Trang

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

THỜI XƯA PHẦN LỚN HỌC TRÒ HỌC Ở ĐÂU?

Quốc Tử Giám chỉ có thể thu hút rất ít học trò thời xưa, thường thuộc tầng lớp thượng lưu. Số đông còn lại theo học các trường làng “ngoài công lập”…

                                                                                    HỮU NGỌC và HÀM CHÂU

Những cuộc thảo luận về hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến thường xoay quanh Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên ở Thăng Long (Hà Nội), hay hệ thống các trường địa phương do nhà nước quản lý. Nhưng, trong thực tế, hệ thống giáo dục chính thống này chỉ thu hút một bộ phận học sinh rất nhỏ, phần đông là con em tầng lớp thượng lưu. 
Còn nhu cầu học tập của đại bộ phận dân chúng được đáp ứng bởi những ngôi trường làng tự phát, không chính thức. Thầy dạy ở các trường này thuộc vào hai loại: những người có học vị nhưng muốn sống ẩn dật, và những người mặc dù rất có tài năng nhưng không đỗ đạt qua các kỳ thi.
Trường làng có nhiều dạng. Nếu nhà thầy rộng, thì nhà thầy sẽ kiêm luôn nhà học. Còn nếu thầy nghèo, thầy sẽ ở nhờ nhà một người giàu có, và dạy cho con cháu chủ nhà cùng con cháu những nhà khác. Nhưng dù trong điều kiện nào, thầy đồ vẫn luôn được kính trọng, như trong mấy câu thành ngữ Việt Nam "nhất tự vi sư, bán tự vi sư" hay "không thầy đố mày làm nên".
Thủ tục xin học được tiến hành giữa thầy và cha mẹ học trò. Khi trẻ em đến sáu, bảy tuổi, các bậc cha mẹ dẫn chúng đến xin thầy cho thụ giáo. Người thầy, sau đó,  xin phép chủ nhà nhận thêm các học trò khác, ngoài con cháu nhà chủ. Thường thì chủ nhà chấp thuận, bởi lẽ điều này mang lại vinh dự cho ông ta. Cha mẹ cậu bé góp một con gà, một đĩa xôi, một chai rượu để làm lễ nhập môn. Trong bữa cơm, thầy giáo, chủ nhà, cha mẹ cậu bé bàn về tính cách cậu học trò và triển vọng của cậu ta.
Trong những tháng đầu tiên, bao giờ cũng là những bài học về đạo đức. Các cậu học trò học cách cư xử sao cho phải phép với người lớn, và làm những việc vặt như quét sân, quét lớp hay mài mực cho thầy. Nếu mắc lỗi, cậu có thể bị đánh đòn. 
Sau các bài học đạo đức, người thầy bắt đầu dạy học trò đọc và viết chữ Hán. Trên lớp, thầy ngồi trên chiếu hoa, xung quanh là tráp, bút, nghiên, điếu. Học trò ngồi đối diện với thầy trên những chiếc chiếu nhỏ hơn, trò bé ngồi hàng trước. Tuổi tác học trò trường làng rất chênh lệch, từ trò nhỏ cho tới những anh chàng có vợ, sửa soạn đi thi hương. 
Thầy giảng xong nhóm này thì quay sang giảng cho nhóm kia. Ở những lớp học đông, thầy chọn hai anh trưởng tràng để giúp thầy coi sóc mọi việc, anh trưởng tràng nội lo những việc trong phạm vi trường lớp, anh trưởng tràng ngoại lo những việc bên ngoài.
Học trò đến trường từ 6 giờ sáng để nộp bài tập cho thầy, sau đó, về nhà ăn sáng. 9 giờ, học trò trở lại trường, rồi học một mạch cho tới 3 giờ chiều. Học trò tuân thủ thời gian biểu này hằng ngày, không có ngày nghỉ cuối tuần. Nhưng hằng năm học trò được nghỉ ba kỳ dài để giúp bố mẹ công việc đồng áng, vào tháng 5 âm lịch, tháng 10 âm lịch, và hai tháng trước sau Tết Nguyên Đán.
Cha mẹ các trò trả công cho thầy một hoặc hai lần mỗi năm, ngoài ra còn sắm cho thầy hai quần dài, hai áo dài, ba áo cộc. Nhiều trường hợp, cha mẹ các trò còn biếu tiền, quà cáp cho thầy khi thầy trở về nhà vào mỗi kỳ nghỉ. Học trò lớn có khi còn được phái "hộ tống" thầy về quê.
Dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1840) hễ khi mùa màng thất bát hay khi nhà dân đói khổ, triều đình cho phép các địa phương trích lợi tức ruộng công để giúp đỡ các thầy giáo làng.
Mỗi khi người thân trong nhà thầy mất, các trò quyên "tiền đồng môn" giúp thầy. Anh trưởng tràng nội chuẩn bị một bản ghi số tiền mỗi trò, cả trò cũ lẫn trò đang học, phải đóng góp, căn cứ vào hoàn cảnh từng người, rồi nộp cho anh trưởng tràng ngoại để anh này đi thu tiền. Ngày xưa, hành vi trốn thuế triều đình còn có thể được dư luận châm chước, chứ hành vi trốn đóng góp "tiền đồng môn" thì bị coi là một sự trốn tránh nghĩa vụ, vô đạo đức.
Các trường làng đều theo chương trình chung do nhà nước quy định, sử dụng các tác phẩm kinh điển của Khổng giáo bằng chữ Hán và sách văn vần do tác giả người Việt Nam soạn để giúp học sinh dễ nhớ chữ Hán. Trường làng còn chuẩn bị cho học sinh đủ trình độ dự các kỳ thi ở vùng hoặc ở kinh đô. Những trường tốt nhất còn thu hút được học sinh các làng khác.
Sau kỳ thi hội cuối cùng năm 1919, các trường dạy bằng chữ Hán dần dần biến mất khỏi cuộc sống làng quê. Các phương pháp học tập truyền thống cũng dần dần mai một. 
Nhưng mặc dù bút máy, rồi sau này là bút bi đã thế chỗ bút lông và nghiên mực, tinh thần tôn sư trọng đạo vẫn là một bộ phận trong nền tảng đạo đức Việt Nam.
English translation
Where did the majority of children receive education in ancient times?
Discussions of Việt Nam's educational system in imperial times often focus on Quốc Tử Giám, the National University in Thăng Long (Hà Nội), or on the system of state-run provincial schools. But, in fact, that formal educational system absorbed only a tiny fraction of learners, most of them from upper-class backgrounds. 
Spontaneous, informal village schools catered to the learning needs of the greater population. These schools had two types of teachers; those who held academic titles but liked a hermit's life and those with talent who had failed the public examinations.
Village schools took different forms. A teacher with a large house used it as both residence and school. However, a poorer teacher might stay at a wealthy man's house and teach his landlord's children and others as well. Peasants treated teachers with respect, as these Vietnamese sayings reflect: "One word is a teacher; half a word is a teacher" and "Without a teacher, you will be nobody".
Parents and the teacher handled the student's enrollment. Parents would ask a teacher to accept a son when the boy was six or seven years old. The teacher then asked his landlord's permission to accept children from outside the landlord's family. Usually the landlord agreed since this honored his family. The parents contributed a chicken, a plate of sticky rice, and a jar of rice wine to the ceremony to initiate the boy into the class. During the meal, the teacher, landlord, and the parents discussed the boy's characters and future prospects.
The first few months of classes contained lessons on morality. Boys learned to behave politely towards their elders and did odd jobs such as sweeping the yard and classroom or rubbing ink for the teacher. The teacher beat boys who made mistakes. After the lessons on morality, the teacher began teaching the boys how to read and write Han script (Chinese characters).
The teacher sat on a flower-patterned mat with a stationery box, pen brushes, an ink-rubbing plate, and a tobacco pipe nearby. The pupils faced the teacher, sitting on smaller mats, with the youngest boys in the front. Local schools had age differences ranging from small children to married men preparing for the regional examination. Teachers worked with each age group in turn. If the class was large, the teacher appointed two school monitors to help him, one dealing with internal administration and one with external affairs.
Students arrived at six in the morning to submit their homework to the teacher, then returned home for breakfast. At nine, students came back to school and stayed until three in the afternoon. They followed this schedule every day without weekends off but did have three long holidays to help their parent farm: the fifth lunar month, the tenth lunar month, and two months around the Lunar New Year (Tết).
Parents paid teachers once or twice a year; in addition, each year the landlord bought the teacher two pairs of trousers, two gowns, and three short-sleeved shirts. Sometimes, parents offered the teacher money to buy gifts before he went home on holiday. An adult student might even accompany the teacher back to his home village. During the reign of King Minh Mạng (1820 -1840), the Royal Court instructed provinces to use part of the revenue from public fields to support village teachers whenever crops failed or the people were poor.
Students collected "fellow-follower money" for a teacher whose close family member had died. The internal school monitor prepared a list of assigned contributions based on the family circumstances of all current and former students; he gave the list to the external monitor for the collection. Public opinion tolerated tax evasion but condemned evasion of moral duty to contribute "fellow-follower money" for one's teacher.
Village schools followed the Government curriculum, using Confucian classics in Chinese script and books of verses prepared by Vietnamese authors to help students memorize Han script. Village schools also prepared students for public examinations at regional and central levels. The best schools attracted students from outside the village.
After the last national examination in 1919, schools teaching in Han scrip gradually disappeared from village life. Traditional learning methods also faded. Even though fountain pens and latter ballpoints replaced brushes and ink slabs, a respect for learning remains part of Vietnam's foundation.                                                          
Translated by Thế Giới Publishers

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét