó?
Con sẽ làm lái
buôn- Thầy Do đáp lời- và trong khi giả bộ buôn bán, con sẽ tiến sâu vào bên
kia ranh giới mà các tay buôn khác chưa từng vượt qua; một khi việc khảo sát
địa hình xong xuôi, con sẽ trở về và đưa một vị thừa sai đến vùng đó ».
L.M Pierre
Dourisboure, Les sauvages Bahnars, trang 7-8, Paris 1929 (4)
Đoạn văn đối
thoại trên khẳng định một điều: Người mở đường cho việc khám phá Tây Nguyên và
mở cửa ngõ cho việc truyền giáo là một thầy phó tế Việt Nam, tên Sáu
Do.
Và nhà truyền
giáo thứ hai là cha Jacques Dournes. Có lẽ không một tác giả nào sống nhiều,
hiểu nhiều, viết nhiều về Tây Nguyên bằng Jacques Dournes. Ngoài cuốn Les
Populations montagnardes du Sud-Indochinois. (Miền đất huyền ảo) được dịch ra
riếng Việt, Jacques Dournes còn viết các sách sau đây :Dieu aime les paiens.
(Chúa thương dân Người). Offrande des peuples (Hiến tế muôn dân)
Le Jơrai sans
complexe (Ngữ học Jrai) Coordonées (Cơ cấu xã hội Jarai) Pơtao, une théorie du
pouvoir chez les Indochinois Jrai (Một chủ thuyết về quyền bính nơi người Jrai)
Forêt, Femme, Folie (Rừng, đàn bà và sự điên loạn. Một phân tích xã hội theo
tâm lý học chiều sâu (Psychologie approfondie).
Ngoài hai nhà
truyền giáo trên, không thể không nhắc đến sự đóng góp tiếp nối của Paul
Guilleminet với nhiều khảo chứng của ông như:
1942, Le
sacrifice du buffle chez les Banhar de la province de Kontum. La fête, ( Tục lệ
lễ cúng trâu của người Banhar tại tỉnh Kontum đang trong BAVH, avril-Juin,
trang 117-1954 (Những người Bạn cố đô Huế.) 1952 : La tribu banhar du Kontum
(bộ lạc Banhar) trong BEFEO Coutumier de la tribu Bahnar des Sedang et des
Jarai de la province de Kontum trong EFFEO.
Phía tác giả Việt
Nam, ngoài anh em ông Nguyễn
Kinh Chi và con trai là Nguyễn Từ Chi, cũng không thể không nhắc tới nhà dân
tộc học Nguyễn Văn Huy với khảo luận:
Nhìn lại phong trào Bajaraka nói về giai đoạn thời đệ nhất cộng hòa miền Nam.
Những người có công
bảo vệ Tây Nguyên
Không kể những
người như Jacques Dournes mà những công việc của ông sau này nghiêng về hướng
khảo cứu Dân Tộc Học. Công trình trước tác của ông thật đồ sộ và quan trọng.
Riêng đối với những ai đi truyền giáo thì cuốn Dieu aime les paiens. (Chúa
thương dân Người) phải là cuốn sách gối đầu giường như Trần Sĩ Tín thú nhận.
Chỉ nội đọc tiêu đề cuốn sách, nó đã gói ghém trọn vẹn tinh thần truyền giáo
phải như thế nào, phải làm gì. Cũng không kể đến viên thống sứ Léopold Sabatier
mà tôi dành viết riêng về ông trong thời đô hộ Pháp.
Trong bài biên
khảo này, tôi đặc biệt giới thiệu ba người- không phải do kiến thức của họ có
về Tây Nguyên- mà do cái tấm lòng yêu mến của họ với Tây Nguyên. Có kiến thức
về Tây Nguyên đã là khó. Nhưng có tấm lòng với Tây Nguyên thì khó hơn nhiều.
*Người thứ nhất
là một người cán bộ cộng sản phản tỉnh- Nhà văn Nguyên
Ngọc- mà tôi gọi
ông là một nhà Nhân Bản. Ông Nguyên Ngọc từng có dip ở Tây Nguyên với tư cách
bộ đội và đã có thời ông viết cuốn: Đất nướcđứng lên với nhân vật anh hùng có
tên Núp- người Tây Nguyên. Cuốn sách này trở thành cuốn sách tuyên truyền nổi
tiếng lắm và đã chuyển thành phim.
Đối với tôi, đó
là một giai đoạn đời ông. -Giai đoạn mà nhiều người khác cũng đã đi qua-.
Nhưng ông còn là
người đã có công chuyển dịch cuốn : Les populations montagnardes du
Sud-Indochinois, Miền đất huyền ảo Và bản dịch : Foret, Femme, Folie, Rừng, đàn
bà, điên loạn của Jacques Dournes. Phải thích như thế nào, phải đồng lõa, thỏa
hiệp với J. Dournes như thế nào mới để công dịch? Đấy là những dấu hiệu cho
thấy tại sao sau này ông đứng lên bênh vực và bảo vệ các di sản vật thể Tây
Nguyên.
Sau 1975, ông đã
từng ủng hộ những nhà văn có xu hướng chống đối như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài và nhiều người khác. Ông cũng đóng góp ý kiến vào việc xây dựng một nền
giáo dục ở Việt Nam
và tin tường nó sẽ khá hơn. Nhưng vô vọng. Chẳng những nó không khá hơn mà trở
thành tồi tệ. Nhiều người có thể nghi ngờ thiện chí của ông. Nhưng đối với Tây
Nguyên, ông từng lên tiếng phản đối, kiến nghị, hội thảo về việc khai thác
Beauxite cùng với nhiều trí thức khác. Ông cũng từng cầm biễu ngữ xuống đường
để ngăn chặn mọi tham vọng tàn phá bất kể đến tương lai người dân tộc thiểu số.
Tiếng nói của ông, nếu ở trong một xã hội dân chủ, pháp trị thì ít nhất đã được
nghe.
Ở đây thì không:
Đàn gẩy tai trâu. Trâu ở VN vốn là biểu tượng cho sự cần cù và chịu đựng. Nay
nó biểu tượng cho sự ngu độn và lì lợm.
Nhà văn Nguyên
Ngọc- một người cộng sản đúng nghĩa- được trui rèn trong ý thức hệ Mác Xít- chỉ
biêt căm thù cầm súng giết giặc là chính- . Động cơ nào khơi lên trong ông cái
tình con người như ngọn lửa vốn đã tắt- vốn hiếm hoi nơi người cộng sản-.
Ông đã phải lòng
Tây Nguyên và đã lên tiếng cho Tây Nguyên!!
Tôi dám viết lại
một lần nữa ông là một nhà Nhân Bản hơn là người cộng sản. Trong những bài viết
của ông, trong những việc ông làm mà phần lớn là thất bại. Trong những việc ông
lên tiếng về nhiều lãnh vực-nhất là giáo dục cũng là những thất bại. Bởi vì ông
đã gẩy đàn cho Trâu nghe. Thất bại vì sự lên tiếng ấy gói ghém một tin tưởng
rằng có thể được nghe. Vì thế nó mang nặng tình chất một thứ phản kháng trung
thành (loyal)-Một từ của Zachary Abuza trong bài tham luận nhan đề gọi là :
Loyal opposition Within the VCP- tin tưởng rằng tiếng nói của mình có thể thay
đổi được cục diện.
Tin tưởng ấy,
phản kháng ấy dễ dẫn đưa người ta đến chỗ ảo tưởng..
Nhưng qua những
điều ông lên tiếng tôi nhận thức rõ ràng ông lộ diện con người bản chất chân
thật- một tiếng nói trung thực-, một con người lấy đạo đức, lương tâm làm lẻ
sống, lấy công bằng làm thước đo xã hội, lấy tranh đấu không phải bằng súng đạn
để tranh đấu cho quyền con người.
Càng ngày cái áo
cộng sản ông đã khoác vào người chỉ còn là chiếc áo sờn vai, rách nát không vá
được nữa. Ông đáng đứng vững trên đôi chân nhân bản của mình mặc dầu tuổi đã
lớn. Và một ngày nào đó, Đảng sẽ khước từ ông, vì không thể dung nhận một người
cộng sản mà lại nhân bản được.
Về Tây Nguyên,
ông cũng có hai bài biên khảo mang tính tố cáo đầy sức thuyết phục là: Tây
Nguyên, đã vượt ngưỡng và bài Phát triển bền vững ở Tây Nguyên được đăng tải
trên diendan.org. Chúng tôi sẽ trở lại với ông ở phần kết của bài viết này.
Một nhân chứng
thứ hai đến từ một miền đất xa xôi tận trời Tây tìm đến một đất nước do chính
phủ nước ông đến xâm chiếm và cai trị- một miền đất bị nguyền rủa bởi đói
nghèo, tật bệnh, chậm phát triển. Ông đến không mang theo bạo lực và đồng lõa
với ý đồ của thực dân. Đến đây rồi, ông mới nhận ra còn có những dân tộc đau
khổ hơn là ông tưởng. Đó là Tây Nguyên.
Câu chuyện phải
lùi lại 60 năm về trước- một giáo sĩ truyền giáo người Pháp- Giám mục Seitz,
giám mục KonTum cũng đã có những cảm nghiệm tương tự- cũng có những nỗi lo chưa
rõ mặt về số phận Tây Nguyên. Ông là người đã từng sống chết với Tây Nguyên kể
từ năm 1952 khi ông được bổ nhiệm làm giám mục Kon Tum cho đến khi ông bị nhà
cầm quyền cộng sản trục xuất ra khỏi Việt Nam năm 1975. Hơn 20 năm trời đằng
đẵng lo cho Tây Nguyên cho đến khi ông bị xua đuổi ra khỏi mảnh đất cao nguyên
một cách phũ phàng- một quê hương thứ hai của ông-. Tây Nguyên với hàng triệu
hectare rừng hầu như còn ở trong tình trạng hoang sơ. Vậy mà với chỉ một đợt
dân di cư 54.000 người từ miền Bắc lập nghiệp ở các vùng Di Linh, Blao và một
số nhỏ ở Ban Mê Thuột đã đủ làm nên nỗi sợ bị Kinh hóa của vị thừa sai?
Nếu giám mục
chẳng may còn sống thì ông sẽ hoảng sợ đến đâu- không phải chỉ 50.000 người xâm
nhập Tây Nguyên vào năm 1954 mà là khoảng hơn ba triệu người từ những nơi xa
xôi đến dẫm nát Tây Nguyên với một mức tàn bạo và tham lam cực độ.
Cái hiểm họa mà
giám mục Seitz lo sợ nay đã thành hiện thực!!
Người thứ ba là
thầy phó tế trẻ Việt Nam: Thầy Trần Sĩ Tin cùng với vài người anh em khác trong
nhà DCCT Việt Nam, tình nguyện lên Kôn Tum và đã ở lại đấy cho đến nay là 45
năm-2/3 cuộc đời của họ. Trần Sĩ Tín, một thanh niên vóc dáng cao lớn hơn người
thường- thích hợp cho một cầu thủ bóng rổ hơn là tu sĩ. Ông có cái gốc gác lớn
lên được ăn học, giáo dục từ môi trường đạo giáo của miền Nam VN. Và có thể có
một cuộc sống tu trì an nhàn ở dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn ở đường Kỳ Đồng-. Điều
gì đã làm ông khước từ tất cả- . Ngay khi mới chỉ là thầy với chức phó tế, ông
đã thử làm khu khuân vác ở bến Tàu, đã rủ nhau đi làm thuê, cuốc đất trồng
khoai cho cho các hộ nhà nông ở Tùng Lâm, Kim Thach, Thánh Mẫu, đã thử về đồn
điền Fyan của nhà dòng ở khu Lâm Dồng. Cuối cùng ông đã chọn vào đời bằng Khung
cửa hẹp, bằng những con đường gồ ghề, bằng những thách đố và thử thách ít ai
dám làm và thử làm. Thoạt đầu, ông đã lập Nhóm Ra Đi để thoát ra khỏi cái cơ
cấu khuôn mẫu, nề nêp mà quá chật hẹp của tu viện!!! Nhóm ra đi được hiểu như
một sự dấn thân, nhập cuộc theo tinh thần triết học nhân bản lúc bấy giờ. Cuộc
ra đi ấy nay trải dài suốt cuộc hành trình nhân thế đượm hy sinh, lý tưởng. Đó
là tinh thần phục vụ con người không tính toán so đo theo nghĩa đến tận cái đáy
của sự phục vụ không kể thân mình.
Tính cách nhân
chứng của ba người trên ở trong những hoàn cảnh chính trị, xã hội, tôn giáo
khác nhau, ở hướng đào tạo khác nhau- một người ở bên Tây, một người ở miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, một người miền Nam, lại có chung một hoài bão: Phải cứu lấy
Tây Nguyên.
Trước khi trình
bầy đầy đủ về họ, tôi xin thưa là động lực thúc đẩy tôi viết bài này bắt đầu từ
câu chuyện của cuốn sách: Nước mắt của Rừng mà tôi có dịp đọc và giới thiệu.
Một ngạc nhiên và
cũng thật bất ngờ khi tôi đọc và giới thiệu cuốn Nước Mắt của rừng của Amai
B’Lan, tôi có một số suy nghĩ miên man tự đặt ra cho mình là tại sao một cô gái
20 tuổi lại có những cảm nhận khác người là lo lắng cho cho số phận sống còn
của Tây Nguyên như thế! Cô biết gì về Tây Nguyên? Nhận thức có được bao nhiêu
về hệ sinh thái, về các kiến thức liên quan đến nhân chủng học, về tín ngưỡng,
phong tục Tây Nguyên để có can đảm lên tiếng? Tiếng gọi nào thúc đẩy cô tình
nguyện lên Cao Nguyên dạy học?
Trong nỗi lo lắng
rất con người của cô mà không cần trang bị một kiến thức cần và đủ-không cần có
những con số, thống kê-. Cô cảm nghiêm được số phận của Tây Nguyên. Cô thầm
trách người Kinh đã bằng nhiều cách lợi dụng, khai thác, chiếm đất đai và bóc
lột người dân Tây Nguyên. Cô viết:
“Người Jrai đã
từng là chủ vùng đất này(tên Gia Lai đọc từ chữ Jrai mà ra). Tổ tiên họ đã sống
và chết ở đây. Họ có cách sống và văn hóa của riêng họ. Trên đầu họ là bầu trời
tự do. Dưới chân họ là đất rừng linh thiêng. Họ sống như thể biết bao thế hệ.
Mọi chuyện cứ diễn ra như thuở ban đầu cho tới khi người Kinh tới”.
Amai B’Lan, Nước
mắt của rừng, trang 35. (5)
Khởi đi từ những
suy nghĩ của tôi khi đọc Những giọt nước mắt của rừng, tôi ngược dòng tìm hiểu
quá trỉnh hoạt động của giám mục Seitz và Hoàng Sĩ Tin trên Tây Nguyên.
Hành trình truyền
giáo và nỗi lo bảo vệ Tây Nguyên của giám mục Seitz
Cha Kim là tên
gọi Việt Nam
– một linh mục đạo đức, lối sống sống đơn giản, đi dép sandale. Cái xa xỉ duy
nhất là cha xử dụng xe díp để đi lo đủ mọi công việc. Cha cao lớn, nhưng gầy
mảnh khảnh. Khi còn trẻ, hai ba lần ông phải ra vào bệnh viện chữa trị, hàm râu
quai nón như phần đông các cố Tây thời bấy giờ. Nhưng khuôn mặt cha đầy nét
phúc hậu, toát ra một cái gì làm người chung quanh cảm mến.
Ở Hà Nội, ông
thiết lập trạp Ba Vì cho các thanh thiếu niên Việt Pháp và sau chuyển ra nuôi
các trẻ em bụi đời, mồ côi vào năm 1943, tại Quần ngựa. Có khoảng 80 em mồ côi
và bụi đời lúc bấy giờ. Và cứ thế, khi có chính sách chuyển giao quyền hành cho
các linh mục bản xứ, cha đã sớm nhường chỗ cho các linh mục Việt Nam
trong vai trò lãnh đạo. Và sau cùng được biết cha Kim đã làm giám mục coi sóc
giáo phận Kontum- một quyết định khôn ngoan, đúng chỗ, đúng người- một giáo
phận nghèo – ngoài người Kinh còn có dân tộc Jrai và Banhar.
Ở Kon Tum, ông
thiết lập hai nhà thương và một chẩn y viện lớn, ông xây trường học, kiếm trụ
sở cho các thanh niên thiểu số tiêp tục được đi học tại Sàigòn, xây dựng các cơ
sở dòng tuvv..
Hình như cuộc đời
và số phận của cha sinh ra, làm linh mục là để phục vụ người nghèo, kẻ yếu thế.
Thật ít có cuộc sống nào đẹp hơn thế.
Xin mạn phép
trích dẫn một câu của K.Marx cho rằng: Những người đi trước thời đại thường
chuốc lấy bi kịch.
Tuy lo cho địa
phận Kontum- một giáo phận nghèo nhất trong các giáo phận- Ông lại đặc biệt
quan tâm tới số phận người dân tộc lúc đó vào khảng 700.000 người. Ông đã tìm
cách mời các cha DCCT lên lập tu viện và đặc trách trông coi người dân Thượng.
Và sau đây, xin
được trích dẫn hai lá thư còn giữ lại được nói về việc này. Trong một địa phận
nghèo, có bao nhiêu mối bận tâm phải lo, phải làm, giám mục lại đặc biệt chú
tâm đến số phận các người dân thiểu số? Lo “ cứu linh hồn” hay lo ưu tiên cứu
số phận con người?
Đây không phải là
một câu hỏi vớ vấn mà là câu hỏi đụng chạm đế sứ vụ linh mục, đụng chạm đến cái
căn tính làm nên linh mục!!
Chúng ta cần ghi
nhận là giám mục Seitz đã gửi đi hai lá thư; một thư vào năm 1953- thời gian
trước di cư 54 cho vị Bề Trên Phụ Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế. Ba năm sau, 1956 giám
mục lại gửi một lá thư thứ hai kêu gọi DCCT đến lập một tu viện trên giáo phận
Kontum. Thư ấy viết với giọng van nài khẩn khoản như sau:
Thưa cha rất đáng
kính.
Sau khi đã suy
nghĩ chín chắn và khẩn cầu Thầy Chi Thánh Chí Linh trợ giúp, tôi không còn muốn
trì hoãn, kính xin Cha lưu tâm tới vài yếu tố thuộc ” Vấn đề người Thượng”như
tôi đã nghiệm ra từ ngày tôi được trao trọng trách gánh vác Giáo Phận này, cùng
xin Cha cho thành lập một tu viện Dòng Chúa Cứu Thế tại Kontum.
Ba năm sau, vẫn
chưa nhận được thư trả lời- không nản lòng- giám mục viết tiếp lá thư thứ hai :
Thưa Cha rất đáng
kính,
Cách đây ba năm,
vào ngày 14 tháng ba, 1953, tôi đã kêu mời Cha đến lập một tu viện trong giáo
phận Kontum. Nay tôi xin lập lại lời kêu gọi khẩn thiết của tôi, và, thưa Cha
rất đáng kính, tôi xin Cha tái cứu xét để thành lập một Nhà Dòng như đã nêu .
Những lý do chung
mà tôi đã trình bày với Cha lúc đó, không hề mất đi giá trị của chúng, trái lại
những biến cố xảy đến từ đó, lại càng làm cho những lý do đó có thêm sức mạnh
và mang tính thời sự .
Cách riêng với
nhịp độ người Kinh nhập cư gia tăng đáng kể, làm cho việc giáo dục và đào tạo
Kitô giáo cho những người mới tới đó, lại càng trở nên cần thiết . Còn các bộ
tộc dân Thượng, vốn âu lo cho tương lai của họ, thay vì phải trải qau một cuộc
khủng hoảng theo chủ nghĩa quốc gia hay bài ngoại, lại hết lòng mong ước có
những tu sĩ, linh mục ngoại kiều”.
35 Sứ vụ Jarai,
Dòng Chúa Cứu Thế.. 80-83 (6)
Lời kêu gọi của
giám mục Seitz đã không được vị bề trên phụ tỉnh DCCT đáp ứng. Im lặng. Tại sao
không đáp ứng thì cho đến nay cũng không biết được.
Giám mục không
chịu ngồi yên với số phận. Ông viết thư sang Pháp và liên lạc được với một dòng
nữ tu Benedictines(Dòng Biển Đức) ở một nơi gọi là Vanves. Chẳng biết ngoại
giao thế nào, năn nỉ ra sao mà bề trên dòng nữ này đã quyết định gửi năm nữ tu
sang truyền giáo ở Kontum.. Trong năm nữ tu ấy có đến bốn nữ tu quốc tịch khác
nhau. Đặc biệt có một nữ tu người Việt Nam, tên là Marie- Bénédicté Cúc.
Năm nữ tu này đã
đến Việt Nam
bằng tầu thủy, trong một hoàn cảnh bi kịch nhất lúc cuộc di cư bắt đầu- tức
ngày 21-7-1954. Theo một trong nữ tu, sơ Francoise Demeure hay Colomban cho
biết họ được đưa về Ban Mê Thuột trên một máy bay quân sự Pháp.. Họ ngơ ngác vì
không một chút hiểu biết gì về Việt Nam lẫn người Rhadés. Không có chỗ
ăn ở, họ phải ở nhờ đâu đó, 6 tháng sau mới xây dựng được chỗ tạm trú. Rồi từ
từ cứ thế xây dựng được nhà tập và nội trú cho 70 em người dân tộc thiểu số.
Nhưng sự hội nhập
cùng một lúc vào hai nền văn hóa khác biệt là Việt Nam và dân tộc thiểu số là một trở
ngại lớn. Hội nhập như thế nào? Lột bỏ y phục của dòng, mặc váy của người dân
tộc, đi đất như họ, ăn như họ thì sẽ trở thành một scandale dưới mắt một giáo
hội còn bảo thủ, nặng hình thức.
Chính vì thế,
trong thâm tâm, bà sơ cảm thấy rất khó chịu tự hỏi là họ đến đây để làm gì ? Để
chia xẻ sự nghèo túng hay để phô trương cái giầu có, cái văn minh, cái hiễu
biết của một đất nước Tây Phương tiến bộ xa xôi nào đó.
Sau khi đã xây
dựng xong cơ sở tu trì, sơ Francoise Demeure mới chợt nhận ra mảnh đất 30 mẫu
Tây trong rừng được dành cho nhà dòng xây cất là không có bằng khoán. Nói đúng
ra, đó là đất của người dân Thượng. Chiếm đất như thế có khác nào ăn cướp đất
của họ? Thật ra, giám mục đã hẳn có làm đơn xin cấp đất, chính quyền địa phương
cho ngay vì đó là đất được coi như đất vô chủ, đất hoang.
Cái việc coi đất
Tây Nguyên là đất hoang là một quan niệm thông thường mà nhiều người đều nghĩ
như thế. Nhưng các sơ từ xa đến lại không nghĩ như thế. Đất ấy có chủ và chủ
nhân ông là các dân tộc người Jrai và Bahnar.
Không một ai từ
nhà cầm quyền đến người cầm đầu giáo hội địa phương nghĩ rằng đây là đất của
người Tây Nguyên. Cho nên việc cấp một mảnh đất 30 mẫu tây cho sự phát triển
một dòng tu phục vụ người dân thiểu số là một điều rất bình thường.
Bây giờ mấy bà sơ
đòi bằng khoán thì lấy đâu ra? Câu chuyện cứ nhì nhằng như thế không giải quyết
ổn thỏa. Cuối cùng các sơ tính bỏ Ban Mê Thuột lên Kon Tum lập tu hội một lần
nữa. Không nói rõ, nhưng các sơ này chê trách giám mục Mai cổ hủ, nặng thành
kiến.
Montagnards du
Viet Nam,
Francoise Demeure (7)
Và sau nhiều năm
ở Tây Nguyên, chính họ dần nhận ra: Vai trò có thể bị đảo ngược, vì chính những
người dân thiểu số có thể dạy cho họ những giá trị mà trước đây họ không có,
hay coi nhẹ.
Sơ Francoise
Demeure viết : J’ai recu beaucoup plus que je n’ai pu donner. (Tôi nhận được
nhiều hơn những điều mà tôi có thể cho) .
Riêng Giám mục
Seitz đã có mối lo sợ Kinh hóa đi trước mọi người như trong lá thư đề ngày 14
tháng ba 1953, giám mục đã cảnh báo về một hiểm họa Kinh Hóa chưa tới:
“Các dân tộc Cao
Nguyên lúc này đang tới một “khúc quanh” lịch sử mà tôi cảm nghĩ là có tính
cách quyết định cho tương lai của họ: hoặc là chết vì bị dồn ép và tiêu diệt
hoặc là được giải thoát nhờ thăng tiến và Kitô hữu”.
Ở một đoạn thư
khác, giám mục viết:
“Mới ngay đây có
kế hoạch khai hoang cho người Việt nhập cư. Vấn đề nhập cư này là một con dao
hai lưỡi. Việc này thuộc bình diện những hiện tượng tự nhiên và lịch sử, dân
tộc năng động hơn, sản lực mạnh hơn, sẽ kéo theo cái chết của dân tộc yếu hơn.
Đó là một sức mạnh mù quáng, mà chúng ta e ngại mọi sự có thể xảy ra, nếu chúng
ta cứ để mặc cho nó hoành hành mà không lấy lý trí, được đức tin và con tim soi
rọi, can thiệp vào”
Thư của Giám mục
Kim, Paul Seitz, Vicariat Apostolique de Kon Tum, P.M.S Viet Nam. Kontum ngảy
14 tháng ba 1953, gửi bề trên Dòng Chúa cứu Thế. Trích trong 35 năm Sứ vụ
Jarai, Dòng Chúa Cứu Thế-VN, 10. 1969- 10-2004 (8)
Bên cạnh những
hoạt động nhằm bảo vệ Tây Nguyên, ông còn viết hai cuốn sách quan trọng bàn về
vấn đề này. Đó là các cuốn: Le Devoir d’Aspotolat envers les Montagnards và
cuốn Des homme debout. Les montagnards du Sud Viet Nam.
Nội dung hai cuốn
sách này cho thấy giữa Jacques Dournes và giám mục Seitz có những quan niệm về
sứ vụ truyền giáo tương tự.
Nhắc lại những lo
lắng của gíám mục Seitz về việc Kinh hóa Tây Nguyên cho thấy rằng có những tư
tưởng đi trước thời đại và nó trở thành di lụy hay trò cười cho thiên hạ còn
nặng thành kiến!
Đối với người
viết bài này, ngưới ta có thể nâng tầm kích hai lá thư ở một mức cao và xa hơn
nữa. Hai lá thư được trích dẫn ở trên thật là khá quan trọng vì nó cho thấy cái
nhìn xa trông rộng và nhất là tấm lòng của vị thừa sai người Pháp đối với các
dân tộc thiểu số. Tìm hiểu đầy đủ nội dung hai lá thư nó sẽ giúp người ta phải
suy nghỉ lại cho công bằng mục đích của việc truyền giáo là gì? Nó có phải là
một hình thức xâm lược với những mưu toan lợi lộc trần thế và san bằng những
giá trị đạo đức, cổ truyền bản địa không?
Hai lá thư chẳng
những giúp người đọc hiểu được nội bộ và thái độ của các vị lãnh đạo tôn giáo
thời đó.- Đặc biệt là vị bề trên Phụ Tỉnh dòng Chúa Cứu Thế cũng như Giám mục
Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Ban Mê Thuột.
Cùng là Giám mục
coi sóc các dân tộc Tây Nguyên, nhưng giám mục Seitz tỏ ra quan tâm một cách
đặc biệt đến số phận các người Jrai ở Kontum trong khi giám mục Chi ở Ban Mê
Thuột thì không. Bằng chứng là khi 4 tu sĩ tình nguyện lên Tây Nguyên, họ đã
ngỏ ý lên Ban Mê Thuột phục vụ truyền giáo cho người thiểu số. Giám mục Chi đã
từ chối lời yêu cầu ấy.
Hai giám mục, hai
thái độ, hai cách nhìn cánh đồng truyền giáo!!Một người chắc đã đọc kỹ: Dieu
aime les paiens và một người đã có tiến sĩ Thần học, nhưng vì lý do nào khác có
cái nhìn khác!!
Riêng đối với
người viết bài này, hai lá thư này chứng tỏ tinh thần và lý tưởng của những nhà
truyền giáo ngoại quốc đến VN trong tinh thần phục vụ vô vị lợi và sự tôn trọng
văn hóa bản địa, tôn trọng các giá trị truyền thống Tây Nguyên mà bằng mọi giá
họ muốn bảo vệ và gìn giữ.
Công việc của
giám mục Seitz chỉ là tiếp nối công trình truyền giáo của các bậc tiền bối như
Pierre Dourisboure vào cuối thập niên 1860 dưới quyền giám mục Cuénot, giám mục
Thể.
Nhưng quan trọng
hơn hết, thái độ ấy cũng là cơ hội bắt chúng ta phải nhìn lại cũng như đánh giá
lại về việc làm của các nhà truyền giáo kể từ Alexandre De Rhodes đi truyền
giáo từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong. Họ vẫn bị mang tiếng là những kẻ đi chinh
phục mang tính đế quốc, đồng thời coi thường những giá trị tôn giáo, văn hóa
bản địa của người Annam.
Các nhà truyền
giáo như Pierre Dourisbourg hay Jacques Dourmes sau này cho chúng ta một cái
nhìn trung thực hơn về các nhà truyền giáo ấy. Giám mục Seitz một lần nữa phá
tan những nghi kỵ của một số nhà nghiên cứu sử khi viết về các nhà truyền giáo.
Trong hai lá thư,
giám mục đã khẳng định một cách cương quyết những lo âu diệt chủng của người
Tây Nguyên:
“Tôi nghĩ và tất
cả các thừa sai đều đồng lòng với tôi rằng, người Thượng có quyền được sống;
rằng trên những miền đất bao la này có đủ chỗ cho mọi người cùng nhau an cư;
hơn nữa rằng có thể và có lợi ích để cho người Thượng dần dà hội nhập được vào
quốc gia Việt Nam”.
35 năm sứ vụ
Jarai, trang 80 (9)
Chúng ta cũng cần
nhớ thêm điều này là khi các nhà truyền giáo Tây Phương chuyển giao quyền hành
cho giáo hội địa phương vào thập niên 1950 thì phần lớn các thừa sai ngoại quốc
đã rút lui một cách lặng lẽ, nhường lại những vị trí chỉ huy trao vào tay các
linh mục, giám mục VN và tình nguyện đi về những nơi xa xôi, hẻo lánh đang còn
thiếu linh mục.
Cố Năng, cha
chính xứ nhà thờ Cửa Bắc Hà Nội xin về một họ đạo lẻ ở Phan Thiết. Cha Kim, tức
cha Seitz tình nguyện lên Di Linh một thời gian ngắn chăm sóc người cùi.
Cũng kể từ năm
1960 khi tỉnh dòng Chúa Cứu Thế được thành lập thì các tu sĩ ngoại quốc người
Gia Nã Đại đã nhường lại tất cả các cơ sở của Dòng cho các cha Việt Nam. Phần
các cha Lapointe, Benoit, Vaillancourt, Laliberte1, Drouin… Họ đã rút lên khu
rừng giáp ranh các tỉnh Lâm Đồng và Daklak để phục vụ các sắc dân Thượng, chính
yếu là người K’Ho.
Họ đã có thể xây
dựng nên một đồn điền tại Fyan, làm kinh tế chăn nuôi để cải thiện đời sống các
nhóm dân ở đấy.. Các vị khác cũng làm như thế- tình nguyện đi truyền giáo ở các
vùng cao và vùng xa xôi hẻo lánh..
Cái thái độ và
tinh thần đó thật đẹp- khi làm xong vai trò được giao phó- thì lặng lẽ rút lui.
Với độ lùi của
thời gian và trong một tinh thần khoan dung và khiêm tốn, phải nhìn nhận có
những bất cập và chấp nhận những sai lầm trong việc so sánh hoặc đánh giá những
giá trị bản địa của một số thừa sai.
Nhưng nếu cứ căn
cứ vào tinh thần truyền giáo của các thừa sai đi trước Giám mục Seitz như
Pierre Dourisboure và nhất là Jacques Dournes sau này thì quả thật họ đã đặt để
những giá trị bản địa của truyền thống Tây Nguyên lên hàng đầu.
Cho nên, ngày hôm
nay, muốn hiểu Tây Nguyên- không ai vượt qua được Jacques Dournes-. Một con
người muốn hòa mình triệt để vào cuộc sống Tây Nguyên đến độ sẵn sàng hòa nhập
sống như người Tây Nguyên- mình cởi trần, dưới thì Đóng khố như đàn ông Tây
Nguyên. Việc làm này không được bề trên là giám mục tán thành. Và theo lời kể
của Amai B’Lan cũng như linh mục Trần Sỹ Tín, một lần kia, Jacques Dournes đang
đóng khố thì giám mục đến thăm. Ông vội vàng mặc quần áo dòng ra đón tiếp giám
mục và dẫn đường .. Tuy nhiên vì vội vã, ông còn để lòi cái đuôi khố và Giám
mục hỏi: Cái gì thế này?
Có lẽ cái phần
thưởng cuối cùng dành cho giám mục Paul Seitz là hai năm trước khi lìa khỏi cõi
trần thế này là lễ truyền chức hai vị tân linh mục- một Việt Nam và một người
Bahnar-tại Paris năm 1982- thành quả sứ vụ truyền giáo của ông vào đúng ba mươi
năm trước- năm 1952- khi ông đặt chân lần đầu tiên lên Kontum.
ChaTrần Sĩ Tín và
Tiếng gọi ra đi
Tuy nhiên- có một
điều trùng hợp đến lạ lùng là có một nhóm nhỏ DCCT gồm bốn người lúc ban đầu-.
Đầu đàn là cha Vương Đình Tài kéo theo Trần Sĩ Tín, Nguyễn Đức Mầu và thầy
Léonard Quân. Sau này có thêm thầy Hilaire Đinh Văn Thảo, linh mục Phán, thầy
Marcô Trần Văn Đàn(Chết vào ngày 12-5-1971 khi đang bị cộng sản cầm tù. (99%
các tu sĩ đều bị sốt rét ác tính trong đó có Trần Sĩ Tín).
Những quyết định
của Cha Tài, Tín không hẳn được các tu sĩ và bề trên của họ đồng ý hoặc ủng hộ.
Có những ánh mắt nghi kỵ ngay cả coi thường..
Họ cũng hoàn toàn
không biết gì về nội dung hai lá thư của giám mục Seitz trao đổi với Bề trên
của họ.
Xin trích dẫn lời
của một trong bốn người- Cha Trần Sĩ Tín.
Ghi chú : lúc đó
Trần Sĩ Tín chỉ là thầy Phó Tế và vì Thầy Tín muốn lo phục vụ dân Gia Rai trước
nên chưa chịu chức linh mục.. Mãi cho đến 8-12- 1972, vì nhu cầu mục vụ, Thầy
Tín mới chịu chức linh mục, trễ vài ba năm (10)
“Khi chúng tôi ra
đi, chúng tôi chẳng biết đi về đâu. Điều liên kết chúng tôi là ước vọng phục vụ
anh em dân tộc ít người, nhưng chẳng biết bộ tộc nào. Lúc đó chúng tôi không hề
biết đến người Jrai. Cha Tài hướng về phía Ban Mê Thuột vì ở đó có nhiều người thân
quen.. Nhưng Đức cha Mai (giám mục Ban Mê Thuột) tỏ ý không đón nhận. Thế là
phải đi xa hơn, lên Pleiku, tới Cheoreo, nơi có một anh em là tu sĩ dòng DCCT
đang phục vụ anh em Jarai, đó là linh mục Vũ Văn Thiện là con và môn đệ của Đức
Cha Paul Seitz..
Ở một chỗ khác,
cha Tín viết rõ hơn: Kỳ nghỉ tết năm 1969, tôi theo cha Tài trên chiếc ô tô hai
ngựa, từ Đà Lạt xuống Nhatrang qua trung tâm Chàm của cha Moussay, lên Ban Mê
Thuột. Chúng tôi vào tòa Giám mục Ban Mê Thuột Đức Cha Mai và ở lại đêm. Cha
Tài trình bày với Đức Cha mục đích chuyến đi của chúng tôi: chia xẻ cuộc sống
với một nhóm người Thượng nào đó, xin Đức Cha chỉ bảo. Nhưng Đức Cha tỏ vẻ
không mặn mà lắm với ai ở dòng Chúa Cứu Thế mà ngài cho là quá “ cấp tiến” .
Ngài nói nếu muốn, chúng tôi có thể đến ở một nơi ở Phước Long. Mà Phước Long
lúc đó đã là vùng oanh kích tự do( free fire zone) và kể như đã là vùng của Mặt
trận Giải phóng (CS), không có con đường bộ nào tới được Phước Long“
Hạt giống Kitô trong
đất Jjrai, Giuse Trần Sĩ Tín (11)
Giám mục Nguyễn
Huy Mai vốn không có thiện cảm với nhóm DCCT nên có lúc bóng gió: Cha muốn lên
đây lập dòng hả? Phải đi trực thăng Mỹ vào rừng sâu đầy Việt Cộng mà giảng đạo.
Không phải chỉ
mình nhóm Trần Sĩ Tín gặp khó khăn với giám mục Mai mà năm bà sơ từ Pháp sang
cũng phàn nàn về sự hững hờ tiêu cực của giám mục Mai đến độ họ chán nản muốn
dọn về KonTum- chỗ giám mục Seitz.
Và cũng biết rõ
tinh thần của người Kinh cũng như không tin tưởng nơi họ mà Jacques Dournes là
người đầu tiên đã kịch liệt phản đối khi được tin Hội Đồng Giám Mục VN có ý
định trao việc truyền giáo Tây Nguyên cho Dòng Chúa Cứu Thế.
Theo Dournes,
người Kinh chỉ muốn cướp không và thôn tính những vùng đất vốn là của các dân
tộc ít người.
Chính Trần Sĩ Tín
cũng phải nhìn nhận là khi mới tiếp xục với dân miền Thượng, họ e dè vì tưởng
là các viên chức chính phủ được gửi vào để theo dõi họ.
Trần Sĩ Tín cũng
nhỉn nhận ảnh hưởng của Jacques Dournes khi lần đầu tiên đến Cheo Reo. Chính
Dournes đã mở đường cho Trần Sĩ Tín đi suốt cuộc hành trỉnh truyền giáo xuyên
qua cuốn: Dieu aime les paens. Chúa thương dân của Người . Vậy thì tại sao
người đi truyền giáo lại có thể bỏ rơi người dân thiểu số?
Jacques Dournes
đã kể lại giám mục Seirz đã chở ông bằng xe Jeep tới làng Bon Ama Djong vào một
ngày trong năm 1955, không nhà, không người quen biết.
Sau này đế lượt
bốn anh em của Trần Sĩ Tín cũng bị giám mục Seitz chở đến một địa điểm và để
bọn họ phải tự liệu lấy một mình.
Việc để các tu sĩ
như Jacques Dournes một mình giữa cánh rừng xa lạ cũng như sau này để bốn người
của nhóm Trần Sĩ Tín cũng như vậy chỉ có giám mục Seitz mới làm được như vậy.
Và củng chỉ có ông mới thấu hiểu hết ý nghĩa của việc truyền giáo là gì!
Trần Sĩ Tín, Hạt
giống Kitô trong đất Jrai, Bản truyền thông Giáo phận Kôn Tum (12)
Và đây là cuộc
đời truyền giáo của nhóm Trần Sĩ Tín:
“ Ngày 10 tháng
10 năm 1969, cùng với giám mục Kontum, chúng tôi tới Pleikly. Mới bặp bẹ học
được vài tiếng Jarai học được ở Cheo Reo. Giám mục đã đọc và giải thích cho
chúng tôi đoạn Tin Mừng theo Luca 10,1-12 nói về việc Chúa sai 72 môn đồ đến
mọi thành và nơi chốn. Sau đó ngài chúc lành cho chúng tôi, rồi lên xe về lại
Kontum. Vì hoàn toàn không quen ai nên tới tối chúng tôi vẫn chưa tìm được nhà
nào chịu cho chúng tôi ngủ trọ . Chúng tôi đành ngủ tại một căn phòng trường sơ
cấp trong làng. Chúng tôi có mang theo chăn nhu7nhg không có giường”
“ Từ sáng hôm
sau, và những ngày tháng kế tiếp, chúng tôi bắt đầu làm quen với dân làng. Nhà
nào cũng vào, gặp ai cũng chào hỏi. Họ cho gì ăn nấy. Vừa ăn vừa học tiếng:…
Rồi no, đói, khát, mặn, nhạt, cay đắng, ngọt, bùi.. Rồi đến mùa gặt chúng tôi
xin bà con cho chúng tôi cùng gặt. Thế là có những buổi trưa cùng ăn cơm trong
ruộng lúa, có những buổi chiều cùng về trên con đường mòn, cùng tắm trong dòng
suối mát..Cứ như thế: cùng ăn cùng làm, cùng nói, dần dần chúng tôi thân với
họ, biết họ hơn và họ cũng biết chúng tôi hơn. Họ biết chúng tôi không phải là
nhân viên cán bộ chính phủ.. Họ giao con cái cho chúng tôi và nói:” Các anh hãy
dậy cho chúng biết điều của các anh”.
35 năm Sứ Vụ Gia
Rai..trang 90-92 (13)
Phải đối diện với
bao nhiêu khó khăn, nhưng kể từ những năm 1971, nhóm Trần Sĩ Tín luôn luôn bị
đe dọa bởi Việt Minh cộng sản trong vùng và đã bị họ bắt giam ở trại cải tạo.
Đi làm lễ ở đâu cũng phải xin phép. Có lần không cho cha Trần Sĩ Tín làm lễ ở
Mỹ Thạch cách chỗ ông ở 25km. ( Cho đến bây giờ GM Hoàng Đức Oanh cũng vẫn bị
hạch sách như vậy).
Phần TST trả lời
công an:
-Anh biết tôi từ
bao lâu.. Anh biết lễ Noel là lễ gì rồi đấy. Bây giờ tôi nhờ anh về nhắn lại
với công là đúng ngày giờ ghi ở đây, tôi sẽ về dâng lễ, muốn bắt thì đến mà
bắt. Bắt để mà thăng quan tiến chức..
Sau 1975, một lần
nữa, Trần Sỹ Tín lại bị Việt Minh dòm ngó tra khảo. Và có lần ở thời kỳ Quân
quản, Trần Sĩ Tín còn một mẹ già ở Sài Gòn-một bà mẹ tuyệt vời đã đẻ ra Trần Sỉ
Tín-Trần Sĩ Tín xin giấy về thăm mẹ. Gặp anh Quân Quản ăn nói sấc sược, đây là
cách trả lời của TST: Mình bèn ngồi thẳng lại và đáp trả: Này anh, anh biết
chúng tôi là hạng người như thế nào chứ, sống chêt có nghĩa lý gì . Tôi nói vậy
đấy, tin anh không tin thì tùy anh. Họ đấu dịu ngay: Cách mạng không tin dân
thì tin ai..
Và còn nhiều giai
thoại nữa. Không kể không được về cái ông Trần Sĩ Jrai này..
-Ở xã la-le, có
một lần tôi cử hành nghi thức ghi dấu thánh giá cho anh em dự tòng . Mọi nghi
thức xong, chúng tôi dọn cơm ra ăn với nhau, một anh du kích jarai ập vào quát
tháo loạn xạ bằng tiếng Kinh: Ông làm gì ở đây. Mình tưng tửng đáp lời: Thì anh
thấy đấy, ăn cơm.
Rồi anh ta quay
sang nói với anh em dự tòng vẫn bằng tiếng Kinh: Tụi bay trước, trước năm 1975
ra sao và sau 1975 ra sao ?( Ý anh ta muốn nói là trước năm 1975 đâu có đạo mà
nay theo đạo) . Xã này là xã anh hùng, không có đạo!!.
Xin mở một dấu
ngoặc, ở một chỗ khác, Trần Sĩ Tín thú nhận một cách khiêm tốn và thật thà như
sau:
Hồi đó chưa có
người dân tộc nào gia nhập đạo. Từ 1969 đến 1987, 18 năm ròng chỉ mò cua bắt
ốc, rồi cứ nhào vào làm cho dân..
Trần Sĩ Tín Ibid,
trang 33 (14)
Mình lại nửa đùa
nửa thật: Ấy, giống mới đấy! Hồi trước làm gì có cao su, cà phê, bây giờ cà
phê, cao su đầy rẫy.
Anh ta lại càng
quát tháo dữ. Mình chuyển tông sang tiếng Jarai: Này anh, anh là người Jarai,
anh đang ở trong làng Jarei, sau 1975, anh nói tiếng Kinh. Đây là đồng bào của
anh chứ có ai khác đâu mà anh quát tháo nạt nộ..
Lúc đó anh công
an người Kinh mới vào: Thôi ông Tín, cán bộ địa phương đã đến đây, ông cứ để
cho họ làm biên bản đi.
Tôi bảo làm biên
bản thì cứ làm biên bản đi, chứ đừng quát tháo dọa nạt như vậy. Sau cùng là
biên bản như sau:
Có khoảng 40
người đang ăn cơm, có một cái bàn trải khăn thổ cẩm, trên bàn có cây Thánh giá
và một bình hoa.. Ngày… tháng.. năm.
Khi trao cho tôi,
tôi không ký, tưởng chuyện gì ghê gớm chứ ăn cơm mà củng làm biên bản. Rồi cũng
xong. Huề cả làng.
Trần Sĩ Tín, 35
năm sứ vụ Jarai, trang 60-64. (15)
Và không ai có
thể tiên đoán được kể từ ngày đó-10.10-1969- họ đã ở lại Jarai, Kontum cho đến
bây giờ. Hơn 40 năm.
Kể như như hết cả
cuộc đời họ dành cho Tây Nguyên.
Và trớ trêu thay,
sau mấy chục năm “ truyền giáo”, cha Trần Sĩ Tín khẳng định:
“Anh em chúng tôi
sáng mắt, sáng lòng, chính chúng tôi được trở lại” ( Nous sommes convertis, Cha
Tín diễn tả bằng tiếng Pháp).
Ở một chỗ khác,
ông viết chi tiết tỉ mỉ hơn:
“Trong cuộc sống
hằng ngày, chúng tôi còn khám phá ra được người Jarai có một kho tàng văn hóa
rất phong phú, một cơ cấu xã hội đặc biệt, một nền văn chương khẩu truyền quý
giá gồm những bài tục ngữ, ca dao, bài hát, chuyện cổ hay thần thoại..Họ có
những đức tính tự nhiên rất đáng phục.. Chính đời sống và kho tàng văn hóa
Jarai đã thách thức, thanh luyện lề lối suy nghĩ, thái độ và lối sống của chúng
tôi, và như anh Mầu nói: đã giảng tin mừng cho chúng tôi”.
Trần Sĩ Tín,
Ibid, trang 95 (16)
Trích dẫn trong
Récit de Chasse
Tôi chỉ chia xẻ
một phần cái lòng khiêm nhường của Trầ Sĩ Tín. Cũng nhờ những người như ông mới
có một Ama Phu. Ama Phu thời đệ nhị cộng hòa đã tranh đấu chống bất công..
Nhưng vào năm 1992, ông về làng phía vợ ở Mỹ Thạch lúc ấy mới có vài người theo
đạo, vậy mà nay đã có 42 làng có người công giáo!!
Người Pháp và Bảo
Đại với Tây Nguyên
Trong chính sách
của người Pháp đối với Tây Nguyên có trường hợp của thống sứ Leopold Sabatier
đáng được nói tới ở đây. Có thể ông là người Pháp duy nhất coi Tây Nguyên là
ruột thịt cùa mình. Ông lấy một bà vợ người Radhé và có một đứa con gái. Và ông
đã từng phục vụ cả 10 năm trời ở Đắc Lắc, xây dựng trường học, xưởng thợ, mở
lớp học dạy tiếng Rhadés mà không nhận được một đồng xu nào của chính quyền.
Ông cũng ra lệnh
hạn chế sự du nhập lai vãng của người Pháp hay người Việt Nam muốn đến
đây khai thác, làm giàu. Ông gọi đó là một cuộc xâm chiếm của người Tây Phương
và Việt Nam.
(Invasions Européens et Annamites) vì ông chủ trương một Tây Nguyên nguyên vẹn
và được bảo tồn. Nhờ đó ông thu phục được các tù trưởng các bộ lạc theo về với
ông.
Việc làm của ông
được công sứ Thiébaut lúc đầu tán thưởng và khen ngợi. Vào ngày đầu tháng giêng
năm 1926, ông cũng đã triệu tập được tất cá các tộc trưởng quy tụ chung quanh
ông và ăn thề trung thành với nước Pháp.
Tuy nhiên việc
làm của ông đã tạo ra nhiều kẻ thù. Và họ đã tìm mọi cách để loại trừ ông.
Chính sách đóng cửa Tây Nguyên đã là một trong những lý do ông bị mất chức, bị
canh chừng. Ông Thiébaut cấm không cho ông được rời khỏi Ban Mê Thuột. Cuối
cùng ông đã rút lui về ẩn dật ở Montsaunés (Haute Garonne) bên Pháp và không
muốn ai nhắc lại những ngày tháng ở Tây Nguyên nữa.
Nhưng công lao
của ông đối với văn hóa Tây Nguyên là lớn, bởi vì ông đã để lại một số những
công trình văn hóa về huyền thoại, lịch sử, các bài hát và những câu truyền
khẩu như:
- Lexique Franco-
Rhade.
- Le Bidué (receuils
de lois coutumieres)
- La Légende de
Damson. (Quan trọng nhất)
Sau khi Le1opold
Sabatier bỏ Tâ Nguyên về Pháp thì từ đó Tây Nguyên mở cửa cho các người Pháp
thực dân nhảy vào khai thác.
Trích dẫn trong
Récit de Chasse en Indochine, René de Buretel de Chassey-haut plateaux de
L’Annnam, Ban Mê Thuột, 29.4. 1929 đến 10.8.1931 (17)
Nhưng với số liệu
do người Pháp để lại cho thấy Tây Nguyên không phải là địa bàn ưu tiên để đầu
tư và khai thác kỹ nghệ.
Vào năm 1939,
trước chiến tranh, người Pháp đã xuất cảng 1.800.000 tấn than đá từ các mỏ than
Hòn Gay. Chưa kể các cuộc đầu tư khai thác các quặng mỏ thiếc tại Tinh Túc, gần
Cao Bằng. Nói chung, người Pháp đầu tư một số tiền là 41 triệu 700.000 Francs
bao gồm 85 công ty.. mà phần lớn ở phía Bắc.
Việc đầu tư khai
thác quan trọng thứ hai là trồng cây cao su ở phía Nam. Đây là cuộc đầu tư lớn nhất và
cũng thành công nhất của người Pháp tại Đông Dương. Số lượng mẫu tây trồng cao
su tính đến năm 1910 tại các vùng ở phía Đông Sai gòn ở các vùng An Lộc gần
Biên Hòa hay vùng Thủ Đầu Một tính ra có tất cả 51 đồn điền với 70.000 mẫu Tây
với tổng cộng 2 triệu cây. Không đủ nhân công, họ phải tuyển mộ nhân công từ
miền Bắc đưa vảo Nam.
Số nhân công làm trong các đồn cao su là 70.000 người.
Sang đến năm
1942, số mẫu tây trồng cao su tăng lên 142.000 mẫu.
Trong khi đó,
việc trồng cà phê ở Cao nguyên giữa Kontum- Di Linh chỉ có 13.000 mẫu tây và
thu hoạch được 1500 tấn cà phê..
Việc trồng trà
chung quanh các vùng như Kontum, Pleiku, Darlac mới bắt đầu từ năm 1924 và cho
đến năm 1938 mới chỉ đạt 3000 mẫu trà với con số thu hoạch là 812 tấn.
Indochina, Pierre Brocheux, Daniel
Hémery, trang 124-126 (18)
Con số chưa đến
20.000 mẫu tây rừng được khai thác để trồng cà phê và trà là con số không đáng
kể so với hai ba triệu mẫu tây rừng ở Tây Nguyên..
Việc khai thác
này quả thực không ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân thiểu số Tây
Nguyên.
Trước khi Bảo Đại
về nước, Tây Nguyên được coi là khu tự trị, sau đó đã được người Pháp trao trả
cho VN và nay được gọi là Hoàng triều Cương Thổ. Đất của nhà vua.
Trong diễn văn
của Tổng Thống Pháp Quốc gởi Hoàng Đế Việt Nam có đoạn ghi như sau :Đối với các
dân tộc không thuộc về giống người Việt Nam, mà khu vực cư trú lịch sử vẫn vẫn
ở trên lãnh thổ Việt Nam và theo truyền thống vẫn quy thuận Hoàng triều, thì
Hoàng Đế Việt Nam sẽ ban bố những quy chế riêng cho các dân tộc đó. Trích trong
Tân Văn, số 11, 2008, trang 26. (19)
Nói một cách
thẳng thừng thì Hoàng Đế Bảo Đại chẳng mấy quan tâm gì về Khu Hoàng Triều Cương
Thổ và chỉ coi Tây Nguyên như một chỗ nghỉ mát (Đàlạt) và tỉnh Ban Mê Thuộc
được coi là một nơi săn bắn lý tưởng cho Bảo Đại.
Nói chung, dưới
thời Pháp thuộc, người dân thiểu số chịu nhiều ảnh hưởng của các thừa sai Pháp,
tin các vị này .. Đấy cũng là một trong những khó khăn cho những người đến sau
như nhóm Trần Sĩ Tín.
Tây Nguyên và
thời Đệ Nhất, đệ Nhị Cộng Hòa
Khi về nước để
nhận chức thủ tướng, ông Ngô Đình Diệm đã yêu cầu Bảo Đại hủy bỏ quy chế Hoàng
Triều Cương Thổ và sát nhập khu vực tự trị này vào lãnh thổ của VNCH ..
Phần ông Diệm ra
sắc lệnh lập Tòa Đại biểu chính phủ bổ nhiệm ông Vĩnh Dự làm đại biểu chính
phủ.
Ông Diệm chỉ nghĩ
tới phần ổn định Hành chánh. Phần quân đội Thượng trước đây do người Pháp chỉ
huy khoảng 10.000 nay do các sĩ quan quân đội VNCH chỉ huy. Điều này làm mất
lòng các sĩ quan Thượng không ít và một số đã bất mãn bỏ về làng.
Đây là một trong
những khó khăn đầu tiên của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Cái khó khăn thứ
hai là sự tái định cư một số dân di cư từ miền Bắc vào lập nghiệp trên Tây
Nguyên. Con số chính thức là 54 ngàn người . Những người này được hưởng tất cả
những ưu đãi dành cho họ qua viện trợ Mỹ. Chỉ trong một thời gian ngắn trên
dưới một năm thì họ đã có thể ổn định đời sống và bắt đầu khai thác trồng trọt
chủ yếu là trà và cà phê. Họ khoanh vùng, mỗi nhà được diện tích đất đai để ở,
rồi từ đó khai phá thêm để trồng trọt.
Khi chưa có dân
di cư, người dân Tây Nguyên có đất tốt tự nhiên, thuốc lá mọc tự nhiên thì lái
buôn thu gom mang xuống Bình Định để bán cho người Kinh..
Sau đất của dân
Thượng bị cằn cỗi, sói mòn thì có chuyện ngược chiều là lái buôn đem thuốc lá
từ Bình Định lên bán cho người Thượng.
Cho nên, cách
canh tác của người Thượng là không định cư, định canh được. Họ trồng trọt trong
vài mùa rồi dời đi chỗ khác. Vài năm sau quay lại đất tốt như xưa vì không bị
cầy sới tung lên.
Đó là cuộc sống
bán du canh.
Trong khi đó,
người di cư biết dùng phân bón- ngay cả xử dụng phân người- nên trồng trọt đạt
được năng xuất cao. Người Kinh mỗi ngày mỗi giầu thêm, người Tây Nguyên thì mỗi
ngày bị đẩy lui vào trong sâu của rửng
Khi có một số
người di cư mới đến thì cả hai bên dân Thượng- và dân di cư- không được học hỏi
để có cuộc sống chung với nhau ..Có phần chắc chắn là số người Bắc di cư ấy có
thể tỏ ra khinh thường các người Thượng tại địa phương.
Tiếp đến, từ năm
1956 lại có phái đoàn người Mỹ thuộc cơ quan MAAG được gởi lên và họ đã nhanh
chóng xây dựng những cơ sở huấn luyện binh lính Thượng để chống lại du kích
cộng sản.
Lại một lần nữa
VNCH và người Kinh mất một chỗ đứng trong lòng người dân Thượng. Sau đó, họ đã
lập ra phong trào BAJARAKA, chữ tắt của bốn sắc tộc lớn lá Bahnar, dJArai,
Rhad1 và Kaho. Phong trao có mục đích chống lại chính quyền miền Nam.
Dĩ nhiên là chính
quyền Ngô Đình Diệm nhìn thấy nguy cơ của sự chống đối này. Và chính quyền đã
tìm nhiều giải pháp trong đó có giải pháp hành chánh và giáo dục, chọn lựa các
con em người Tây Nguyên gửi vào học tại các trường kỹ thuật và ngay cả đại học.
Tuy nhiên những
nổ lực ấy cũng không đem lại kết quả mong muốn và sang thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa
đã xảy ra các cuộc nổi dạy, bạo loạn.
Cụ thể nhất là
Mặt trận Thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức, viết tắt là FULRO. Có
nhiều tổ chức FULRO trong đó đặc biệt là FULRO Thượng.
Theo Po Dharma
trong cuốn sách, ông xác nhận Phong trào FULRO có thể chia ra nhiều giai đoạn:
Giai đọn thời 1953-1963- giai đoạn mở màn. Giai đoạn 1964-1969 : giai đoạn
hoàng kim và giai đoạn 1970-1975- giai đoạn tàn lụi.
Trong những năm
đầu thời Ngô Đình Diệm, Người dân Thượng đòi hỏi tái lập quy chế tự trị dành
cho họ trước đó và muốn coi Dak Lak như thủ đô của người Thượng.
Nhưng lý do chính
yếu về những phong trào nổi dậy là do nhóm FULRO Khmer, do đại tá Lès Kosem cầm
đầu và được hỗ trợ bởi Norodom Sihanouk.
Tuy nhiên các
phong trào FULRO này thất bại khi Sihanouk bị Lonol lật đổ và các phong trào
FULRO mỗi nhóm mỗi quan điểm đi đến chỗ chia rẽ và sâu xé nhau.
Du FLM au FULRO-
Une lutte des minorités du Sud Indochinois, 1955- 1975, Po Dharma (20)
Người dân Tây
Nguyên nổi loạn vì có bất công xảy đến cho họ. Do sự thương lượng giữa tướng
Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc, 500 Thượng FULRO đã chấp nhận buôn súng và quay trở
về chính phủ VNCH vào 23-8-1965.
Theo sự giải
thích thêm của Trần Sĩ Tín «Vào những năm 1973-1974, trong vùng đất của người
Jrai, chính quyền TT. Nguyễn Văn Thiệu đã phân chia đất đai thành «Những khu
vực sinh sống chính», theo đó những nơi mầu mỡ thì người Kinh chiếm hết, những
nơi sỏi đá cằn cỗi thì để cho người dân tộc. Chẳng hạn, từ huyện Chư Sê, ngược
lên Pleiklu, từ quốc lộ 14 sang đến biên giới Campuchia, bọn đầu nậu tư bản bắt
tay với giới cầm quyền chia chác những mảnh đất ngon, khiến người dân tộc bực
bội`.
Tôi đã nhìn vào
bản đồ để mường tượng ra nhửng mảnh đất Tây Nguyên đã bị người Kinh xâm chiếm
ra sao.
«Đất đai thì như
vậy, còn người thì chính quyền dồn dân từ các buôn làng vốn gắn bó với núi
rừng, về vùng ven Quốc lộ này sinh sống trong các khu dân cư được chỉ định. Về
đây, không đất đai canh tác, người dân Jarai bị bốc khỏi rừng vốn nuôi sống họ
và bây giờ ngửa tay lãnh trợ cấp, món trợ cấp ít ỏi sau khi đã bị các quan tham
cắt xén. Bị thiếu vốn và nhớ làng, các già làng nhất trí đấu tranh theo lời kêu
gọi của nhóm anh em trong sứ vụ Jarai. Các già làng này đã được anh em xóa mù
chữ, đồng thời là việc ý thức đuộc hoàn cảnh của họ »
Và nay thì nhóm
Trần Sĩ Tín chọn đứng về phía người dân tộc- chọn đứng về phía những người cùng
khổ-.
«Trong cuộc đấu
tranh này phải kể đến công của ông AmaPhu, khi đó đang làm trưởng chi sắc tộc,
nhưng ông đứng về phía đồng bào Jarai của ông. Chính ông tìm hiểu mọi vấn đề,
vào đến tận quận Phú Nhơn điều tra phẩm vật cứu trợ bị bóc xén ra sao, chính
ông làm đơn từ rồi nhờ cha Phán sửa chữa cho văn vẻ. Những lá đơn này được gửi
lên Tổng Thống, quốc hội theo lời kể của ông…
Sau đó thì nhóm
Trần Sĩ Tín đưa dân về làng :
«Rồi phải nhắc
tới sự hăng say can đảm của thầy Quân, lần này thày không bỏ chạy mà là người
đầu tiên nhảy lên xe dẫn bà con về lại làng cũ. Chiếc áo dòng trên xe tải đã
đem lại niềm tin yêu và hy vọng cho bà con dân tộc thấp cổ bé miệng ».
Trân Sĩ Tín,
Ibic, trang 59-60 (21)
Tây Nguyên sau
1975
Khi cộng sản
chiếm xong miền Nam
thì cả nước đều khốn khổ lao đao. Người dân Tây Nguyên vốn được coi là dân Mọi,
dân Thượng, dân Thiểu số.. Vậy thì làm sao tránh được kiếp nạn cộng sản?
Gần 100 dưới chế
độ thực dân Pháp, Tây Nguyên vẫn giữ được tình trạng tự trị- vẫn giữ được gần
như nguyên vẹn bản sắc.
Từ 1954 đến 1975,
mặc dầu có một số xáo trộn, nhưng cơ bản Tây Nguyên vẫn duy trì được nguyên trạng.
Sau 1975, nhà
nước đã quốc hữu hóa toàn bộ đất đai vùng Tây Nguyên. Đất đai và rừng bị nay
thuộc sỡ hữu toàn dân. Làng đương nhiên bị sụp dổ, tan vỡ.
Theo Nguyên Ngọc,
có một cuộc đại di dân từ đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng ven biển miền Trung lên
Tây Nguyên. Trước 75, tổng số dân là một triệu, nay là 5 triệu.
Chỉ tinh riêng
tỉnh Pleiku, trước thế chiến thứ hai, người dân thiểu số chiếm 93% tổng dân số.
Nay, số dân Jarai chỉ có 40.000 so với 200.000 người Kinh.
Trích bài: Viet Nam,
Jarai, les saccrifiés de l’or blanc, trong số 157, tập san Enfants du Mekong
magazine (22)
Sự phát triển
không đồng bộ, tỉ lệ nghèo đói cao nhất nước.
Toàn vùng phát
triển, nhưng chủ nhân truyền thống là người dân tộc tại chỗ thì ngày càng lâm
vào khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng- suy thoái mọi mặt cả tự nhiên và con
người.
Chẳng hạn diện
tích đất trồng cà phê chỉ có thể ở mức trên dưới 20.000 hectare, nay đã lên đến
con số 500.000 hecta.
Theo Mathieu
Guérin, giáo sư chuyên trách về người Jrai: Chỉ trong vài năm, việc trồng cà
phê ở cao nguyên đã đưa Việt Nam
lên hàng thứ nhì thế giới về xuất cảng cà phê. Còn trồng cây cao su, mỗi năm đã
đem về cho Việt Nam
750 triệu đô la.
Le café est
devenu l’or noir, l’hévéa, l’or blanc, et une immigration plus spontannée s’est
alors organisée.
Trích bài : Viet Nam,
Jarai, les saccrifiés de l’or blanc, Ibid (23)
Chương trình Bô
Xít Tây nguyên với tất cả tai hại trước mắt và lâu dài toàn diện từ môi trường
kinh tế, xã hội, va9n hóa đến an ninh quốc phòng.
Chỉ trong vòng 40
năm, Tây nguyên được coi là vùng được coi là khá nguyên vẹn đã trở thành một
vùng kiệt quệ nhất.
Theo Nguyên Ngọc,
Tây Nguyên đã bị vượt ngưỡng.
Nguyên Ngọc nhìn
Tây Nguyên trước hết là một thực thể văn hóa xã hội đặc trưng của cả nước. Ông
Kêu gọi phải cứu Tây Nguyên.
Hãy tạm gác đi
những tầm nhìn xa và chiến lược và những cảnh báo về nguy cơ suy tàn về Tây
Nguyên của một Nguyên Ngọc. Chỉ cần đọc những câu truyện kể về đời sống hằng
ngày trong Nước Mắt của rừng của Amai B’Lan cũng có thể nhận ra nỗi đau hủy
diệt Tây Nguyên trong đời sống từng ngày của người dân ở đây..
Ở Krông
Pa trồng nhiều thuốc lá.
Thuốc lá nơi đây
vừa dày, vừa to, được thương lái ưa chuộng hơn cả. Nhưng người Jrai không tận
dụng nguồn ưu tiên này được vì đòi đầu tư lớn. Một hecta thuốc lá chi phí có khin
lên tới trăm triệu. Người Jrai không có tiền làm. Biết thế, trước tết, người
Kinh nhanh chân thuê lại những khoảng đất trống bốn tháng để trồng thuốc lá.
Mỗi ký thuốc lá có giá khoảng 50 ngàn. Một hecta người ta có thể thu được từ
2-2,5 tấn . Người Kinh đã giàu lại càng giàu thêm. Còn người Jrai đã nghèo thì
ngay cả cái có trong tay cũng bị lấy đi »…
Thời của đêm đêm
bên bếp lửa, già làng kể akhan qua rồi. Bây giờ trong buôn không còn già làng
nữa. Nếu còn thì lại là già làng quốc doanh. Có một thực tế đáng buồn là nhiều
bạn trẻ Jrai sau khi học thành đạt thì ra vẻ kiêu căng ngạo mạn với anh em mình
và không muốn trở về giúp buôn làng nữa. Các bạn có lý của mình: ở làng không
có đất dụng võ.
Tôi chưa bao giờ
có cảm thức về sự lụi tàn của dân tộc tôi trong đất nước này, cũng như chưa khi
nào tôi mảy may nghĩ đến chuyện con cháu chúng tôi sẽ không biết tiếng Việt.
Đơn giản chỉ vì
người Kinh làm chủ đất nước này. Nhưng tôi nhận thấy rất rõ sự mỏng manh dễ vỡ
của dân tộc này và có lẽ của 52 dân tộc còn lại…
Không biết có
phải tôi đang bi quan quá sức hay không, nhưng tôi thật sự lo sợ cho sự sống
còn của dân tộc này. Dù rằng Giáo hội đã gánh lấy trọng trách đồng hành cùng
với họ, nhưng chính họ phải tự cứu lấy mình. Trách nhiệm thuộc về các bạn đó,
người trẻ Jrai ơi. Các cha dù có tài giỏi và nhiệt huyết đến đâu thì các cha
vẫn là người Kinh, các cha không có dòng máu Jrai, không có đủ sự đau khổ và
bất hạnh để giữ mãi dân tộc cá bạn trong tay đâu.
Biểu tượng Suy
thoái Tây Nguyên, theo Nguyên Ngọc là bây giờ là những hiện tượng chưa từng có
ở Tây Nguyên trước đây, như chợ lao động tại cây me đầu làng Plei Tơ Nghia,
Kontum, nơi những trai tráng Ba Na không còn đất canh tác ngồi vất vưởng suốt
ngày chờ bán sức lao động làm bất cứ công việc tạm bợ rẻ tiền nào cho các chủ
người Kinh..
Thay cho lời kết
luận, xin trích dẫn nhận xét của Mathieu Guérin cho rằng chúng ta đang chứng
kiền một cuộc thảm sát chủng tộc:
Ils sont tout
simplement condamnés .En conclusion, nous assistons ni plus, ni moins à la mise
en œuvre d’un ethnocide (24)
©Nguyễn Văn Lục
——–
1) Lá thư đầu
tiên của cha Combes gửi về Bề trên Thừa sai Ba Lê đề: Kon Kơsâm, ngày 29 tháng
9 năm 1853. Trích trong Dân Làng Hồ, Pierre Dourisboure, trang 206
2) Cuốn sách này
đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Rừng Người Thượng
3) Nguyễn Từ Chi
là con bác sĩ Nguyễn Kinh Chi. Năm 1933, bác sĩ Nguyễn Kinh Chi được điều lên
Kontum làm việc. Ông có người em trai là Nguyễn Đổng Chi. Ông đã viết thư cho
em trai nghỉ học một năm để lên Kontum khảo sát về người Mọi ở đây. Nhờ đó hai
anh em đã cho xuất bản cuốn: Người Ba-Na ở Kontum, cho xuất bản năm 1937.
4) L.M Pierre
Dourisboure, Les sauvages Bahnars, trang 7-8, Paris 1929
5) Amai B’Lan,
Nước mắt của rừng, trang 35.
6) 35 Sứ vụ
Jarai, Dòng Chúa Cứ Thế.. 80-83
7) Montagnards du
Viet Nam,
Francoise Demeure
8) Thư của Giám
mục Kim, Paul Seitz, Vicariat Apostolique de Kon Tum, P.M.S Viet Nam. Kontum
ngảy 14 tháng ba 1953, gửi bề trên Dòng Chúa cứu Thế. Trích trong 35 năm Sứ vụ
Jarai, Dòng Chúa Cứu Thế-VN, 10. 1969- 10-2004
9) 35 năm sứ vụ
Jarai, trang 80
10) Ghi chú
11) Hạt giống
Kito6 trong đa761t Jjrai, Giuse Trần Sĩ Tín
12) Trần Sĩ Tín,
Hạt giống Kitô trong đất Jrai, Bản truyền thông Giáo phận Kôn Tum
13) 35 năm Sứ Vụ
Gia Rai..trang 90-92
14) Trần Sĩ Tín
Ibid, trang 33
15) Trần Sĩ Tín,
35 năm sứ vụ Jarai, trang 60-64.
16) Trần Sĩ Tín,
Ibid, trang 95
17) Trích dẫn
trong Récit de Chasse en Indochine, René de Buretel de Chassey-haut plateaux de
L’Annnam, Ban Mê Thuột, 29.4. 1929 đến 10.8.1931
18) Indochina, Pierre Brocheux, Daniel Hémery, trang 124-126
19) Trong diễn
văn của Tổng Thống Pháp Quốc gởi Hoàng Đế Việt Nam có đoạn ghi như sau :Đối với
các dân tộc không thuộc về giống người Việt Nam, mà khu vực cư trú lịch sử vẫn
vẫn ở trên lãnh thổ Việt Nam và theo truyền thống vẫn quy thuận Hoàng triều,
thì Hoàng Đế Việt Nam sẽ ban bố những quy chế riêng cho các dân tộc đó . Trích
trong Tân Văn, số 11, 2008, trang 26
20) Du FLM au
FULRO- Une lutte des minorités du Sud Indochinois, 1955- 1975, Po Dharma
21) Trân Sĩ Tín,
Ibic, trang 59-60
22) Trích bài : Viet Nam,
Jarai, les saccrifiés de l’or blanc, trong số 157, tập san Enfants du Mekong
magazine
23) Trích bài : Viet Nam,
Jarai, les saccrifiés de l’or blanc, Ibid
24) Xem chi tiêt
bài biên khảo của Nguyễn Van Huy, Nhìn lại phong trào Bajaraka
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét