Nguyễn Duy Chính
Chính
sử Việt Nam cũng như của Trung Hoa khi chép về trận đánh mùa Xuân năm
Kỷ Dậu (1789) thường chỉ miêu tả như một cuộc giao binh thuần tuý giữa
hai quân đội nhà Thanh và Đại Việt, nhấn mạnh vào tài cầm quân, ưu và
khuyết điểm của hai bên. Dù yêu hay ghét nhà Tây Sơn, sử cũng chỉ nhấn
mạnh đến khía cạnh chính qui của quân đội – nhiều chỗ huyền thoại hoá,
khen phò mã tốt áo, phóng đại kết quả mà quên đi sự phức tạp của thời
đại trên cả chính trị, kinh tế, kỹ thuật lẫn hoàn cảnh xã hội.
Những chi tiết cụ thể của chiến thắng này đã được khá nhiều tác giả Việt Nam miêu tả với đầy đủ chi tiết, lên đến hàng ngàn bài viết và biên khảo, hàng chục cuốn sách dày. Ở đây chúng tôi chỉ muốn đưa ra một góc cạnh xưa nay ít sử gia đề cập. Đó là vai trò của thành phần thương nhân trên mặt biển, đời sống gắn liền với đại dương nhưng trong nhiều thế kỷ bị loại ra khỏi thành phần xã hội. Vô hình chung họ biến thành những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, gió chiều nào che chiều ấy, nghiêng ngả tuỳ theo cách đối xử của nhà cầm quyền, có khi là kẻ thù chung của mọi triều đình từ Nhật Bản xuống đến Đông Nam Á, có khi được nuôi dưỡng để trở thành một chính quyền nho nhỏ như họ Trịnh ở Đài Loan thời Minh mạt Thanh sơ, hoặc được tập hợp để trở thành một cánh quân đắc lực như thời Tây Sơn vào cuối thế kỷ thứ 18.
Vai trò của họ không những góp phần khá nhiều vào những biến chuyển chính trị tại Việt Nam mà còn quan trọng trong chiến thắng đánh bại quân Thanh, trở thành một chỗ dựa đáng kể để Nguyễn Huệ tính toán những bước ngoại giao sau trận đánh và nếu như ông không mất sớm, rất có thể Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc trên biển cả vào đầu thế kỷ thứ 19.
Những chi tiết cụ thể của chiến thắng này đã được khá nhiều tác giả Việt Nam miêu tả với đầy đủ chi tiết, lên đến hàng ngàn bài viết và biên khảo, hàng chục cuốn sách dày. Ở đây chúng tôi chỉ muốn đưa ra một góc cạnh xưa nay ít sử gia đề cập. Đó là vai trò của thành phần thương nhân trên mặt biển, đời sống gắn liền với đại dương nhưng trong nhiều thế kỷ bị loại ra khỏi thành phần xã hội. Vô hình chung họ biến thành những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, gió chiều nào che chiều ấy, nghiêng ngả tuỳ theo cách đối xử của nhà cầm quyền, có khi là kẻ thù chung của mọi triều đình từ Nhật Bản xuống đến Đông Nam Á, có khi được nuôi dưỡng để trở thành một chính quyền nho nhỏ như họ Trịnh ở Đài Loan thời Minh mạt Thanh sơ, hoặc được tập hợp để trở thành một cánh quân đắc lực như thời Tây Sơn vào cuối thế kỷ thứ 18.
Vai trò của họ không những góp phần khá nhiều vào những biến chuyển chính trị tại Việt Nam mà còn quan trọng trong chiến thắng đánh bại quân Thanh, trở thành một chỗ dựa đáng kể để Nguyễn Huệ tính toán những bước ngoại giao sau trận đánh và nếu như ông không mất sớm, rất có thể Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc trên biển cả vào đầu thế kỷ thứ 19.
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CUỐI THẾ KỶ 18
Nhu
cầu trao đổi của thế giới gia tăng khiến con người cần có những tàu
thuyền lớn để vượt qua những vùng biển đầy sóng to gió cả, nổi tiếng là
nguy hiểm ở châu Phi và châu Á. Nhiều dân tộc biết đóng những tàu lớn có
thể ra khơi nhưng vẫn phải dựa vào sức chèo tay, rất khó giữ được cho
đúng hướng trên mặt biển.
Người
Trung Hoa cũng đóng nhiều thuyền lớn nhưng vẫn chạy bằng buồm nên phải
men theo bờ biển, không dám ra xa ngoài khơi. Tuy dưới đời Minh có những
chuyến viễn du nhưng chỉ đến những quốc gia mà họ đã biết, không phải
là những chuyến hải hành tìm ra những vùng đất lạ. Thuyền của họ cũng
cồng kềnh, thuận tiện cho việc chở hàng nhưng thiếu ưu điểm dùng trong
chiến đấu. Đến thế kỷ thứ 15, người Bồ Đào Nha (Portuguese) nghĩ ra một
cách đóng thuyền mới (caravel), nhỏ và nhẹ, buồm hình tam giác, dễ điều
khiển rồi sau đó cải tiến đóng được những thuyền to hơn (nao) mở đầu cho
một kỷ nguyên hàng hải mà cách vận hành giữ mãi cho tới khi người ta
chế tạo ra thuyền chạy bằng hơi nước.[1]
Tuy
nhiên viễn dương cũng đặt ra một vấn đề khác quan trọng hơn là việc tự
vệ vì thuyền ra khơi phải đối phó thường xuyên với cướp bóc và các con
tàu thù nghịch khác. Thời trung cổ, việc giao chiến chính yếu là tiến
sát nhau rồi tràn sang tàu đối phương cận chiến sáp lá cà bằng gươm
giáo. Đến thế kỷ 16 thì người ta đã mang súng theo nhưng chỉ là loại
nhỏ, có thể gây sát thương cho thủy thủ nhưng không đủ sức đánh chìm
thuyền. Hải chiến chỉ trở nên quan trọng khi các quốc gia Âu Châu đúc
được súng bắn đạn tròn (có trái nặng tới 27 kg) có thể đánh đắm thuyền
địch từ xạ Thời kỳ này các nước Á Châu vẫn không cải tiến kỹ thuật (mặc
dầu Trung Hoa, Đại Việt… đã chế tạo ra súng thần công đặt trên thuyền từ
thế kỷ 13, 14) nên trở thành kém thế so với tàu chiến của Âu châu. Các
loại súng lớn khi đó phải neo chặt xuống sàn tàu cho khỏi bị phản ứng
giật ngược khi tác xạ, muốn đổi hướng bắn phải thay đổi hướng đi của cả
con tàu, rất bất tiện khi ở gần nhau.
Đến
cuối thế kỷ thứ 18, châu Âu có những chuyển động mãnh liệt về kỹ thuật
và trở thành sức mạnh ưu thắng trên toàn thế giới. Từ phát triển nọ kéo
theo những thay đổi kia, phát triển kinh tế đã biến nhiều quốc gia nhỏ
bé thành những con cọp dữ. Cơ giới hóa trở nên một nhu cầu bắt buộc vì
cơ khí làm gia tăng năng suất, gia tăng năng suất đòi hỏi mở rộng thị
trường và nguyên liệu. Trước đây nhiều quốc gia đã có những phát kiến và
kỹ thuật tinh xảo như đồng hồ, máy in, máy xay nước, la bàn, thuốc
súng, giấy… nhưng vẫn chỉ là máy móc rời rạc mà chưa phải là một “bộ
máy” (machines but not the machine) cũng như người ta có đủ mọi cơ phận
nhưng chưa ráp lại để thành một cái xe. Cuộc cách mạng kỹ thuật
(industrial revolution) chính là cuộc cách mạng để nối kết những sáng
tạo trong quá khứ thành một chuỗi và tìm cách bổ xung những mắt xích còn
khiếm khuyết.
Tiến
bộ trong sản xuất khiến buôn bán, trao đổi và tìm thị trường gia tăng
đưa đến nhu cầu cải tổ quân sự. Hơn hai ngàn năm trước, khi ở Trung Hoa
nhà Tần biết tổ chức binh lính thành đội ngũ nên đã thôn tính được những
tiểu quốc khác, thống nhất đất nước thì người Âu Châu cũng có những
thành quả tương tự ở thời cận kim. Cuộc cách mạng quân sự kéo dài từ thế
kỷ thứ 16 sang đến cuối thế kỷ 18 cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Á Châu
và tạo thành một chấn động cho khu vực Đông Nam Á vào đầu thế kỷ 19.
NGUYỄN HUỆ THU DỤNG HẢI PHỈ NHƯ THẾ NÀO?
Một
trong những chi tiết trước đây chưa được đánh giá đúng mức. Đó là việc
Nguyễn Huệ sử dụng cướp biển như một lực lượng chủ yếu trong quân đội
của ông. Gần đây, sau khi chính quyền Đài Loan cho phép nghiên cứu một
số tài liệu còn lưu trữ trong văn khố trước nay dấu kín thì một số học
giả ngoại quốc mới tìm ra những tài liệu xác thực về việc Nguyễn Huệ thu
dụng những tên “vong mạng” này không phải chỉ để quấy phá miền nam nước
Tàu nhằm tạo khó khăn cho nhà Thanh mà thực sự ông đã biến họ thành một
đội thủy binh, có tổ chức và hệ thống dọc cũng như ngang, được phân bố
lãnh hải hoạt động một cách minh bạch. Điều đó cho thấy Nguyễn Huệ không
bị ràng buộc trong nhãn quan chỉ dùng người Việt hay người địa phương
ông quen thuộc mà muốn tổ chức một lực lượng qui mô hơn, gồm nhiều thành
phần, nhiều sắc tộc, rất gần với cái bản chất khai phóng của xứ Đàng
Trong.
Thành
phần dân chúng sống liên quan trực tiếp đến biển cả vốn dĩ bị bỏ quên
trong một thời gian dài của lịch sử. Đây là những người làm nghề chài
lưới, có khi sống hẳn trên thuyền như một loại nhà nổi, có khi sống dọc
theo duyên hải nhưng sinh nhai chính là đánh cá và sản xuất những sản
vật trực tiếp từ biển khơi như muối, rong biển, hải sản… Họ sống rất
thầm lặng và không được liệt kê vào bốn thành phần căn bản của xã hội sĩ
nông công thương (tứ dân) mà chỉ được coi như những sinh vật dưới con
người, trên cầm thú một tí. Trên thực tế, vì ngày đêm chỉ sống quây quần
với đồng bọn, gia đình trên một xã hội nhỏ bé, sinh hoạt chủ yếu của họ
rất đơn sơ, tiếng nói cũng hạn chế, phần lớn chỉ là những từ cụ thể,
tiếng gọi, tiếng chửi, hoàn toàn chưa đạt tới mức độ gọi là văn hóa. Rất
hiếm ai biết chữ và vì thế họ cũng khó tiến thân ngoài việc tiếp tục
theo đuổi nghề nghiệp của ông cha và qua lại giữa hai sinh hoạt, đánh cá
và ăn cướp.
Trong
nhiều thời kỳ, mỗi khi động binh, thuyền bè tài sản của họ bị trưng
dụng hay tịch thu để xung vào lực lượng triều đình, cả người lẫn vật và
thường không được đền bù gì cả. Nếu sử sách chép rằng quân ta đem 1000
chiến thuyền thì có nghĩa là một phần lớn là phương tiện của ngư dân bị
xung vào quân đội trong một nhiệm vụ đoản kỳ. Chính vì thế, xã hội phong
kiến thời xưa vô hình chung đẩy một số lớn dân chúng vào đường chống
đối. Cái nhìn hoàn toàn thay đổi của Nguyễn Huệ với những người dân chài
này đã tạo cho ông một chỗ đứng đặc biệt và cũng là câu trả lời tại sao
trong quân đội của ông có rất nhiều Đô Đốc, Đề Đốc, một chức vụ vốn dĩ
là một cấp chỉ huy thủy binh, và những nhân vật nhiều công trạng này
không bao giờ có một tiểu sử rõ rệt, lắm khi chỉ có tên mà không có họ,
xuất hiện một cách bất ngờ rồi không còn thấy trong những biến cố khác.
Đối
với ngư dân, chiếc thuyền vừa là một nơi cư ngụ, lại vừa là nơi làm
việc và cũng là toàn bộ tài sản của họ. Có thể nói đó chính là thế giới
riêng, và vì thế nảy sinh ra một tình cảm phục tòng tuyệt đối người
thuyền trưởng (và cũng là gia trưởng). Người chủ thuyền phải luôn luôn
làm gương cho những người khác, hi sinh và phải chứng tỏ là mình trội
hơn những người chung quanh để tiếp tục giữ quyền chỉ huy. Chính tập
quán tự nhiên đó hình thành một sức mạnh tập thể gắn bó, sống chết với
nhau trong nghề nghiệp cũng như trong chiến đấu, chỉ tuân phục những
người có cùng một cá tính như họ và cũng là điều tại sao họ đi theo
Nguyễn Huệ mà dần dần bỏ rơi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Khi thủy quân được
chính qui hóa trong triều đại Cảnh Thịnh, sự tinh nhuệ của họ cũng giảm
đi khiến cho chiến thuyền của nhà Tây Sơn không đương cự nổi với Nguyễn
Ánh khi kỹ thuật của đối phương được nâng cấp và cơ chế được tổ chức,
chỉ huy theo lối mới của Tây Phương.
Để
sử dụng được lực lượng hải khấu vốn dĩ hoành hành đã nhiều thế kỷ dọc
từ Nhật Bản xuống tới Indonesia, chúng ta phải tìm hiểu qua 2 vấn đề
chính: kỹ thuật đóng tàu của Đàng Trong và quá trình hoạt động của bọn
cướp biển.
A/ KỸ THUẬT ĐÓNG THUYỀN CỦA ĐÀNG TRONG
Khi
người Việt còn định cư tại miền Bắc, kỹ thuật đi biển của ta chưa có gì
khởi sắc mặc dù đã nói đến biển cả từ những truyền kỳ thời Hùng Vương.
Hai trận đại thắng của Ngô Quyền và của Trần Quốc Tuấn đều xảy ra trên
sông, nơi giáp giới với biển chứ không phải ở ngoài khơi. Mãi tới đời
nhà Hồ, con trưởng của Hồ Quí Ly là Hồ Nguyên Trừng mới bắt đầu đóng
những chiến thuyền loại lớn. Với thói quen sống biệt lập thành từng làng
xã nhỏ, sinh hoạt kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị của dân miền Bắc
thu hẹp trong một không gian nhỏ. Mỗi làng là một đơn vị tự túc về mọi
mặt mà không cần phải giao tiếp với khu vực khác. Cho tới gần đây, mỗi
xã đều có sinh hoạt, tổ chức hành chánh riêng, ràng buộc với nhau bằng
hương ước, bằng phong tục, tập quán lưu truyền hàng nghìn năm trước.
Ngay cả ngôn ngữ mỗi làng cũng có nhưng phương âm, thổ ngữ dị biệt,
nhiều khi ở kế cận mà mỗi vùng một giọng nói khác nhau. Đặc tính đó có
một số ưu điểm về sinh hoạt và bảo tồn nhưng cũng khiến cho kinh tế, văn
hoá… bị đông cứng, khó giao lưu, thay đổi hay phát triển.
Trái
lại các vương quốc ở Đàng Trong đã có những quá khứ rất oai hùng liên
quan đến mặt biển, một phần vì truyền thống học hỏi của các nước ở vùng
Đông Nam và Nam Á, phần khác vị trí địa lý là bao lơn trông ra đại
dương, nơi qua lại của một hải lộ đã nổi danh là Con Đường Gia Vị (Spice
Route) ngay từ thời thượng cổ.
Về
kỹ thuật, người Chiêm Thành đã biết dùng thuyền nhẹ dàn thành thế trận
tấn công những tàu buôn từ lâu. Người Chăm có một đội hải thuyền hùng
hậu và những thủy thủ can trường thường liều mạng xông xáo trên biển cả
để buôn bán và chiến đấu. Kiểu mẫu tàu chiến của người Chăm có hình dáng
tương tự như của thuyền vùng Nam Dương mà hiện nay chúng ta còn thấy
dấu vết để lại nơi các thuyền trạm trổ mỹ thuật của người Thái Lan trong
những cuộc đua thuyền. Theo những hình ảnh mà người Âu Châu vẽ lại về
chiến thuyền của Đàng Trong, đó là một loại thuyền chèo tay, mũi ngẩng
cao, trạm trổ và trang trí hoa văn kỳ dị, thân thon và dài đủ biết có
thể lướt sóng với tốc độ cao[2]. Để gia tăng sức chịu đựng khi đụng vào
nhau, mũi thuyền dùng trong chiến đấu thường ghép thêm những thanh gỗ
chéo vẫn còn thấy ở các thuyền nơi cửa sông vùng Quảng Đông.
John
Barrow trong tác phẩm Một Chuyến Du Hành đến Đàng Trong (A Voyage to
Cochinchina) xuất bản tại London năm 1806 đã ghi chép về chuyến đi của
phái đoàn Anh đến Đà Nẵng năm 1792-3 với những chi tiết mắt thấy tai
nghe của họ như sau:
“…
Ngành nghệ thuật độc đáo của người Đàng Trong có thể coi là tuyệt vời
vào thời buổi hôm nay là kỹ thuật đóng tàu mà không tuỳ thuộc chút nào
vào phẩm chất và tầm cỡ của loại gỗ dùng trong mục tiêu đó. Những chiếc
thuyền chèo tay để đi chơi quả là khéo léo. Những con tàu đó, dài từ 50
đến 80 feet (15 đến 24 mét), lắm khi chỉ độc có năm mảnh ván ghép lại,
mỗi thanh dài suốt từ đầu nọ đến đầu kia, cạnh ghép bằng mộng, gắn khít
khao chặt chợm bằng chốt gỗ, buộc với nhau bằng lạt tre chứ không cần
phải có sườn hay khung gỗ nào khác. Mũi và đuôi thuyền ngỏng lên khá
cao, chạm khắc thành những thuỷ quái hình rồng, thuồng luồng, trang tri
bằng sơn hay thếp vàng…[3]”
Những
chiến thuyền đó không chở được nhiều nhưng hiệu quả khi tấn công bất
ngờ những thương thuyền hay tàu lớn trong đêm tối, chiến thuật quen
thuộc với người Chiêm Thành từ lâu mà Nguyễn Huệ thường sử dụng. Những
thuyền buôn và thuyền đánh cá thông dụng ở miền Nam nước ta cũng có nét
hao hao giống kiểu thuyền đó, nhẹ gọn và dễ di chuyển. Tuy không có
những tài liệu nào miêu tả chính xác các kiểu thuyền của Tây Sơn, chúng
ta có thể tin rằng chiến thuyền vào thế kỷ 18 ở Đàng Trong có nhiều nét
tương tự, khác nhau họa chăng là số lượng, chiến thuật hay cách điều
động mà thôi.
Do
ảnh hưởng của văn minh hải đảo Malaysian, thủy thủ vùng Đông Nam Á nói
chung và thủy thủy người Chiêm Thành nói riêng có thể ra khỏi bờ bể hàng
ngàn dặm chẳng cần hải bàn hay hải đồ, chỉ dựa theo màu sắc của những
đám mây, màu nước biển và độ sóng, giương buồm nương theo sức gió và
nhìn sao để lấy hướng. Chỉ cần tìm hiểu các loài chim biển và rong biển
họ gặp, người Chăm có thể nhận biết những hòn đảo còn cách xa đến 30 dặm
và kiến thức về biển cả được truyền miệng từ đời này sang đời khác theo
kiểu cha truyền con nối[4]. Phương thức và kỹ thuật đóng thuyền của họ
cũng rất độc đáo và người Việt chúng ta đã kế thừa khá nhiều truyền
thống của họ. Những con số chúng ta còn ghi nhận được cho thấy tốc độ
đóng thuyền rất đáng kể cho thấy vào thời kỳ này miền Nam Việt Nam có
những phát triển kỹ thuật đáng kể mà nhiều điều đến nay vẫn chưa khám
phá hết.[5]
Những
thuyền đó khác hẳn những thuyền buôn hay tàu chiến của người Trung Hoa
(junks), trông nặng nề, thô kệch, tuy trang bị nhiều đại pháo hơn nhưng
thiếu linh động, khó xoay trở. Cũng như người Chiêm Thành, Nguyễn Huệ
rất chú trọng đến chiến thuyền và cũng có hai loại: thuyền lớn để chở
quân, lương thực, vật liệu và tàu nhỏ nhẹ và linh động đùng để bao vây,
tấn công và xung kích. Đội chiến thuyền đó rất đông, ít ra cũng vài
trăm, có khi lên hàng ngàn. Đó cũng là lý do tại sao thủy quân thời Tây
Sơn có một vị trí đáng kể, phù hợp với những gì sử sách đã cho ta biết,
Nguyễn Huệ luôn luôn dùng binh thần tốc, bất ngờ, áp đảo và tiến đánh
cũng như rút lui rất nhanh.
B/ CƯỚP BIỂN TẠI BIỂN ĐÔNG
- 1/ Sinh hoạt
Nạn
cướp biển xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới nhưng nhiều nhất vẫn là vùng
nhiệt đới nơi có nhiều quần đảo, nơi họ có thể nương náu mỗi khi gặp
khó khăn và cũng là nơi tu bổ tàu bè, chuẩn bị lương thực. Họ lại có thể
phục kích để rình đánh cướp những tàu buôn đi ngang qua hay những ngư
dân rơi vào khu vực họ hùng cứ. Cướp biển phần lớn đã từng là thủy thủ
hay dân chài và xoay sang nghề ăn cướp vì nhiều lý do, tham lam cũng có,
thích phiêu lưu, tự do cũng có mà vì cơ hội cũng có. Họ thường chỉ là
những nhóm nhỏ kết hợp với nhau để đi ăn cướp và cũng ít khi dám công
khai đụng độ với quan quân. Cũng có khi họ là những ngư dân làm thêm
nghề tay trái một khi có điều kiện. Khi nghiên cứu về chiến tranh dấy
loạn người ta thấy rằng trong nhiều trường hợp, nổi dậy là con đường
sống duy nhất của một số người bị đẩy vào đường cùng vì đã từng phạm
pháp, có liên quan đến một tội nhân hay có khi bị ép buộc phải nhúng tay
vào máu để không thể thối lui được nữa.
Trước
đây triều đình Trung Hoa ít khi để ý đến – hay ít ra cũng có kế hoạch
để giải quyết – mà thường để cho họ tự tàn sát lẫn nhau hay bị giết
trong khi giao chiến với các thương nhân. Ngay từ đời Hán, nhân dịp nước
Tàu có nội chiến và loạn sứ quân thì cướp biển đã nổi lên thật đông dọc
theo bờ biển. Thế nhưng chỉ từ thế kỷ 16 trở đi, khi các thương thuyền
từ những đại lục khác đến buôn bán, nạn hải phỉ mới phát triển mãnh
liệt. Tới thế kỷ 17, 18 trong khi nạn cướp biển gốc người Nhật bớt đi
(oải khấu) thì vùng biển Đông nước ta lại trở nên nhộn nhịp, một phần vì
10 Trung Hoa loạn lạc mất mùa, phần khác vào thời này các thương thuyền
Âu Châu qua buôn bán đông nên sinh hoạt mặt biển cũng gia tăng với nhịp
độ thương mại. Trong khi ở Nam Thái Bình Dương, hải phỉ thường chỉ là
thổ dân các hòn đảo xông ra đánh cướp các tàu buôn đi ngang, cướp ở biển
Đông là những nhóm có tổ chức và có khi lớn mạnh đến mức trở thành cả
một triều đình nho nhỏ như Trịnh Thành Công, một thủ lãnh cướp biển Tàu
lai Nhật vẫn được biết dưới cái tên Quốc Tính Gia, mà phạm vi hoạt động
lan rộng tới tận vùng biển Philippines, dưới quyền có lúc lên đến hàng
chục vạn quân và hàng ngàn chiến thuyền.
Sang
thế kỷ thứ 17, cướp biển hoành hành dọc theo bờ biển nước ta nhất là
trong giai đoạn nhiễu nhương khi quân Trịnh tiến vào Nam tiêu diệt họ
Nguyễn. Nhiều tác giả cũng đề cập đến một lực lượng hải phỉ mà họ đặt
tên là “Vietnamese piracy” (cướp biển Việt Nam) chuyên môn cướp phá miền
duyên hải nước Tàu, nhiều lần chạm trán với quân Thanh và đã bị bão
đánh tan hồi năm 1800 ở bờ biển Chiết Giang.[6] Thành phần cướp biển đó
có thể coi như một hiện tượng tự nhiên trong những sinh hoạt của biển
cả. Vào thế kỷ thứ 17, trong giai đoạn nhà Thanh mới lên cầm quyền,
ngoài nhóm Trịnh Thành Công ở Đài Loan chống với nhà Thanh như một lực
lượng phản Thanh phục Minh, ở miền nam nước Tàu cũng bị hải phỉ từ vùng
biển Việt Nam kéo sang quấy phá. Chính Ngao Bái (Oboi) khi đó là một
trong bốn phụ chính đại thần của vua Khang Hi cũng đã gửi thư sang trách
Đại Việt năm 1666 đã dung túng và có thể cả tiếp tế cho họ:
“…
Cho nên hôm nay ta phải hạ chiếu này để quốc vương tuân theo. Hãy lập
tức truy lùng bọn Dương Nhị, Dương Tam, Hoàng Minh Tiêu và gia đình
chúng cùng tên Tẩy Bưu và vợ con đem giao lại cho tổng đốc Lưỡng Quảng.
Ngoài ra, nhà ngươi cũng phải điều tra và trừng trị những kẻ nào đã phạm
tội giúp đỡ kẻ thù. Nếu nhà ngươi không giao bọn cướp biển ra, cũng như
không trừng trị bọn thần tử thì ta e rằng sẽ xảy ra chuyện can qua giữa
hai nước.”
Không
biết thời đó chúa Trịnh có giao nạp cướp biển như nhà Thanh đòi hỏi
không nhưng về sau tình hình không có gì rắc rối nữa.[7] Nạn giặc biển
trong nhiều thế kỷ không thể chỉ được nhìn như một bọn cướp lang thang
vô định mà thực tế đã chứng minh rằng họ là một thực lực trải dài từ
Nhật Bản xuống tới tận eo biển Malacca. Xét quá trình tồn tại của họ từ
thế kỷ thứ 15 chúng ta thấy rằng nếu có được chỗ dung thân, giặc bể xuất
phát và bành trướng thành một lực lượng đáng kể. Theo những tài liệu
còn ghi lại, quân Thanh ở cuối thế kỷ 18 trở về sau đã hoàn toàn mất đi
tính tinh nhuệ của thời kỳ đầu. Như trên đã tường thuật, nhà Thanh nay
đã trở thành một triều đình mục nát, tướng lãnh không còn khả năng chiến
đấu mà chỉ là những con cháu vương hầu thế tập chức vụ của cha ông, còn
quân đội thì chỉ là những người lính sống bằng mức lương chết đói, một
nghề mạt hạng trong những nghề của xã hội.
Một
số đông quân lính phải kiếm ăn thêm bằng cách bán cả súng ống, đạn
dược, thuốc nổ… và tin tức để lấy tiền. Tình hình mặt biển còn tệ hại
hơn. Gần như toàn bộ vùng biển Nam Trung Hoa – tức biển đông của ta – là
nơi hải phỉ[8] hùng cứ, quan quân ít khi dám tiễu trừ. Các tỉnh duyên
hải là sào huyệt và cũng là nơi các tổ chức bất hợp pháp hoạt động.
Riêng Quảng Đông và Phúc Kiến lại càng thích hợp cho thương nhân và hải
khấu vì núi non, sông ngòi khiến khu vực này cách biệt hẳn với nội địa.
Hơn một phần ba dân số sống dọc theo bờ bể là dân chài và thương nhân,
công nhân, nông dân tại địa phương cũng tùy thuộc vào biển cả. Riêng ở
Giang Bình (cực nam của Quảng Đông, cận kề với các thương cảng như Hạ
Môn, Quảng Đông… giáp ranh với Việt Nam) là một bến cảnh tấp nập, đông
người vào ra buôn bán nhưng phần nhiều ngoài sự kiểm soát của triều
đình. Dọc từ vịnh Bắc Việt lên đến Phúc Kiến bờ biển lồi lõm lại có thêm
nhiều bến cảng và hai đảo lớn Đài Loan và Hải Nam là sào huyệt chính
yếu của hải phỉ và những nhóm phản Thanh. Khu vực này nghiễm nhiên trở
thành một vị trí trung tâm thương mại để tỏa ra khắp nơi, lên miền bắc
đến Mãn Châu, Nhật Bản, xuống phương nam đến Nam Dương (các hải đảo Nam
Á) bao gồm cả Philippines, Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Campuchia,
Java, Xiêm La… Dân chúng sống thành những làng nổi, được gọi dưới cái
tên khinh miệt là thủy thượng nhân (水上人). Họ là thành phần sống bằng
nghề chài lưới hay buôn bán rong nhưng gặp dịp sẽ trở thành ăn cướp. Cả
khu vực rộng lớn đó dưới đời Thanh sống ngoài vòng pháp luật mà quan
quân nhà Thanh nhắm mắt làm ngơ không mấy khi dám đụng tới. Lực lượng
hải quân và duyên phòng của họ là con số không, ngoại trừ một vài pháo
đài canh giữ mặt biển cho có lệ vì không hữu hiệu gì, tàu bè không có
nên khi cần điều động viễn chinh thì lúc đó mới tính chuyện xây dựng.
- 2/ Các loại thuyền
Cứ theo nghiên cứu của Dian H. Murray, có tám loại thuyền khác nhau mà cướp biển ở Đông Hải thường sử dụng:
– Tề nguy thuyền (齊桅船), có các cột buồm cao bằng nhau
–
Đại điếu tào thuyền (大釣艚船), là loại thuyền chuyên chở (cargo junk) có
móc lớn. Đây là những thuyền buôn chở hàng hóa ra vào các cửa biển như
Hương Cảng chẳng hạn.[9]
–
Bạch tào thuyền, ô tào thuyền (白艚船﹐烏艚船)là các thuyền lớn sơn trắng hoặc
sơn đen. Những thuyền này đóng theo kiểu Phúc Kiến, đóng như kiểu tàu
chiến, trông giống như một cái máng uống nước của ngựa nên gọi là “tào”.
Thuyền có sơn hai con mắt ở đầu để cho cá kình trông thấy tưởng là đồng
bọn mà không tấn công. Thuyền đen thường dùng để chở muối và thực phẩm
trong khi thuyền trắng để đi đánh cá và chở hàng.
– Song nguy thuyền (雙桅船) , là thuyền có hai cột buồm.
– Liệu thuyền (料船), là thuyền nhỏ chở hàng hóa ở địa phương.
–
Lao tăng thuyền (橯繒船), là loại thuyền nhỏ và thon như hình mũi tên, dài
từ 40×12 đến 80×21 feet, có hai cột nhưng không dùng buồm.
–
Khoái thuyền (快船), thường có hai cột buồm thường dùng để đánh cá và để
đi buôn. Thuyền này có nhiều buồm và ra khơi rất tiện lợi.
–
Đại khai ba thuyền (大開波船), là thuyền đi biển loại lớn có thể chở được
tới 350 tấn, có khi tới 1000 tấn. Thuyền này có thể lướt sóng rất nhanh,
chứa từ 30 đến 50 người nên còn được gọi là khai lãng thuyền (開浪船-
open-the-waves junks) hay thực thủy thuyền (食水船- eat-water junks).
Ngoài
tám loại thuyền đó, Robert J Anthony cũng đề cập đến một loại thuyền
nhỏ hơn có tên là bá lạt hổ (叭喇嗁). Bá lạt hổ chính là phiên âm của chữ
perahu tiếng Mã Lai là loại thuyền Đàng Trong vẫn dùng để chiến đấu,
dùng cả buồm lẫn chèo tay, di động rất nhanh và thao tác rất tiện. Loại
thuyền này nông lòng nên có thể tiến sát bờ bể và di tản nhanh khi bị
tấn công. Ở các bến bãi miền Nam hiện nay chúng ta vẫn còn thấy sử dụng
loại thuyền này rất nhiều, vừa có thể đi trên sông, vừa có thể đi trên
biển. Những thuyền lớn có thể mang tới 12 súng đại bác (nhiều súng do
phương Tây chế tạo) và một thủy thủ đoàn tới 200 người trang bị bằng
gươm, đao, giáo mác và súng trường. Những thuyền của hải phỉ trang bị
bao giờ cũng hơn xa các tàu tuần của triều đình Mãn Thanh nên chẳng coi
quan quân vào đâu cả.[10]
Ngoài
những thuyền bè mà hải phỉ vẫn thường sử dụng để đánh cướp theo truyền
thống (lắm khi chỉ là tàu buôn được sửa sang lại thành tàu ăn cướp), nhà
Tây Sơn lại cung cấp cho họ những chiến thuyền thực sự, nghĩa là những
thuyền bè vốn dĩ được dùng vào mục tiêu chiến đấu. Với những chiến
thuyền loại đó, hải phỉ đã trở thành một đạo quân chính thức được trả
lương để làm nhiệm vụ chiến đấu. Những chiến thuyền triều đình Việt Nam
giao cho họ sử dụng là loại thuyền “cột buồm cao hơn 80 feet và hai bên
hông được bọc bằng nhiều lớp da bò, chăng lưới, vừa to hơn, vừa chắc
chắn hơn những thuyền mà cướp biển tự kiếm được. (Họ được trang bị cả)
đại bác nặng đến 4000 cân (catty, độ chừng 600 gr) và cũng được trang bị
súng ống đầy đủ hơn”.[11]
- 3/ Thu phục cướp biển
Trong
nhiều thế kỷ tuy nạn cướp biển có hoành hành nhưng cũng không trở thành
một lực lượng đáng kể vì thiếu một căn cứ địa để trốn tránh khi bị săn
đuổi. Thế nhưng đến cuối thế kỷ thứ 18, Nguyễn Huệ đã nhìn ra được tiềm
năng và vai trò của họ nên đã thu dụng và trở thành một vị thủ lãnh tập
hợp được nhiều nhóm khác nhau, phân chia mỗi nhóm một lãnh bàn hoạt
động, chỉ đạo các chiến dịch và cho họ nơi trú ẩn. Robert J. Antony đã
nhận ra rằng ở cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, cướp biển ở biển đông đã
tập họp thành một vài nhóm, có đến hàng ngàn chiến thuyền, tổng cộng đến
hơn 7 vạn người.[12]
“…
Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và
Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ được gọi là Đại Ca Việt Nam, là người bán những
đồ họ cướp được và chia cho họ từ 20 đến 40% số tiền. Những bọn cướp
lớn cũng được Hoàng đế che chở vì họ không những được phép neo thuyền
tại vùng biên giới (Trung Hoa và Đại Việt) để tuyển quân và trộm lương
thực mà còn có thể dùng Việt Nam như một “sào huyệt” để rút về. Bọn hải
khấu đó coi nhà vua như chủ nhân của họ vì dưới thẩm quyền của ông họ có
thể thu hoạch nhiều nguồn lợi từ biển cả.[13]
Theo
Ngụy Nguyên[14] thì nhà Tây Sơn không những chỉ dung túng cho đám hải
khấu mà còn giúp đỡ những giáo phái như Bạch Liên Giáo và Thiên Địa Hội
lúc đó đang nổi dậy trong nhiều vùng tại Trung Nguyên từ Hồ Bắc đến Hồ
Nam, Tứ Xuyên, Quảng Đông kéo dài trong nhiều năm.[15] Có lẽ những điều
Ngụy Nguyên viết không có chứng cứ rõ rệt vì giai đoạn này nhà Tây Sơn
đang phải tập trung sức lực đối phó với Nguyễn Ánh ở miền nam đánh lên
không thể nào còn đủ uy thế để hỗ trợ những lực lượng nằm sâu trong lãnh
thổ Trung Hoa, hoặc nếu có thì là những hoạt động ngầm của vua Quang
Trung khi còn sống với dụng ý cầm chân triều đình Mãn Thanh, mặt khác
lại cũng là một hình thức kinh tài để giúp ông chuẩn bị những phương án
chiến lược mới.
Sau
khi mua chuộc và chiêu dụ được một số thủ lãnh của đám hải phỉ, vua
Quang Trung sử dụng họ như một cánh kỳ binh tinh nhuệ tấn kích bất ngờ
khiến quân Thanh trở tay không kịp. Việc Nguyễn Huệ sử dụng cướp biển để
sang quấy phá miền nam Trung Hoa đã được đề cập đến trong sử triều
Thanh cũng như triều Nguyễn. Theo Ngụy Nguyên trong Thánh Vũ Ký (phần
Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký), viết vào năm Đạo Quang thứ 22 (1842) có đề
cập đến như sau:
“Nước
nhà từ đời Khang Hi thứ 22 (1683), đánh Đài Loan, dẹp họ Trịnh, rồi năm
thứ 24 (1685) mở rộng tuần phòng trên bể thì vùng Mân, Việt, Chiết,
Ngô, trên vạn dặm bể trời, kình nghê không bóng sóng. Đến đầu đời Gia
Khánh (1796), mới có cướp thuyền (Đĩnh đạo) quấy rối. Cướp thuyền này
bắt đầu từ khi cha con Nguyễn Quang Bình ở An Nam cướp nước, rồi quân
mỏi của hết, bèn mời tui vong mạng dọc bể, cấp cho binh thuyền, nhử bằng
quan tước, sau cướp các thuyền buôn ở bể gần để biện lương thực. Mùa hè
tới, mùa thu về, tung tích không lường, làm họa lớn cho đất Quảng Đông.
Sau
lại có bọn cướp đất ở bang Phượng-vĩ, bang Thủy-áo cũng phụ vào. Chúng
bèn vào sâu trong vùng Mân, Chiết. Cướp đất dựa vào thuyền rợ (An Nam)
làm thanh thế, thuyền rợ cậy cướp đất làm hướng đạo. Trên vài ngàn dặm
trên mặt bể ba tỉnh, nếu ta lên bắc thì chúng xuống nam, nếu ta xuống
nam thì chúng lên bắc. Nếu ta chống với thuyền, thì tụi cướp đất tung ra
cướp; nếu ta đương đầu với cướp đất thì thuyền tới cứu. Vả chăng thuyền
rợ cao, to, nhiều súng; có gặp cũng chưa chắc được chúng. Cướp đất giảo
quyệt lại có nội ứng; mỗi lúc tạm trốn rồi quay nhóm lại. Mà bấy giờ
tụi giáo-phỉ ở Xuyên Thiểm vừa dấy. Triều đình vừa chú ý đến tây chinh,
chưa rảnh để tính việc hòn đảo. Cho nên thế giặc càng ác liệt.[16]
Cuối
thế kỷ 18, ba nhóm dương đạo hùng cứ biển đông của Trịnh Nhất (鄭一), Ô
Thạch Nhị (烏石二) và Trương Bảo (張保) đã trở thành một lực lượng thuỷ quân
xung kích và cũng đồng thời là lá chắn cho Nguyễn Huệ khiến cho thương
nhân ngoại quốc phải gờm không dám đóng vai đòn sóc hai đầu, vừa buôn
bán với nhà Tây Sơn, vừa giao thương với lực lượng đối nghịch của
họ.[17]
Thế
nhưng việc sử dụng thành phần hải phỉ không phải chỉ đơn giản như thế.
Đây là một chương trình có tính toán, một canh bạc cháy túi nếu đi sai.
Lúc đầu ông thu dụng bọn họ như một lực lượng vây cánh nhưng ngay cả khi
đã lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục tin dùng và phát triển
thêm lên. Nếu nói đây là bụng dạ đàn anh của ông cũng được mà bảo rằng
là chủ đích của ông thì cũng không sai. Robert J. Antony đã nhận xét:
“Ngay
cả sau khi vua Càn Long đã phong vương cho một trong những lãnh tụ Tây
Sơn năm 1788 (đúng ra phải là 1789 – NDC), ông này vẫn theo đuổi một
chính sách chơi dao hai lưỡi, một mặt vẫn gửi đồ tiến cống sang Thanh
triều ở Bắc Kinh, mặt khác vẫn đồng thời yểm trợ cho những vụ cướp phá
của hải tặc dọc theo bờ biển Trung Quốc.”[18]
Những
tên cướp đó không những có nơi trú ẩn an toàn khi bị săn đuổi mà còn
được cung cấp vũ khí, tiền bạc để nuôi sống gia đình, lại còn được phong
tước. Cho tới khi nhà Tây Sơn bị lật đổ, những bọn cướp biển đó được
dành riêng một khu vực gần biên giới Việt – Hoa gọi là Giang Bình
(Jiangping)[19] coi như sào huyệt của họ. Trong số những tên cướp biển
kiệt hiệt phải kể đến Mạc Quan Phù (莫官扶- Mo Guanfu), Trịnh Thất (鄭七 –
Zheng Qi), Vương Quí Lợi (王貴利- Wang Guili) và Ô Thạch Nhị (烏石二- Wushi
Er). Bốn người này được lệnh của triều đình Tây Sơn qui tụ những nhóm lẻ
tẻ lại lập thành những toán quân lớn. Mạc Quan Phù và Trịnh Thất đã
từng tham dự nhiều trận đánh chống lại Nguyễn Ánh và năm 1796 Mạc được
vua Cảnh Thịnh phong chức Đông Hải Vương. Trịnh Thất thì có dưới tay hơn
200 chiến thuyền, là lực lượng ngoài biển lớn nhất thời ấy và được
thăng tới chức Đại Tư Mã (tương đương Thượng Thư bộ Binh). Vương Quí
Lợi, có vợ Việt Nam, bỏ y phục người Hoa ăn mặc theo lối Việt và còn lưu
lạc mãi tới năm 1810 (8 năm sau khi nhà Tây Sơn bị diệt vong) được
phong chức Định Hải đại tướng quân.
Xem
lại biểu đồ mà nhà Tây Sơn tổ chức lực lượng hải phỉ ta còn nhận ra
nhiều nhóm theo tên gọi chẳng hạn như Phượng Vĩ, Tiểu Miêu… hoặc có khi
chia thành nhiều màu cờ như Thanh Kỳ, Hồng Kỳ, Hoàng Kỳ, Hắc Kỳ, Lục
Kỳ[20] mỗi nhóm có một vùng hoạt động, những thủ lãnh được phân bố chặt
chẽ. Sau khi nhà Tây Sơn bị lật đổ, những nhóm đó đã tự động tập hợp lại
để ký với nhau một thỏa hiệp xác định lại một số qui luật để không rơi
vào tình trạng chém giết lẫn nhau. Nếu như vua Quang Trung không mất
sớm, tổ chức hải quân của ông chắc chắn sẽ mau chóng trở thành lực lượng
đường biển mạnh nhất thời bấy giờ không những đủ sức làm lệch cán cân
Việt – Thanh mà còn đủ sức ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa thực
dân vào đầu thế kỷ thứ 19.
THỦY QUÂN CỦA TÂY SƠN
Có
thể nói ngay từ ban đầu anh em Nguyễn Nhạc đã đặc biệt chú trọng đến
vai trò của thủy quân, một phần cũng vì bản chất của dân địa phương sống
liền với bể cả, một phần vì vào thế kỷ thứ 18 việc phát triển đường
biển đang lên đến cao độ.
Vấn
đề thủy quân trở thành một yếu tố quan trọng từ khi người ta phát minh
ra thuốc nổ và biết áp dụng để sử dụng như một ưu điểm về vũ khí. Chưa
có súng thần công, đại bác, thuyền bè phần lớn chỉ dùng như một phương
tiện di chuyển cũng chẳng khác gì con ngựa của dân du mục, không thể nào
làm nên chuyện lớn nếu không có cánh cung đi kèm. Do đó, muốn tìm hiểu
về vai trò của thủy quân, chúng ta lại phải nhìn qua tiến bộ của vũ khí
trang bị khiến cho tàu chiến trở thành một lực lượng chủ yếu. Chiến
thuyền vừa là một phương tiện di chuyển, vừa là phương tiện tấn công lại
cũng là một cái nhà nổi mà sinh mạng của thủy thủy gắn liền với con
tàu. Chính vì thế, việc bảo vệ con thuyền, sống chết với nó đã thành một
truyền thống của hải quân.
Theo
những di chỉ tìm thấy được, người Mông Cổ có lẽ là dân tộc đầu tiên
biết phối hợp súng thần công (phát minh vào khoảng thế kỷ thứ 10) trang
bị vào tàu chiến để đưa quân đi đánh Nhật Bản, Đại Việt và nhiều quốc
gia khác trong vùng Đông Nam Á mặc dầu người ta biết rằng ngay từ thế kỷ
thứ 8 người Trung Hoa đã nghĩ ra cách chiến đấu bằng hải thuyền từ đằng
xa (thay vì cận chiến) dùng các loại súng bắn đá (trebucket).
Thế
nhưng phải tới đời Minh, người Trung Hoa mới có các loại thuyền trang
bị đại pháo khi bắt được một số kỹ thuật gia của Đại Việt đem về nước vì
chính Hồ Nguyên Trừng (con trưởng Hồ Quí Ly) là người đã cải cách hải
quân, xây dựng những chiến thuyền hai tầng trang bị súng thần công để
bảo vệ mặt biển.[21] Từ sáng kiến của Hồ Nguyên Trừng, Minh Thành Tổ đã
cho đóng những chiến hạm lớn và sai Trịnh Hòa thực hiện những cuộc viễn
dụ Những soái hạm thời đó đều được trang bị 50 hỏa khí đủ loại, 1000
viên đạn. Trong cuộc đụng độ giữa quân triều đình và người Bồ Đào Nha
(Portuguese) vào năm 1522 họ đã đánh bại và bắt giữ nhiều quân địch.[22]
Tuy nhiên vào thời kỳ đó việc sử dụng súng lớn trên thuyền còn nhiều
phức tạp, cồng kềnh và thiếu tiêu chuẩn nên không hữu hiệu bao nhiêu.
Trong việc tiễu trừ hải khấu, họ vẫn phải dùng phương pháp cổ điển với
gươm giáo.
Ở
phương Tây, hỏa khí tuy cũng đã được dùng trên các chiến thuyền từ thế
kỷ 14 nhưng cũng chỉ là loại súng tay, súng lớn chưa dùng được. Vả lại,
thời kỳ đó người ta vẫn phải dùng nhân công chèo bên hông thuyền và tấn
công bằng mũi, có để súng cũng không biết bắn ra sao. Súng đại bác khi
đó chỉ có thể để trên sàn thuyền và được đặt theo một vị trí nhất định
nên chỉ có thể dùng để công phá thuyền địch hay thành lũy gần bờ biển và
cho đến khi được cải tiến để có thể bắn ra ở những góc độ khác nhau thì
mới có thể đạt được những công năng mới.
Đến
thế kỷ thứ 18, khi có những tiến bộ kỹ thuật đưa đến những phát kiến
mới trên mặt biển, quốc gia nào có lực lượng hải quân mạnh được coi như
làm chúa mặt biển và cũng trở thành cường quốc trên bộ. Công tước xứ
Choiseul, thủ tướng Pháp vào thập niên 1760 đã nói:
–
Trong tình trạng hiện tại của Âu Châu, thuộc địa và thương mại và nhất
là hải quân sẽ quyết định việc cân bằng lực lượng trên đất liền.[23]
Tuy
nhiên, lực lượng trên biển thời kỳ đó chỉ giới hạn vào việc di chuyển
binh đội và tiếp liệu vì tầu bè ở thời đại giương buồm (the age of sail)
chủ yếu là chuyên chở mà không phải là một lực lượng tấn công, chưa chú
trọng đến việc họa kiểu để cho sử dụng súng ống hay các cánh buồm được
hữu hiệu. Trên phương diện chiến đấu, tàu bè lớn khó xoay trở, không vào
được những vùng nước nông, nếu không có những thuyền nhỏ hộ tống và bảo
vệ thì khó lòng đương cự được với lối đánh của hải khấu, dùng thuyền
chèo tay vây quanh lúc tối trời, lẳng lặng tiến tới gần tấn công bằng
các loại thuốc nổ, đánh gãy cột buồm hay phá vỡ be thuyền rồi xông vào
tàn sát. Chính vì thế mà Nguyễn Huệ không sợ những lực lượng tiếp viện
của Nguyễn Ánh từ Âu Châu và đã từng tuyên bố:
“…
Các ngươi chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn người Tây
Dương. Tài giỏi gì hạng người đó? Mắt chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ
là những xác chết trôi từ biển Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như
thế. Những tàu bằng đồng, những khinh khí cầu của chúng thì có gì là kỳ
lạ…”[24]
Cũng
theo những tài liệu còn để lại, lực lượng thủy quân của nhà Tây Sơn cho
tới những năm sau cùng trước khi bị Nguyễn Ánh đánh bại vẫn còn rất
đáng kể. Sau khi nhà Tây Sơn bị diệt, một phần của thủy binh Tây Sơn
hoặc chạy trốn tới các quốc gia chung quanh, hoặc quay sang (hay trở
lại) làm cướp biển và vẫn còn làm cho triều đình Mãn Thanh cũng như
triều đình Việt Nam điêu đứng một thời gian dài. Theo Chaigneau, một sĩ
quan hải quân của Pháp được Giám Mục Bá Đa Lộc tuyển mộ để giúp Nguyễn
Ánh thì:
“…
Trước khi thấy được thủy quân địch, tôi đã coi thường lực lượng này
nhưng nay tôi đoan chắc với ông rằng đó là lầm lạc, quân Tây Sơn đã có
những chiến hạm trang bị 50 và 60 đại bác.”[25]
Chúng
ta không biết rõ những chiến thuyền đó đóng theo kiểu nào, hay mua được
ở đâu nhưng vào thời đó trang bị 50, 60 súng đại bác được kể là những
tàu chiến thuộc loại lớn trên thế giới. Lẽ dĩ nhiên một chiến hạm còn
nhiều yếu tố khác như trang bị cơ giới, thủy thủ và nhất là loại súng
đại bác đó là loại gì, tầm cỡ ra sao… nhưng một sĩ quan được kể là bậc
nhất của chúa Nguyễn đã nhận xét như thế hẳn không phải là một lời nói
ngoa.
Cũng
theo Barixzy thuật lại về hạm đội do Vũ Văn Dũng chỉ huy thì lực lượng
của ông ta bao gồm 673 chiến thuyền lớn nhỏ, trong số đó có những tàu
trang bị đại bác với một thủy thủ đoàn đông hơn những chiến hạm lớn nhất
kiểu Tây phương mà quân Nguyễn có. Lực lượng Tây Sơn có đến 9 chiến hạm
lớn (vaisseaux), trang bị 60 khẩu đại bác nặng 24 cân Anh (livres) và
thủy thủ đoàn 700 người, 5 chiến hạm trang bị 50 đại bác nặng 24 cân
Anh, thủy thủ đoàn 600 người và 40 chiếc trang bị 16 đại bác nặng 12 cân
Anh và thủy thủ đoàn 200 người.
Như
vậy chỉ tính 54 chiến thuyền cỡ lớn này người ta đã thấy lực lượng lên
tới 17,300 quân và 1430 đại bác. Về thuyền cỡ trung và cỡ nhỏ, cũng theo
các giáo sĩ Tây Phương thì Vũ Văn Dũng có dưới tay 93 chiếc trung bình
trang bị 1 đại bác 36 cân Anh và 150 thủy thủ, 300 xuồng (chaloupes
canonnieres) mỗi chiếc 50 thủy thủ và 100 chiếc ghe mỗi chiếc 70 thủy
thủ. Tất cả tổng cộng 35,950 người và 17,300 quân trên các thuyền lớn
cho thấy dưới quyền Vũ Văn Dũng chỉ huy lên đến 53,250 người.[26]
Chính
vì thủy quân Tây Sơn quá hùng mạnh nên chúa Nguyễn Ánh cũng phải chạy
đua trên mặt đóng tàu. Nguyễn Ánh cũng đặt mua một số tàu Tây phương,
tháo ra rồi bắt chước đóng theo kiểu của họ, mỗi chiếc trang bị từ 26
đến 36 đại bác cùng hơn 300 thủy thủ. Tuy nhiên những tàu lớn thời này
là lực lượng mà nhà Tây Sơn xây dựng sau khi vua Quang Trung đã lên ngôi
nghĩa là theo lối tổ chức quân đội chính quị Bên cạnh đó ông còn chỉ
huy một lực lượng lưu động bán chính thức là các nhóm hải phỉ trên khắp
vùng Đông Nam Á lên đến hàng ngàn chiến thuyền và hàng vạn người dùng
trong nhiều nhiệm vụ phi quân sự, kể cả buôn lậu, dò thám, trao đổi hàng
hóa… khiến cho thực lực của ông có thể còn hơn những gì người ta biết
rất nhiều. Những lực lượng bán chính thức đó trải rộng khắp mọi nơi và
cũng là chỗ dựa để Nguyễn Huệ dự tính một chương trình bành trướng qui
mô hơn. Chính vì đối phương không biết rõ các nhóm liên kết của ông ra
sao nên thường đánh giá nhầm biến ông thành một nhân vật thần kỳ và càng
khiến cho người ta tô vẽ những điều không có thực.
VAI TRÒ CỦA HẢI PHỈ TRONG TRẬN ĐÁNH KỶ DẬU
A/ TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT
Khi
đại quân của Tôn Sĩ Nghị kéo sang nước ta, khí thế hung hãn khiến cho
một số tướng lãnh của Tây Sơn kinh hoảng. Phan Khải Đức, một tướng miền
Bắc mới qui thuận đang giữ Lạng Sơn vội vàng ra hàng, Phan Văn Diễm gom
quân chạy về. Đại Tư Mã Ngô Văn Sở thống lãnh binh mã ở ngoài Bắc thấy
thế giặc quá mạnh, một mặt cho các toán quân chận đánh cầm chân quân
Thanh, một mặt ra lệnh cho trấn thủ các nơi trở về Bắc thành (Thăng
Long) chuẩn bị tàu bè xuôi nam. Nội hầu Phan Văn Lân đem quân lên ngăn
giặc, đánh một trận rất khốc liệt tại sông Thị cầu. Địch quân có sự tiếp
tay của đám thổ mục vẫn còn trung thành với nhà Lê nên quân ta bị đánh
tập hậu, phải rút lui.[27]
Theo
bộ lịch sử tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô gia văn phái,
Ngô Văn Sở theo kế của Ngô Thì Nhậm lui binh về đóng ở Tam Điệp và cho
người phi báo Nguyễn Huệ lúc ấy đang ở Phú Xuân. Tuy nhiên, cuốn tiểu
thuyết dã sử này đã quá đề cao sĩ phu Bắc Hà và cố gắng đặt cho họ một
vai trò quan trọng trong chiến thắng Kỷ dậu. Thực tình mà nói, Nguyễn
Huệ cũng như các đại tướng của ông không bao giờ chủ quan tới mức chỉ
ngồi chờ đợi động tĩnh mà luôn luôn có những thám tử nghe ngóng để nắm
vững tình hình bạn và địch. Vào thời điểm này, Nguyễn Huệ ở trong tư thế
một con hổ rình mồi, một bên là quân Thanh nghe theo lời cầu cứu của
nhà Lê sang xâm chiếm miền Bắc, một mặt Nguyễn Ánh đang gom góp lực
lượng, với sự giúp sức của Xiêm La và một số nước Tây Phương lăm le
chiếm lại Đàng Trong. Đó là chưa kể kẻ thù gần gũi nhất – và cũng nguy
hiểm nhất – có thể lại chính là Nguyễn Nhạc (vua Thái Đức) đang đóng ở
Qui Nhơn nhân cơ hội Phú Xuân bỏ trống mà đem quân chiếm lấy Thuận
Hóa[28]. Trong tình hình khẩn trương như thế, vấn đề của Nguyễn Huệ
không phải là chờ địch đến mà là phải tập trung sức lực vồ con mồi nào
trước vì không thể phân thân ra đánh cả hai nơi.
Đi
vào cụ thể, dẫu sao Nguyễn Ánh cũng ít nguy hiểm hơn vì còn phải vượt
qua vương quốc của Nguyễn Nhạc trước khi chạm mặt với ông. Còn như nếu
để mất miền Bắc, Nguyễn Huệ sẽ có thể bị lâm vào thế hai mặt giáp công,
lưỡng đầu thọ địch rất nguy hiểm. Ông cũng mất luôn cả một hậu phương to
lớn và khu vực Phú Xuân – Quảng Nam chật hẹp kia sẽ bị cô lập. Chính vì
thế, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị đánh một trận chớp nhoáng đúng theo sở
trường của mình, dùng uy thế vũ khí và nhân lực để chiếm thượng phong
ngay từ phút đầu.
Việc
ông ra lệnh cho Ngô Văn Sở rút quân về Ninh Bình chặn yết hầu vào Nam
nằm trong một kế hoạch đã được tính toán từ trước, mặc dù trên danh
nghĩa, rất có thể ông tạo cơ hội cho giới nho sĩ Bắc Hà có dịp bày tỏ ý
kiến để lập công đóng góp vào chiến dịch ngõ hầu gắn bó hơn với quân Nam
và chấp nhận quay lưng triệt để với nhà Lê ở miền Bắc.
Dầu
sao chăng nữa, sau khi thu tóm mọi nhân tài vật lực của miền Bắc rồi
rút về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã bỏ ngỏ một trận địa lớn cho quân Thanh bơ
vơ, chịu đựng những cơn mưa dầm và thời tiết lạnh lẽo của mùa đông ở
miền Bắc. Ông đã khiến Tôn Sĩ Nghị trải mỏng quân thành những mục tiêu
cố định để sắp xếp kế hoạch tấn công. Kế hoạch tạo điều kiện để quân
địch đóng quân tập trung thành một khu vực “ lòng chảo” là một chiến
thuật mà nhiều quân sự gia Đông cũng như Tây, kim cũng như cổ thường áp
dụng để đánh một trận quyết liệt. Đó cũng là một mặt trận Nguyễn Huệ bày
sẵn, trút trách nhiệm trị an cho đối phương.
Dù
muốn dù không, Lê Chiêu Thống và đám bày tôi của ông cũng phải đóng vai
trò chủ nước đối với dân chúng và chủ nhà đối với quân Thanh.
Nhiệm
vụ đó Nguyễn Huệ cũng biết trước rằng không thể nào thực hiện được
trong một thời gian ngắn ngủi và chỉ tạo thêm mâu thuẫn giữa đối phương
với quần chúng. Tình hình những ngày giáp Tết năm Kỷ Dậu không phải
“rượu nồng dê béo” như chúng ta thường tưởng tượng mà là 25 những ngày
mùa đông tháng giá, lương thực hiếm hoi nơi đất lạ quê người. Đây không
phải chỉ là “ngủ nhờ một đêm” mà chính là tự co cụm thành những điểm tập
kết dễ dàng bị tiêu diệt.
Chính
vì ở trong tình trạng hoang mang không chủ định, vua tôi nhà Lê chẳng
biết xoay trở thế nào, chịu cái thế tiến không xong, lùi không được,
đành chấp nhận lời nói cứng của họ Tôn là “quân giặc ốm, chính chúng ta
đang nuôi cho chúng mập béo để chúng tự đến nạp thịt vậy”. Quân Thanh
trong một tháng ở Thăng Long không phải là nghỉ ngơi dưỡng uy súc nhuệ
để chuẩn bị ra quân mà tình hình càng lúc càng thêm khó khăn, phải đối
phó với nhiều vấn đề quân sự cũng như tiếp liệu. Thời tiết buốt giá và
ẩm ướt của đất Bắc cũng là một đồng minh đáng kể mà Nguyễn Huệ khai thác
để tiêu hao tinh thần của đoàn quân viễn chinh.
Còn
về dân chúng Bắc Hà trong mấy năm liền bị thiên tai, hạn hán nay lại bị
một cổ ba bốn tròng khiến dân chúng lầm than không sao kể xiết. Nhiều
tài liệu của nước ta cũng như nước ngoài đã đề cập đến tình trạng mùa
màng thất bát và dân chúng đói khổ của miền Bắc. Việt Nam phong sử đã
viết:
“Nhân
dân ở vùng Bắc và vùng Nam đều phải phiêu lưu tan tác. Không có cơm,
phải luộc cỏ mà ăn, không có nhà ở, phải lộ thiên mà nằm. Người nào có
thóc lại không có muối…”[29]
Ngoài ra, dân thành thị còn bị bọn người Hoa sinh sống ở Việt Nam lâu năm nay cậy thế Bắc quân nhũng nhiễu, chèn ép:
“Ở
những nơi như Hà Khẩu phường trong thành Thăng Long, phố cơ sá bên Kinh
Bắc và phố Hiến (Hưng Yên) thuộc trấn Sơn Nam, hàng vạn Thanh kiều đã
sống lâu năm bên ta, am hiểu phong tục, nói thạo tiếng Nam, nay bỗng cậy
thần ỷ thế Tôn Sĩ Nghị, giở ngay thủ đoạn nhờ gió bẻ măng: họ hoặc đến
phụ theo quân đồn, hoặc lập riêng cái điếm “Liễu để” công nhiên cướp
của, hiếp gái ở giữa chợ, ngoài đường, không còn kiêng nể e dè gì
cả!…”[30]
Chính
những yếu tố tiêu cực mới đã khiến cho người dân tuy chưa chịu ân huệ
gì của nhà Tây Sơn, có thể đôi phần còn quyến luyến tiền triều, đến nay
đã trông ngóng một đoàn quân cùng nòi giống với mình tiến ra đánh đuổi
quân thù, lấy lại giang sơn. Nhà Lê tự họ đã chấm dứt mệnh trời, không
cần ai phải giành ngôi vị chúa tể miền Bắc. Đó cũng là một yếu tố tâm lý
quan trọng mở đầu cho cuộc hành quân Bắc phạt.
Riêng
về hải quân, bên cạnh lực lượng bản bộ của Đàng Trong, ông củng cố lại
thành phần hải phỉ được thu dụng, chia cho mỗi nhóm một hải bàn hoạt
động, phân thành từng màu cờ, ban chức tước cho những đầu mục khiến họ
vẫn tiếp tục trung thành ngay cả sau khi ông đã chết. Thành phần này
cũng là thành phần chủ lực theo đường sông đánh vào mặt sau quân Thanh
đóng một vai trò quan trọng trong chiến dịch năm Kỷ Dậu.[31]
Sử dụng những toán giặc bể có những điểm lợi sau đây:
–
Họ quen thuộc với lối đánh của quân Thanh vì phần lớn đã từng hoạt động
dọc theo duyên hải Nam Trung Hoa, nhiều lần đụng độ với quan quân nên
nắm vững thực lực và trang bị của quân triều đình,
–
Một số đông đã giao chiến với quân Thanh trong chiến dịch Đài Loan
(1788), mà sau đó chính thành phần này được đưa về Quảng Châu để sang
đánh nước ta. Đây là dịp mà họ phục thù cái nhục bại trận mấy tháng
trước.
–
Những toán giặc bể mới về đầu nhập dưới trướng Nguyễn Huệ đang muốn có
dịp lập công với tân chủ tướng nên đây là một cơ hội bằng vàng để chứng
tỏ khả năng của mình.
–
Nguyễn Huệ dùng ngay người Trung Hoa để chống lại người Mãn Thanh, vừa
giảm thiểu được sự tổn thất của quân Nam, vừa tạo tiếng vang với những
thành phần đang mưu tính chuyện lật đổ nhà Thanh, nhất là một số giáo
phái vùng Hoa Nam.
B/ HẢI PHỈ ĐƯỢC ĐIỀU ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?
Trận
chiến năm Kỷ Dậu vẫn còn nhiều điểm chưa được giải thích thoả đáng,
phần lớn vì các sử gia Việt Nam bị trói buộc vào một số định đề có sẵn
khiến cho những khúc mắc không sao cởi được. Người ta vẫn khẳng định là
khi nghe tin quân Thanh kéo sang, Nguyễn Huệ được tin cấp báo về Phú
Xuân, ngay hôm sau lập tức lên ngôi hoàng đế rồi đùng đùng kéo quân ra
Bắc, tới Nghệ An trong 4 ngày, hạ trại hiểu dụ tướng sĩ, tuyển thêm quân
Thanh Nghệ bảy tám vạn người rồi cho quân ăn Tết trước, sau đó kéo
thẳng ra bắc dùng 10 vạn quân đánh bại 20 vạn quân Thanh trong chớp
nhoáng. Theo như sách vở, chiến dịch đó là một chuỗi hành quân hoàn hảo
đến mức không thể tưởng tượng được, mọi việc đều suông sẻ mà một tướng
lãnh tài ba nào cũng không dám mơ tưởng đến vì chỉ một sơ xuất nhỏ cũng
khiến cho mọi dự tính tan ra mây khói khiến người ta phải nghi ngờ về
những chi tiết và giá trị của tài liệụ. Những chi tiết của trận đánh này
chúng tôi viết trong một biên khảo khác nên ở đây chỉ tóm lược một vài ý
chính.
Cuộc
giao binh Thanh – Việt đã được dự tính từ lâu, là một mặt trận tính
toán trước theo đúng sở trường của Nguyễn Huệ. Đó là để cho địch đóng
quân đâu đó, theo tình hình cụ thể ông mới điều đại binh tấn công bằng
một trận quyết tử theo lối “nhất định thắng bằng mọi giá”.
Để
nhấn mạnh vào chiến tranh chống xâm lược, các sử gia Việt Nam vô tình
hay cố ý không đề cập đến vai trò của nhiều cánh quân theo một nghĩa nào
đó không phải là người Việt, chẳng hạn như các toán quân người Thượng
thông thạo đường rừng, thường dùng voi đi lẩn theo sơn đạo, và các
thuyền chiến do hải phỉ chỉ huy hoạt động ngang dọc trên mặt biển mà
chúng ta thường cho rằng là người Tàu. Hai cánh quân này đã tạo ra sự
bất ngờ vì quân Thanh bị tấn công từ ngang hông và tập hậu nên không kịp
phòng bị, các kho lương thực, kho đạn, thuốc súng, quân nhu… bị thiêu
hủy tạo nên sự kinh hoàng dây chuyền làm cho Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy.
Ngoài
ra, một trong những lý do khiến quân Thanh bị thất thế chính là vì họ
chỉ chuẩn bị đối phó với bộ binh, tượng binh, kỵ binh mà không quan tâm
đến thủy binh. Mùa đông ở miền Bắc nước ta là tháng mưa dầm gió bấc, gió
từ phương bắc thổi xuống, không thuận tiện cho thuyền bè từ phương nam
dùng buồm tiến lên. Chính vì thế họ không đề phòng thủy quân của nhà Tây
Sơn tấn kích mà chỉ tập trung vào phòng thủ những trục lộ giao thông
đường bộ. Vả lại, đường từ Thanh Nghệ tiến ra phải qua nhiều nơi hiểm
yếu, giữ dễ, đánh khó nên quân Thanh tin rằng quân Nam không thể một sớm
một chiều vượt qua được. Từ những lý do chủ quan cũng như khách quan,
Tôn Sĩ Nghị phải chùng chình để chờ đợi thêm vài tháng nữa, chuẩn bị
lương thảo để tính kế hoạch xuất quân. Cánh quân của hải phỉ trái lại
vốn dĩ tập trung sẵn ở các vùng biên giới và vịnh Bắc Việt[32], là sào
huyệt lâu nay của họ, lại thêm tàn quân từ Đài Loan mới bị quân Thanh
đánh bại kéo về, nay được dịp tối trời theo các đường sông tiến vào đánh
tập hậu quân Thanh trả thù.[33]
Cuộc
tấn công chớp nhoáng và bất ngờ khiến cho địch trở tay không kịp và
những cánh quân đó mãi mãi là những toán biệt kích vô danh. Chính vì thế
theo sử sách trong đại quân của vua Quang Trung nhiều tướng lãnh chỉ
huy chỉ có tên mà không có họ (đô đốc Long, đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, đô
đốc Mưu, đô đốc Tuyết…). Họ vốn dĩ là những thổ hào vùng núi hay hải phỉ
được phong những chức tước rất kêu nhưng lại hoàn toàn biến mất khi vua
Quang Trung thành lập bộ máy chính quyền. Ngay cả những danh tướng của
ông mà chúng ta hằng nghe danh (Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Bùi Thị
Xuân, Ngô Văn Sở…) cũng không thấy đóng vai trò nào quan trọng trong
chiến thắng lẫy lừng này khiến chúng ta có cảm tưởng rằng chỉ một mình
Nguyễn Huệ chỉ huy toàn bộ đạo tiền quân, hậu quân, trung quân tiến dọc
theo một trục lộ từ Tam Điệp đến Gián Khẩu, Thanh Liêm, Nhật Tảo, Phú
Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi rồi tiến vào Thăng Long.
Một
chi tiết chúng ta cũng cần chú ý là trong chiến dịch đại phá quân
Thanh, quân Nam dùng rất nhiều các loại hỏa khí, hỏa dược để tấn công
cũng như để đốt phá. Đó cũng là thói quen của hải phỉ thường dùng để
thiêu hủy tàu địch được áp dụng trên đất liền. Ngay từ nhiều thế kỷ
trước, những đám hải khấu đã biết dùng một loại bom làm bằng bình đất
nung, miệng hẹp trong chứa thuốc súng và miểng, ném ra như một loại lựu
đạn chế tạo giản dị. Loại bom này gần đây đã được tìm thấy nơi biển Đài
Loan do quân của Trịnh Thành Công sử dụng khi tấn công quân Hòa Lan.[34]
Dian Murray cũng đề cập đến việc hải phỉ dùng những loại miểng vụn của
nồi sắt hay đinh, có khi còn dùng tiền đồng hay các loại bình chứa. Họ
cũng hay đánh hỏa công bằng thuyền chất đầy đồ dẫn hỏa xông thẳng vào
địch hoặc ném những loại pháo bằng ống tre để đánh gãy cột buồm.
Một
loại võ khí đặc biệt khác cũng có tác dụng tương tự mà đám giặc biển
cũng thường dùng là những bình đất nung chức thuốc súng trộn rượu mạnh.
Diêm sinh được chứa vào nắp bình, treo sẵn, khi xáp trận sẽ ném lên sàn
tàu địch, bình sẽ vỡ và bén lửa.[35] Ngoài ra chúng ta không thể không
nhắc đến một loại hỏa tiễn hình đầu quạ, thân bằng tre có nhồi thuốc
súng. Bốn ống phun ở đuôi có thể đẩy loại tên lửa này bay xa đến 300 mét
và thường được dùng để đốt phá doanh trại hay tàu bè của đối phương đã
khá phổ biến và thông dụng từ trước thế kỷ 17.
Những
loại đạn phóng như thế cũng đã được quân Mông Cổ dùng trong những cuộc
tấn kích Nhật Bản và các quốc gia vùng Đông Nam Á mà sử sách còn ghi
chép. Việc sử dụng thuốc súng vào trong những loại súng phóng tay
(hand-held projectile weaponry) đã được dùng khá rộng rãi trên bộ cũng
như trên biển vào thời kỳ đó nhưng cụ thể loại võ khí đó ra sao thì chưa
thấy ai đề cập đến.[36] Xem như thế, rất có thể quân lính của Nguyễn
Huệ đã sử dụng một loại súng phóng loại này để tấn công và đốt cháy đồn
quân địch dưới cái tên “hỏa hổ”.
Một
giả thuyết khác mà chúng tôi đưa ra là ở vào thời kỳ này người ta đã
biết chế tạo một loại hỏa tiễn đốt theo hai giai đoạn (two-stage rocket)
gọi là “hỏa long” (fire-dragon). Con rồng lửa là một loại ống phóng có
bốn hỏa tiễn ở thân chính, khi cháy hết sẽ mồi vào những tên lửa ở trong
bụng rồng và những tên lửa đó sẽ được bắn vọt ra đằng miệng. Hỏa long
được sử dụng trong những trận hải chiến mà hai bên còn cách xa, các bình
thuốc nổ ném chưa tới, dùng để đốt tàu địch. Vì chưng hỏa tiễn bắn ra
hàng loạt trông như một con rồng lửa bay trên mặt nước nên được đặt tên
là hỏa long.[37] Có thể cũng loại võ khí này được cải tiến đôi chút –
dùng diêm sinh, thuốc súng trộn với nhựa thông để dẫn hỏa đốt doanh
trại, quân nhu của địch – sử dụng trên bộ nên được đặt tên là hỏa hổ để
tượng trưng cho một loại trên bờ, một loại dưới nước. Vả lại hỏa long,
hỏa hổ chủ yếu dùng tre, nứa làm ống chứa thuốc mà tre trúc là một loại
thảo mộc rất thông dụng ở phương nam nên việc quân Tây Sơn sử dụng các
loại võ khí này cũng không phải là chuyện lạ. Có lẽ vì thế mà người thời
đó đã truyền tụng là:
Hổ tự Tây Sơn xuất
Long tòng Đông Hải lai
Long tòng Đông Hải lai
虎自西山出
龍從東海來
龍從東海來
(Hỏa hổ phát xuất từ rừng núi phía Tây,
Hỏa long nguồn gốc từ biển cả phía Đông) [38]
Hỏa long nguồn gốc từ biển cả phía Đông) [38]
Những
loại võ khí đó không phải là một độc quyền hay bí mật quân sự mà bên
kia không biết hay không chế tạo được. Có điều quân Tây Sơn vẫn nổi
tiếng là phong phú về thuốc nổ và họ cũng mua được những loại thuốc súng
của người Âu Châu nhạy hơn và cũng mạnh hơn của quân Thanh và vì thế
quân Tây Sơn luôn luôn có uy thế áp đảo trong những trận đánh. Chiến đấu
trong tư thế áp đảo bằng lực lượng cũng như về vũ khí vốn dĩ là một lối
đánh mà vua Quang Trung thường sử dụng.
Do
đó, chúng ta có cảm tưởng những nhà chép sử cố tình thu gọn một cuộc
chiến cho thêm phần chớp nhoáng mà quên đi thực tế của thời đại. Những
yếu tố về tổ chức quân đội, điều động, phối hợp hàng dọc, hàng ngang, kỹ
thuật và vũ khí, hoàn cảnh xã hội… đã hoàn toàn mờ nhạt trong chiến
dịch này. Ngay cả thời gian cũng lộn xộn, không minh bạch. Thực sự quân
Thanh bị đánh ngang hông và chặn đường trong đêm tối, không cứu ứng được
nhau, mất tinh thần nên đã thảm bại trong mùa xuân năm Kỷ dậu. Theo
những số liệu của nhà Thanh đưa ra một cách chính thức, số lính tử
thương và bị bắt có đến gần một nửa ½ (khoảng 8000 người trong số quân
chính qui gần 2 vạn họ đưa ra). Ngoài ra một số dân phu được điều động
đi theo làm hậu cần cũng bị giết, không rõ là bao nhiêu nhưng chắc phải
rất lớn. Chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu trở thành một chiến thắng thần
kỳ vì những cánh kỳ binh của Nguyễn Huệ chẳng khác gì những con rồng
theo đường sông tiến vào rồi lại lặng lẽ rút đi, trở về với biển cả.
Điều duy nhất người ta còn biết được là trong số tướng lãnh của vua
Quang Trung tử trận có một người mang cấp bậc Đô Đốc.
KẾT LUẬN
Thủy
binh của Nguyễn Huệ gồm phần lớn là hải phỉ cũng khiến cho chúng ta
lượng định lại một số trận chiến trên biển cả và sông ngòi. Thành phần
đó mang nhiều đặc tính của những người sinh sống trên đại dương:
–
Vì phải đối phó thường xuyên với sinh tử nên một mặt họ rất tàn ác
nhưng lại cũng rất nghĩa khí. Không hiếm những trường hợp hải khấu bắt
cóc trẻ em, thanh niên để đòi tiền chuộc hay làm bộ hạ rồi về sau nhận
làm con nuôi (nghĩa tử) và giao cho những trọng trách chỉ huy. Chính vì
thế họ chiến đấu rất anh dũng, tinh thần đồng đội cao.
–
Quen với bị săn đuổi và lén lút, thuyền của họ phần lớn là thuyền nhỏ
và nhẹ, chèo bằng tay cũng được mà chạy bằng buồm khi có gió cũng tốt.
Thuyền hải phỉ thường nông lòng để có thể tiến vào những vùng biển nông
mà không sợ bị mắc cạn.
Họ
thường lặng lẽ tiến sát vào tàu lớn của địch, khi tới gần dùng thuốc nổ
đánh gãy cột buồm, đốt hay đánh chìm tàu rồi xông lên tàn sát đối
phương bằng đao kiếm và giáo mác. Ngoài việc cướp hàng hóa, họ cũng
thường bắt thủy thủ trên tàu phải gia nhập hàng ngũ của họ để gia tăng
nhân số.
–
Hải phỉ cũng lắm mưu nhiều kế, hay giả dạng làm con buôn, quan quân,
binh lính nhất là khi họ cướp phá trên sông rạch hay làng mạc. Nhiều lần
họ chiếm được cả những khu vực đóng quân, lấy tiền bạc, thuốc nổ, súng
ống… rồi bỏ đi mất. Những đe dọa đó khiến cho dân chúng vùng ven biển
luôn luôn nghe ngóng, sợ sệt những người lạ mặt lảng vảng quanh vùng của
họ.
–
Nhiều khu vực gần biên giới đã biến thành những “chợ trời”, nơi mua bán
trao đổi những hàng hóa họ đánh cướp được với giá rẻ hơn bình thường,
tạo thành những trung tâm thương mại sầm uất.
Hải
phỉ thường chỉ giữ lại thực phẩm, nước uống, vũ khí và thuốc súng để sử
dụng còn các đồ khác đem bán lại lấy tiền (hoặc giao nạp cho nhà Tây
Sơn). Những khu vực này đến đời Gia Long thì bị quan quân Việt Nam dẹp
bỏ.
Dưới
nhãn quan chính trị, nhiều sử gia cận đại gán cho họ nhiều nghĩa cử và
chí khí lớn nhưng thực tế, hải khấu tuy nhiều khi có những nguyên nhân
đáng thương nhưng đây là một nghề sinh tử với sức mạnh chủ yếu là bạo
lực và tàn nhẫn. Bạo lực và tàn nhẫn cũng chính là điểm mạnh của họ được
Nguyễn Huệ khai thác để trở thành một yếu tố đóng góp vào những chiến
công lừng lẫy ông tạo ra.
Murray
cũng nhận xét là sự bộc phát một cách hết sức đáng kể của những đám
giặc bể vào cuối thế kỷ thứ 18 không phải do vấn đề dân số hay thương
mại mà chính là vì những yếu tố chính trị mới của Trung Hoa cũng như
Việt Nam khiến cho hải khấu đã chuyển biến từ những đám giặc cướp “cắn
trộm” (hit-or-miss, small-time operations) thành những đám hải phỉ “qui
mô và chuyên nghiệp” (full-blown professional piracy).[39] Cho đến cuối
thế kỷ thứ 18, hải phỉ tại biển đông hùng cứ một vùng lãnh hải rộng lớn
trong giấc một tranh bá đồ vương và bảo vệ một khu vực thương mại sống
còn kéo dài từ Nhật Bản xuống tới tận eo biển Malacca. Thế nhưng sau khi
Trịnh Thành Công từ trần, hải khấu không còn ai lãnh đạo nên tan vỡ
thành nhiều nhóm nhỏ cho đến khi Nguyễn Huệ xuất hiện mới đủ uy tín và
sức mạnh qui tụ họ. Chính vì thế khi nghiên cứu về sự thoát xác của
những toán cướp biển lẻ tẻ sang thành những lực lượng có tổ chức, có chỉ
huy chúng ta cũng thấy họ thay đổi không phải chỉ trong cơ cấu mà trong
cả phương tiện và vũ khí trang bị (với rất nhiều súng ống mua hay cướp
được của người Âu Châu) tạo thành một màn chắn cho triều đình. Vai trò
của họ được nâng cao trong thời đại Tây Sơn. Đóng góp không nhỏ vào
chiến công năm Kỷ dậu. Chính vì cái ân tri ngộ đó mà 10 năm sau khi nhà
Tây Sơn mất, những đám hải khấu vẫn còn mưu toan đánh vào Phú Xuân để
khôi phục lại vương quyền cho chủ cũ nhưng không thành công.
Trận
chiến mùa Xuân năm Kỷ Dậu còn rất nhiều chi tiết cần khai thác nhất là
sau khi chúng ta có thêm nhiều tài liệu đời Thanh từ văn khố Trung Hoa
mà nay còn lưu giữ. Dưới nhãn quan chiến thuật, chiến lược mới người ta
sẽ phải đặt lại nhiều vấn đề để giải thích giai đoạn lịch sử này cho sát
với sự thực hơn. Chúng ta cũng sẽ minh họa lại được chân dung con người
Nguyễn Huệ để làm nổi bật vai trò của ông thay vì chỉ miêu tả ông như
một nhân vật thần kỳ.
- Nguyễn Duy Chính (2/2004)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét