Trang

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG  TRÌNH

Sấm Trạng Trình-Nguyễn Bỉnh Khiêm


BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG  TRÌNH



ĐỖ NGỌC THẠCH


Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người tới chốn lao xao.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585): Quê ở làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê-Mạc phân tranh (1) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam mà người đời gọi là Sấm Trạng Trình (2).
Nguyễn Bỉnh Khiêm là học trò Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (3) ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu lộ diện mà ở ẩn nơi thôn dã. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Sau đó làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ, tước Trình Tuyền hầu, ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo (4) bên Trung Hoa. Vì thế dân gian gọi ông là Trạng Trình.
Làm quan được bảy năm, từ 1535 đến 1542, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan.
Về quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ, mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là Tuyết giang Phu tử. Mở quán tiếp bạn hữu đàm đạo thế sự, văn chương gọi là Quán Trung Tân. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ là tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính ...
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi, được truy phong tước Thái phó Trình Quốc công.
1. Nhà thơ nặng lòng thế sự
Từ khi trở về cuộc sống ẩn sĩ nơi thôn dã "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao", mạch nguồn thơ ca trong Nguyễn Bỉnh Khiêm mới thực sự tuôn chảy. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân , gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tậpTrình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm), hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời. Tuy nhiên, khi các nhà Nho thoát tục thì bao giờ cũng gặp Đào Tiềm (5) ở chốn Đào Nguyên:

Sáo chiều theo gió nhàn bay,
Buồm khuya chở bóng trăng say cùng về.
Đào nguyên chuyện cũ còn kia
Hưng vong Tần, Tấn thị phi lọ bàn…

Điểm đáng chú ý của dòng thơ ẩn dật ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ không trở thành một "Lãn Ông", một "Tiên Ông" hoàn toàn mà mỗi câu thơ là một bài học về sự đời, về triết lý nhân sinh mà nhà thơ muốn gửi tới muôn người. Phải làm sao cho mọi người cùng hiểu được "mệnh trời", hiểu được cái lẽ đắp đổi tuần hoàn của tạo vật, để mà giữ lấy cái đạo trung thường, không thái quá, không bất cập, không đua chen xô đẩy nhau theo những dục vọng mù quáng, xấu xa, ngõ hầu đem lại một cuộc sống yên lành, hữu ái, an nhiên tự tại:

Làm người chen chúc nhọc đua hơi
Chẳng khác nhân sinh ở gửi chơi
Thoi nhật nguyệt đưa thấm thoắt
Áng phồn hoa khá lạt phai.
Hoa càng khoe nở hoa nên rữa
Nước chứa cho đầy nước ắt vơi.
Mới biết danh hư đà có số,
Ai từng dời được đạo trời?

Nhìn chung, Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao sự trong sạch của tâm hồn con người, lên án thói đời tráo trở, vụ lợi, chà đạp lên thủy chung, tình nghĩa. Thơ ông, do vậy, nặng về nhân tình thế thái, triết lý đạo làm người. Tuy bước vào chốn Đào nguyên nhưng nhà thơ luôn canh cánh bên lòng những lo toan thế sự không chỉ ngày hôm nay mà cả tới vài trăm năm sau (6):

Tự thuật

Tuổi vừa bẩy chục đã từ quan,
Về nơi núi cũ sống an nhàn.
Ngủ đến mặt trời cao mới dậy.
Đã chắc Thanh Vân hơn Bạch Vân?

Cảm đề

Thanh nhàn vô sự là Tiên,
Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.
Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,
Đầu non mây khói tỏa,
Mặt nước cánh buồm trôi.
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.
Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời.
Dở hay nên tự lòng người cả,
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.
Bí truyền cho con cháu,
Dành hậu thế xem chơi.

Ngụ hứng quán Trung Tân
(Bài một)

Nhà vắng không vương chút bụi trần.
Dòng sông lờ lững chảy kề sân.
Thuyền cá chiều chiều vào ghé đậu.
Hương thơm rau quế khách xa gần.
Mừng được tạm yên thời loạn lạc.
Thẹn chẳng có tài để cứu dân.
Nhàn nhã ngồi chơi, nhờ ngọn gió
Đưa vào cốc rượu chút mùa xuân.

Ngụ hứng quán Trung Tân
(Bài năm)

Nhà lá vài gian cạnh bến sông.
Hai bờ xanh nhạt, nước mênh mông.
Trăng lạnh, gió yên, buồm rũ xuống.
Mây núi xa xa tựa dáng rồng.
Đêm vắng, chuông chùa nghe thật rõ.
Le lói làng bên ánh lửa hồng.
Tiếc chẳng phò vua, do tuổi tác,
Trước sau tuy vẫn một tấm lòng.
Cảm hứng
Ai người có thể cứu muôn dân
Bị giặc xâm lăng, đợi chết dần?
Hại cả con trâu và ngọn núi,
Bừa bãi bắt giam, luật bất cần.
Mòn mỏi dân mong người dẹp loạn,
Mà đời chẳng có tướng cầm quân.
Lại đúng vào khi đang nạn đói,
Biết tìm đâu nổi chốn nương thân?

Ở ẩn

Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Thói Đời

Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi
Xưa nay đều trọng người chân thực
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó tìm lui.

2. Nhà Tiên tri biết được "Mệnh Trời"
Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh, từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hóa. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi, ông nói:  "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại".

Sấm Trạng Trình được người đời xem như là một lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về tương lai. Có rất nhiều điểm trùng khớp với lịch sử mà nổi nhất là tên nước Việt Nam, vì thời điểm của ông thì Việt Nam không có quốc hiệu này (mà là Đại Việt và trước đó là Đại Ngu).

Việt nam khởi tổ gây nên: 300 năm sau, tên nước ta là Nam Việt, sau đó trở thành Việt Nam.
Bao giờ trúc mọc qua sông, Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây: Vào thời Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến Thăng Long thành, Tôn Sĩ Nghị cho quân sĩ bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng Hà. Sau khi dẹp được giặc nhà Thanh một cách oai hùng ở trận Ðống Ða, Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Ðế (nhiều người cho rằng non Tây là chỉ nhà Tây Sơn).
Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái), các con trai sau này đều có chức tước hiển đạt. Trạng tính được ngày chết của mình và trước khi chết, Trạng có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng: "Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: "Thánh nhân mắt mù" thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy". Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ măi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói: "Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, họa chăng là thánh nhân mắt mù". Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tầu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà Phong thủy trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn.
Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tầu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra:

"Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu
Biết gì những kẻ sinh sau?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?"

Đọc tới đâu vị khách Tầu đổ mồ hôi hột đến đó, ra Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. So với Trạng, có lẽ ông còn thua xa.
Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa ngày 10-2-1930 đánh Pháp ở các tỉnh : Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Nhưng nghĩa quân thất bại thảm hại, bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo An để trả thù. Chuyện này đã được Trạng Trình tiên đoán :

"Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am cây
Lâm giang nổi gió mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn tin nhà Vĩnh Bảo cho hay".

Sấm ký Trạng Trình có nhiều dị bản, dưới đây là một bản khá phổ biến ở quê Trạng Trình:

Sấm ký

Nước Nam từ họ Hồng Bàng,
Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời.
Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước,
Đã bao đời ngôi nước đổi thay.
Núi sông Thiên định đặt bày,
Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành.
...
Kìa kìa gió thổi lá rung cây,
Rung Bắc rung Nam, Đông tới Tây.
Tan tác kiến kiều an đất nước,
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái,
Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.
Tiền ma bạc quỷ trao tay,
Đồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua.
Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây.
...
Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.
Nực cười những kẻ bàng quan,
Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.
...
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,
Can qua xứ xứ khởi đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
...
Thần Kinh Thái Ất suy ra,
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.
Ngày thường xem thấy quyển vàng,
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.
Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân.
Phú quý hồng trần mộng,
Bần cùng bạch phát sinh.
Hoa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả dục nhơn canh.
Bắc hữu Kim Thành tráng,
Nam hữu Ngọc Bích Thành.
Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.
Bảo giang Thiên Tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
...
Cơ Tạo Hóa phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
Thấy Sấm từ đây chép vào,
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú (7) đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: "Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở".
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp (8) khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài "Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).
Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân (9) đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng : Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu  / Nghìn năm sau như vẫn một ngày.

Giai thoại về Trạng Trình khá nhiều, dưới đây là giai thoại về mẫu thân của Trạng Trình.

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ Thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định (cha Nguyễn Bỉnh Kiêm), ở nhà với con và tình cờ hát:"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay: "Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung". Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát:"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng". Ông Đ ịnh hoảng sợ vì nếu triều đ ình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại: "Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".
Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền  ngay sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (10). Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà Nhữ Thị vẫn không thỏa chí vì họ Phùng không có chí làm vua. Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung , vị vua khai triều của nhà Mạc.
3. Lưu danh muôn thuở
Cuối cùng rồi cái cây đại thụ đã từng tỏa rợp bóng trên cả một thời ấy cũng phải ngã xuống. Nhưng nó đã ngã xuống không chút nặng nề, ồn ào mà rất nhẹ nhàng, thanh thoát…như Tiên Ông cưỡi hạc bay về Trời.
Đó là vào ngày 28 tháng 11 năm Đinh Dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585). Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 95 tuổi thọ.Tang lễ ông đã được tiến hành rất trọng thể, quá trọng thể so với ước muốn cuối cùng của ông. Nhà vua đã cử một đoàn khâm sai khá đông đảo với nhiều vị quan đầu triều về viếng. Cũng đủ cờ tiết, nghi trượng và cả đạo sắc phong nữa. Cũng loa dọn đường, trống hiệu lệnh, lính thị vệ dàn trước, theo sau…
Khi tiếng đọc bài Văn tế của người học trò Đinh Thì Trung vang lên nghẹn ngào, thổn thức thì trên thinh không vang lên tiếng chim Hạc của các vị Đại Tiên…

… Kính nhớ tiên sinh:

Bể Đông Hải chung anh.
Núi Nam Sơn dục tú.
Mắt tai sáng suốt,
Trời xanh phú dữ vốn không nghèo.
Bung dạ mở mang.
Đạo lớn uẩn tàng nguyên sẵn có…
……
Đạo thống Thánh nhân từ tiên sinh mà truyền ra.
Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo.
Những tưởng đạo ngày càng sáng,
Cửa đã thông Châu Lỗ cung tường.
Hay đâu sinh ra chẳng gặp thời,
Đời nào phải Đường Ngu vũ trụ…
……
Cảm tiên sinh, núi sông đều biến sắc
Nước triều man mác đòi phen,
Nhớ tiên sinh, sâu kiến cũng đau lòng
Tơ nhện vấn vương khôn gỡ.
Đền trên non lạnh lẽo khói mây
Nhà đầu xóm ủ ê hoa cỏ
Chợ nọ kỳ phiên vẫn họp,
Khách buôn huyên náo, mà tiên sinh âm hưởng vắng không.

Chùa kia cơ chỉ vẫn còn
Ṭa phật trang nghiêm, tưởng tiên sinh dung nghi còn đó.
Bia đá của tiên sinh dựng,
Nhớ tiên sinh muốn tìm dấu cũ, thì nét chữ mịt mờ,
                    rêu chen mặt đá, đã thành ra một chiếc tàn bia.

Cây đa của tiên sinh giồng,
Nhớ tiên sinh muốn ngắm cảnh xưa, thì cành lá lơ thơ,
            tuyết rủ đầu cây, đã hóa hẳn một chòm cổ thụ
Hàn Giang là chỗ tiên sinh ở,
Trông tiên sinh ở trên sông ấy, chỉ thấy khi nước xuống, khi nước lên.
Bạch Vân là tên tiên sinh đặt,
Trông tiên sinh ở trên mây kia, chỉ thấy đám mây tan, đám mây tụ…(11)

 
___________________________________________
Chú Thích:
(1)  Chiến tranh Lê-Mạc (1533-1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Chiến tranh chia làm hai thời kỳ lớn: 1/Thời kỳ 1533-1592: tương đương với thời Nam-Bắc triều khi nhà Mạc làm chủ vùng Bắc Bộ Việt Nam, nhà Lê làm chủ khu vực từ Thanh Hóa trở vào; 2/Thời kỳ 1593 - 1677: khi tàn dư họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng cát cứ. Mạc Thái Tông (? - 1540) là vị vua thứ hai của nhà Mạc, ở ngôi từ năm 1530 đến 1540. Ông tên là Mạc Đăng Doanh, là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách), tỉnh Hải Dương.
(2) Sấm Trạng Trình:  Sấm Trạng Trình được người đời xem như là một lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về tương lai. Sấm Trạng Trình có nhiều bản, bản trích dẫn dưới đây rút t Sấm Trạng Trình của Wikipedia, Bách khoa Toàn thư Mở:
Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm
được mới hầu giá cao
Trải vì sao mây che Thái Ất
Thuở cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ xây nên
Lạc Long ra trị
đương quyền một phương
Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
Mở bản
đồ rủ áo chấp tay
Ngự
đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền
đã nổi lên
Ðông a âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng tr
ăng thu
Ra tay m
ở lấy đế đô vạn toàn
Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên n
ăng vẫn uống quen
Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dễ khẳng nhìn giúp cho
Kìa liệt vương khí hư
đồ ủng
Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặt khôn
đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp
đà hay
Khi sui
đắp núi khi say xây thành
Lấy
đạt điền làm công thiên hạ
Ðược mấy n
ăm đất lở giếng mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ trời xem
đã mê đ
Ðã
đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
Dưới trên dốc chí lo toan
Những
đua bán nước bán quan làm giàu
Thống rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần bốn bể lại tuần
đầu non
đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có ch
ăng mặc nọ ai đôi
Vi
ệc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
Xem tượng trời
đã giơ ra trước
Còn hung h
ăng bạc ngược quá xưa
Cuồn phong cả sớm liền trưa
Ðã
đờn cửu khúc còn thơ thi đ
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn n
ăm chật vật đi v
Âm binh ở giữa nào hề biết
đâu
Th
ấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào
đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tâm chứng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá lãng phân
điếm tuần
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết
đâu đâu
B
ấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
Nội thành ong ỏng hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa n
ăm giả lai kiểm hung mùa màng
đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
Ðứng hiên ngang
đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì ch
ăng ?
Ai c
òn khoe trí khoe năng
C
ấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
Chưa t
ừng thấy đời này sự lạ
Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh
đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên
đạo xây dần đã công
Máy hóa công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ
đã nguôi
Thung th
ăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng
được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ
đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị
đời
Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là
đâu ?
Thương nh
ững kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn
đâu
Báo th
ù ấy chẳng sai đâu
T
ìm non có rẩy chừng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy
đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới
được bảo thân đời này
Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chử Rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ
được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến
đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
Bốn phương chẳng
động can qua
Quần hùng các xứ
điều hòa làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa
đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng
đầu có chữ vương
Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng
đãi thánh
Dốc sinh hiền
điều đỉnh nội mai
Chọn
đầu thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ
điều hòa hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vị vương
Ðủ no
đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương
đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên v
ăn địa lý nhân luân càng mầu
đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây
đã biết thành long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần
đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn
đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí
đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài
đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên
đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
V
ăn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng
đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy thần kinh
Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không
Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân
đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình n
ăm nao
Tr
ên trời có mấy vì sao
Ðủ nho biền tướng anh hào
đôi nơi
ớc Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời
để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẽo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
Xem
đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
Ngỡ oai
đã dấy ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thuở trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân
Ðoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
Man mác một
đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá
điền dầu khỉ cuối thu
Tái binh mới
động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong n
ăm khôn xiết
Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước
đôi thu
B
ấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Xem th
ấy nhũng sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung h
ăng
Th
ành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm
đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi
đàng dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ thì phải thủa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thủa hung tàn
Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
Muông vương dựng ổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời
đua mạnh tranh giành
Ra
đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai
đã dễ nhìn U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù
đòi cơn
Cây bay lá lửa
đôi ngàn
Một làng còn mấy chim
đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho
được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú
đình
Bốn bề núi
đá riểu quanh
Một
đường tiểu mạch nương mình dấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc
đao binh
B
ắc kinh mới thật đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh
được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho
được chốn mới vào thần kinh
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Đưa một ḷng tranh tiếng dục nhau
Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư
đôi ngủ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu
đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết
đường đời trị
Gẩm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà
để lấy dấu truyền
Gẩm xem bốn báu còn in
đời đời
Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên
định ai hay
Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở
đầy tào khê
Có thầy nhân thập
đi v
Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho
đẹp lòng trời
Ra tay
điều chỉnh hộ may
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
N
ăm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân
đài
Bản
đồ chảng sót cho ai
Nghìn n
ăm lại lấy hội nơi vẹn toàn
Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn
đời một mối xa thư
Bể kình tâm lặng bằng tờ
Tr
ăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe
đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
Vừa n
ăm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ
đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh
đổi đời chí lục thất gian
Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học
đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt
đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên
đấng vẻ vang
Biết chừng
đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân
đoản mà đi
S
ố chưa gặp thì biết hòa chép ra
Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng
đời
Hợp
đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra thì lậu sự
đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra am chúa bội quân
Ðương thời
đời trị xoay vần được đâu
Ch
ờ cho nhân đoản hết sau
Ðến chừng
đời ấy thấy âu nhiễu nàn
Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp
độc đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy
đã bày
Trên
đầu bất chính dưới nay dấy loàn
Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẩm
được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng
đời
Khá xem nhiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho
đến đế cung
Rấp phù xuất lực
đế cung được toàn
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng
được cho yên trong ngoài
Chờ cho
động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chảng còn ở thật người ta
đâu là
Trời cao
đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà
đế vương
Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay
Thời vận
đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường
đi thỏ thẻ dặm chân khôn dò
Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở
đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong
điều vũ thuận thú rày an dân
Phong
đăng hòa cốc chứa chang
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị
đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm
đòi ra đi
T
ìm lên đến thạch bàn khê
đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn
đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương
đâu là
Chảng tìm thì
đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca
địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành
đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
Ở xa thấy một con voi
Cúi
đầu quen bụi trông vời hồ sâu
Ấy
điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng
đế thánh tô lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh
đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến
đời thịnh vượng còn lâu
Ðành
đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này

Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ
đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an
đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng
địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Con mùng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên
đài
Nhà cha cửa
đóng then cài
Ầm ầm sấm
động hỏi người đông lân
Ti
ếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình
Canh niên tân phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình
Long hổ xà
đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn
đao binh
M
ã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Non
đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một
đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai
đầu
Chuột nọ l
ăm le mong cản tổ
Ngựa kia
đủng đỉnh bước về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu
Cửu cửu kiền khôn dĩ
định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực
đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an
Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân bảo bảo noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục
đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng
đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim
đai ấn
Thất thập cổ lai xuân
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn
đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ
đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðịa giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi bắc kinh
Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê th
ăng đại minh
Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương
Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ
đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim l
ăng cương
Thi
ên dử thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu
điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi
địch
Ðạo
đức thực dữ đương
T
ộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận
đáo dương hầu ách
Chấn
đoài cương bất trường
Quần gian
đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh
đấu khởi
Phạm
địch tánh hung hoang
Ma vương sát
đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên
đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
Ðoài phương phước
địa giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
Phá
điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm
Trần công nai thị phúc tâm
Giang hồ tử sĩ
đào tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ kỵ phục kiến
Đường ngu thi hành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia

(3)   Lương Đắc Bằng (1472 - 1522 ), người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).Từ nhỏ nổi tiếng là người hay chữ, đỗ Bảng nhãn năm Kỷ Mùi 1499. Ra làm quan, được th ăng đến chức Tả Thị Lang bộ Lễ sau lại thăng lên Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông Các Đại học sĩ, tước Đôn Trung bá. Công thần thời Lê Hiến Tông (1497-1504) đến Lê Tương Dực (1510-1516). Không những là một vị túc nho, ông còn là một đ ại thần rất cương trực, không ưa bè phái, nên đư ợc triều đ ình và nhân dân trọng vọng. Ông thường đư ợc vua cử đi s ứ Trung Hoa và làm tròn sứ mệnh ngoại giao. Tuy nhiên, triều nhà Lê đ ã đ ến lúc suy vong, ông nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi đư ợc tình thế. Trị bình thập tứ sách đư ợc vua khen ngợi nhưng không thi hành. Lương Đ ắc Bằng cáo quan về nhà, mở trường dạy học tại Lạch Triều và nghiên cứu lý số. Nguyên thời đi sứ Trung hoa, ông có mang về bộ Thái Ất thần kinh để tham khảo. Ông rất thanh liêm và trọng đạo đức, dù làm quan lớn mà gia cảnh rất nghèo, con phải đi gặt thuê đ ể sống. Học trò ông nổi tiếng có Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), người tỉnh Hải Dương. Nhận thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tính tình khoáng đạt và thích lý số, nên ông truyền dạy và trao cho toàn bộ Thái Ất thần kinh
(4). Hai anh em họ Trình: Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên, là người nghiên cứu, soạn tập và chú giải Tứ ThưNgũ Kinh.
Bộ sách Tứ Thư của Nho giáo ra đ ời cách nay khoảng hơn 2.000 năm, đã trải qua bao sóng gió theo những giai đo ạn thăng tr ầm của lịch sử Trung Hoa. Lần thì bị Tần Thủy Hoàng đ ốt, lần thì bị tiêu tan trong các cuộc nội chiến triền miên của Trung Hoa. Do vậy khó tránh được nạn "tam sao thất bản". Đến đời nhà Tống, bộ sách này mới được các danh Nho tu chỉnh. Đầu tiên là hai anh em họ Trình: Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên. Sau đó Chu Hy (1130-1200) hiệu là Hối Am, bổ cứu và sắp đ ặt thành chương cú cho có thứ tự phân minh. Ngày nay, có những bản sách Tứ ThưNgũ Kinh là do công lao của hai anh em Trình Hạo, Trình Di và của Chu Hy thời nhà Tống.
(5) Đ ào Tiềm, người đời Tấn, Trung Quốc, tác giả Đào hoa nguyên ký hay Đào nguyên ký, là một trong những tác phẩm nổi tiếng của dòng thơ "thoát tục lên Tiên". Bài Đào nguyên ký này vốn là bài tựa của thi phẩm Ðào hoa nguyên thi:
Vào khoảng triều Thái Nguyên đời Tấn, có một người ở Vũ Lăng làm nghề đánh cá, m ột hôm bơi thuyền thấy một đóa hoa đ ào trôi từ khe núi. Người ngư phủ chèo thuyền dọc theo khe núi, đi mãi rồi đến một thôn xóm dân cư đông đúc, người dân ở đó đời sống an nhàn, thanh bình. Người đánh cá hỏi chuyện mới biết tổ tiên của họ vốn người nước Tần, nhưng do không chịu được chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng nên bỏ lên sống ở đó, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Ở lại mấy ngày, rồi người ngư phủ tạm biệt ra về. Sau một thời gian, muốn quay lại tìm chốn đào nguyên mà không thấy.
Bài ký này cùng với nhiều bài thơ khác như Quy viên điền cư, Ẩm tửu... tác giả đ ã ca tụng cảnh sống ẩn cư trong lao động, nhàn hạ và cách biệt với đời. Điều này có nghĩa ít nhiều, chúng đều ảnh hưởng tư tưởng của Lão Trang.
Đào hoa nguyên ký, gọi tắt là Đào Nguyên còn là một đi ển tích văn học đ ể chỉ nơi tiên cảnh.Đào hoa nguyên có thể hiểu là suối hoa đào, hay động đào, động bích, động nguyên bích... Điển cố Đào Nguyên được nhắc đến trong nhiều sáng tác của các nhà thơ Việt Nam, chẳng hạn như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Rước mừng, đón hỏi, dò la / Đào Nguyên lạc lối đâu mà đ ến đây? Hoặc: Xắn tay mở khóa động đào / Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai.
(5) Đào Tiềm (365 - 427), hiệu Uyên Minh tự Nguyên Lượng biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh, người đất Tầm Dương, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con (ông có cả thảy năm người con trai), nên ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch (vì thế ông còn được gọi là Đào Bành Trạch). Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Ngay hôm ấy ông viết bài Quy khứ lai từ (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về… Năm ông 62 tuổi, gặp lúc đói kém, nhà thơ lâm cảnh khốn cùng đến mức phải đi xin ăn. Tiêu Thống đời Lương viết Truyện Đào Uyên Minh kể lại rằng: "Khi Thứ sử Giang Châu là Đàn Đạo Tế đến thăm thì thấy nhà thơ nằm co ro, nhịn đói đã mấy ngày. Đạo Tế cho đưa rượu thịt tới, ông vẫy tay bảo đưa ra. Không bao lâu thì mất", thọ 63 tuổi. Đào Tiềm để lại một số thơ văn, người đời sưu tập lại thành Đào Uyên Minh thi văn tập, 10 quyển, trong đó có trên 120 bài thơ.
  (6) Để có thể đi sâu vào thế giới Đào nguyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hãy đọc thêm chùm thơ Ngụ hứng khá đặc sắc này :
Ngụ hứng 1
Một bên là chợ, một bên làng.
Ao vườn có
đủ, cũng khang trang.
Am quán thư nhàn, xuân mãi trẻ.
Cảnh
đẹp như tranh, đến ngỡ ngàng.
Suối chảy, tiếng
đàn nghe thêm vọng.
Cây che, cành
đẹp giấc mơ màng.
Mừng thấy
đạo Nho chưa héo lụi,
Mà vẫn
đang phơi giữa nắng vàng.

Ngụ hứng 2
Uống rượu ngắm sông buổi xế tà.
Dân chài
đâu đó, hát xa xa.
Tr
ời tạnh, dịu dàng cơn gió thổi.
Bên sông cây mọc tốt, xùm xòa.
Nhớ quê lúc tỉnh, thương hoa cúc.
Khi say dễ ướt mắt người già.
Bao giờ trở lại thời Nghiêu Thuấn,
Để thấy càn khôn lại thái hòa.

Ngụ hứng 3
Đeo đuổi công danh chỉ phí đời.
Quay lại ruộng
đồng sống thảnh thơi.
Giặt áo, ngoài khe luôn sẵn nước.
Ngắm hoa, không sợ "khách" qua chơi.
Áo mũ nhà nho làm thân khổ.
Tận tụy việc công chẳng mấy người.
Lo trước nhưng vui sau thiên hạ
Ta nguyện trong lòng chẳng phút ngơi.

Ngụ hứng 4
Chọn
đất dựng nhà cạnh suối trong.
An nhàn vui thú với non sông.
Sáng dạo vườn rau, sương dính dép.
Đêm chơi xóm lưới ánh trăng lồng.
Lui, tiến, chơi cờ luôn tính trước.
Buông, giật,
đi câu cũng bận lòng.
Lầu son xin khách
đàn khe khẽ,
Kẻo nhỡ làm ta tỉnh giấc nồng.

Ngụ hứng 5
Chán
đời ô trọc, lánh phù hoa,
Về quán Trung Tân ta với ta.
Hữu tình sơn thủy, người nhân trí.
Sách nhiều
đủ hiểu hết gần xa.
Tr
ăng thanh gió mát, vui ngâm vịnh.
Khắp lượt quen thân, trẻ
đến già.
Bên sông nghe sáo dân chài thổi,
Trong
đầu vang điệu "Lạc Mai Hoa".(6*)

Ngụ hứng 6
Không hám giàu sang chuốc nợ
đời.
Ở ẩn về già sống thảnh thơi.
Làm thơ có sẵn hoa, cây cỏ.
Bên song chim én lượn
đầy trời.
Thư sinh mà dám bàn "tam lược",
"Tứ tri" thử hỏi
được bao người?
Đời này thực sự tìm chân lý -
Sông Hànhãy ngắm ánh tr
ăng bơi.

Ngụ hứng 8
Bất tài, không giúp
được người ngay.
Vườn xưa trót hẹn, lại về
đây.
Nói m
ình trong sạch, e hơi quá.
Muốn trốn cái già nên uống say.
Núi nhuộm sắc thu, xanh lại nhạt.
Sông lồng bóng nguyệt, nước lung lay.
Chẳng vướng cơ mưu, lòng nhẹ nhõm.
Cổng tre Tân Quán mở
đêm ngày.

Ngụ hứng 10
Bạch Vân am nhỏ, mạch khe nông,
Được hưởng mà không mất một đồng.
Thanh khiết trên
đời ai kẻ sĩ,
Riêng ta như ở chốn tiên bồng.
Cúc thơm ba luống như Bành Trạch,
Nhà tranh
đôi chái giống Lư Đồng.
Cũng riêng một cõi, ta là chủ,
Uống rượu ngắm tr
ăng và hát ngông.

Tự thuật
Bao người tráng kiệt thế xưa nay,
Cũng
đành tạm náu lúc không may.
Ta xưa là khách nơi lầu tía,
Giờ bạn non sông ở chốn này.
đủ mùa xuân, hoa với lá,
đàn, có rượu, uống kỳ say.
Một mình
đứng ngắm hoàng hôn tắt.
Mặc gió
đầu trần thổi tóc bay.

Ngẫu hứng
Thấm thoắt đã già, hơn sáu mươi.
Tự thấy mình ngông, những ngậm cười.
Ham muốn làm quan giờ chẳng có.
Quán nhà, hết ngủ lại ngồi chơi.
Thanh thản ngắm hoa, nghe chim hót.
Uống rượu ngâm thơ, hưởng thú
đời.
Kìa sáo nhà ai ngoài xóm vắng.
Chiều xế, ngà ngà, gió lả lơi...

Cảm hứng
Ai người có thể cứu muôn dân
Bị giặc xâm l
ăng, đợi chết dần?
Hại cả con trâu và ngọn núi,
Bừa bãi bắt giam, luật bất cần.
Mòn mỏi dân mong người dẹp loạn,
đời chẳng có tướng cầm quân.
Lại
đúng vào khi đang nạn đói,
Bi
ết tìm đâu nổi chốn nương thân?

(6*) "Lạc mai hoa": một bản nhạc sáo nổi tiếng đời Đường . Lý Bạch có câu thơ : "Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch , Giang Thành ngũ nguyệt lạc mai hoa" ( tức là : Trên lầu Hoàng Hạc thổi sáo ngọc , Giang Thành tháng năm mai hoa rụng").
(7) Phan Huy Chú  ( 1782 - 1840) : Phan Huy Chú sinh ra ở Thăng Long và lớn lên ở tổng Thụy Khê, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây(nay là thôn Thuỵ Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) tên chữ là Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, thuở nhỏ có tên là Hạo sau đổi tên là Chú, là một danh sĩ triều nhà Nguyễn. Ông đỗ 2 lần tú tài, người đương thời gọi ông là "kép Thầy", làm quan dưới triều vua Minh Mạng.
Ông là tác giả bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí và nhiều tác phẩm khác. Ông được người đời suy tôn là nhà bác học trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam.
(8) Nguyễn Thiếp  (1723-1804), tên hiệu phổ biến là La Sơn phu tử, húy là Minh, tự là Quang Thiếp, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc hay Nguyệt Áo (tục gọi là Nguyệt Ao), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn. Tổng La Thạch sau này lại thuộc về huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi vọng tộc, là con cháu Lưu Quận công, Cao tổ của Phu tử là Nguyễn Bật Lạng đậu Bảng nhãn (dưới Trạng Nguyên, trên Thám Hoa) trong một Chế khoa dưới triều Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (năm 1633). Năm 20 tuổi (1743) ông đỗ giải Hương, đến năm 26 tuổi, ông đi thi Hội một khoa vào tam trường. Từ đây, ông thề không đi thi nữa, và quyết tâm dứt bỏ con đường sĩ hoạn, chỉ vì ông thấy rõ lối học từ chương, khoa cử chẳng những vô ích cho bản thân và quốc gia, mà còn di hại cho tiền đồ Tổ quốc và hậu thế không ít.
Năm 1756, ông làm Huấn đạo rồi năm 1762 thăng Tri phủ. Năm 1768 từ quan về ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn, Hà Tĩnh. Đặc biệt là ông có đi thăm mộ Phạm Viên (Tiên ông đắc đạo) và thăm Bạch Vân Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc 55 tuổi và 58 tuổi (1777-1780).
(9) Vũ Khâm Lân (1702 hoặc 1703 - ?), trước có tên Khâm Thận, sau đổi lại thành Khâm Lân, là danh sĩ và là đại thần nhà Hậu Lê, nước Đại Việt (nay là Việt Nam).Vũ Khâm Lân, người làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Vốn là con nhà nghèo, nên ông phải sớm làm lụng mưu sinh, và cố công học tập để mau chóng thành đạt. Năm Đinh Mùi (1727), triều Lê Dụ Tông, ông thi đĐồng tiến sĩ xuất thân lúc 25 tuổi.
Kể từ đó, Vũ Khâm Lân bước vào chốn quan trường, từng được cử đi sứ Trung Quốc, trải đến các chức, như: Đô ngự sử, Thượng thư, Tham tụng, tước Ôn Đình hầu rồi Ôn Quận công. Đương thời, ông có tiếng là người hào hiệp, khảng khái, gặp việc dám nói, dám làm. Bên cạnh đó, ông còn có tiếng về tài văn chương. Theo tài liệu, thì ông là người đã góp thêm nhiều truyện mới vào quyển Lĩnh Nam chích quái, soạn và cho khắc bia bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký nói về cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm (để dựng ở đền thờ vị danh sĩ này), viết bài khen Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một "thiên cổ kỳ bút"…
(10) Phùng Khắc Khoan (1528-1613): đĐệ nhị giáp tiến sĩ, tức là Hoàng giáp vào năm Quang Hưng thứ 3 (1580). Quê ở làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Ông có học vấn uyên thâm, khi đi sứ Trung Quốc, ứng đối xuất sắc, nên được vua nhà Minh đặc cách phong Trạng nguyên .Mặc dù ông chỉ đỗ Hoàng giáp nhưng người đời quen gọi ông là Trạng Bùng.
(11) Theo sách Tuyết Giang phu tử của Chu Thiên (11*).
(11*) Chu Thiên (1913 - 1992) là nhà văn, nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Ông tên thật Hoàng Minh Giám, còn có bút danh khác là Dương Hoàng, sinh năm 1913 tại Yên Thanh, Ý Yên, Nam Định. Trước Cách mạng tháng 8, ông dạy học tư và và viết văn, tiểu thuyết ở Hà Nội. Những tác phẩm của ông tập trung về tiểu thuyết lịch sử, dã sử và nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là tập Bút nghiên (1942). Tác phẩm thành công nhất là Bóng nước Hồ Gươm (gồm 2 tập, 1970), phản ánh tinh thần yêu nước của người Hà Nội trong những năm đầu thực dân Pháp chiếm đóng thđô. Tuyết Giang phu tử (1943) viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm.
_______________________________________________________________________________

Sài Gòn, tháng 9-2010


CHIA BÀI THEO CÂU ĐÁNH SỐ
Sấm Trạng Trình    (Nguyễn Bỉnh Khiêm)



Chương Nhất

1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 - Một câu là một nhiệm màu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5 - Trải vì sao mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay xe nhật phù lên
7 - Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Đến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rũ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
15 - Đông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
21 - Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
22 - Dưới lẫn trên n( vẫn uống quen
23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 - Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
25 - Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
26 - Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
27 - Trời sinh ra những kẻ gian
28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 - Áo vàng ấm áp đà hay
30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành
31 - Lấy đạc điền làm công thiên hạ
32 - Được mấy năm đất lở giếng mòn
33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
34 - Vô già mợ hội mộng tôn làm chùa
35 - Cơ trời xem đã mê đồ
36 - Đã đô lại muốn mở đô cho người
37 - ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
38 - Suốt vạn dân cưu giận nhân than
39 - Dưới trên dốc chí lo toan
40 - Những đua bán nước bán quan làm giàu
41 - Thống rủ nhau làm mồi phú quí
42 - Mấy trung thần có chí an dân
43 - Đua nhau làm sự bất nhân
44 - Đả tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 - Dư đồ chia xẻ càn khôn
46 - Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
47 - Vội sang giàu giết người lấy của
48 - Sự có chăng mặc nọ ai đôi
49 - Việc làm thất chính tơi bời
50 - Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
51 - Xem tượng trời đả gia ra trước
52 - Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
53 - Cuồng phong cả sớm liền trưa
54 - Đả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55 - ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
56 - Để vạn dân dê lại giết dê
57 - Luôn năm chật vật đi về
58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
59 - Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
60 - Cũng một lòng trời chống khác nào
61 - Xem người dường vững chiêm bao
62 - Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
63 - Một góc thành làm tâm chứng quỷ
64 - Đua một lòng ích kỷ hại nhân
65 - Bốn phương rời rỡ hồng trần
66 - Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
67 - Tiếc là những xuất dân làm bạo
68 - Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 - Hùm già lạc dấu khôn về
72 - Mèo non chi chí tìm về cố hương
73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
76 - Đầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
77 - Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
78 - Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
82 - Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85 - Đứng hiên ngang đố ai biết trước
86 - ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
87 - Ai còn khoe trí khoe năng
88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89 - Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90 - Bổng khiến người giá họa cho dân
91 - Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93 - Đả nên si Hoàn Linh đời Hán
94 - Đúc tiền ra bán tước cho dân
95 - Xun xoe những rắp cậy quân
96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
97 - Máy hóa công nắm tay dễ ngõ
98 - Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời

100 - Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
101 - Cát lầm bốn bể can qua
102 - Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 - Bấy gia+ý càng khốn thay ôi
106 - Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
107 - Thương những kẻ ăn rau ăn giới
108 - Gặp nước bung con cái ẩn đâu
109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 - Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
111 - Xin những kẻ hai lòng sự chúa
112 - Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
113 - Cho nên phải báo trầm luân
114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này
115 - Nói cho hay khảm cung rồng dấy
116 - Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
119 - Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
120 - Thì phụ nguyên mới chỗ binh ra
121 - Bốn phương chẳng động can qua
122 - Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
123 - Bấy gia+ý mở rộng qui khôi
124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
126 - Hoàng phúc xưa đã định tây phong
127 - Làu làu thế giới sáng trông
128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
129 - Rỏ sinh tài lạ khác thường
130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
131 - Xem ý trời có lòng đãi thánh
132 - Đốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
133 - Chọn đầu thai những vì sao cả
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 - Bắc phương chính khí sinh ra
136 - Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
138 - Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
139 - Đời này thánh kế vị vương
140 - Đủ no đạo đức văn chương trong mình
141 - Uy nghi trạng mạo khác hình
142 - Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
143 - Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 - Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
147 - Ở đâu anh hùng hẳn biết
148 - Xem sắc mây đã biết thành long
149 - Thánh nhân cư có thụy cung

150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lý kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hễ trời sinh xuống phải thì
156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 - Kìa những kẻ vội lòng phú quí
158 - Xem trong mình một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
161 - Xin khuyên đấng thời trung quân tử
162 - Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
163 - Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
164 - Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165 - Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
166 - Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
167 - Võ thông yên thủy thần kinh
168 - Được vào trận chiến mới càng biến cơ
169 - Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170 - Biết ray tay miệng biếng nói không
171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175 - Nặng lòng thật có vĩ kinh
176 - Cao tay mới gẫm biết tình năm nao
177 - Trên trời có mấy vì sao
178 - Đủ no biền tướng anh hào đôi nơi
179 - Nước Nam thường có thánh tài
180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
181 - So mấy lời để tàng kim quỉ
182 - Chờ hậu mai có chí sẽ cho
183 - Trước là biết nẻo tôn phò
184 - Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185 - Xem đoài cung đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
187 - Nguôi lòng tham tước tham giàu
188 - Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 - Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
191 - Ai lấy gương vua U thủa trước
192 - Loạn ru vì tham ngược bất nhân
193 - Đoài phương ong khởi lần lần
194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
197 - ấy là những binh thù Thái Thái
198 - Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu

200 - Tái binh mới động thập thò liền sang
201 - Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
202 - Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205 - Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
206 - Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
207 - Thành câu cá, lửa tưng bừng
208 - Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
211 - Sang thu chín huyết hồng tứ giả
212 - Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
213 - Đua nhau đồ thán quần lê
214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 - Kẻ thì phải thủa hung hoang
216 - Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
217 - Kẻ thì mắc thửa hung tàn
218 - Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 - Điều thì làm chước xuất binh thủ thành
221 - Bời bời đua mạnh tranh giành
222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
224 - Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225 - Nào ai đã dễ nhìn U
226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
227 - Cây bay lá lửa đôi ngàn
228 - Một làng còn mấy chim đàn bay ra
229 - Bốn phương cùng có can qua
230 - Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
231 - Đoài phương thức có chân nhân
232 - Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
233 - Tìm cho được chốn được nơi
234 - Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
235 - Bốn bề núi đá riễu quanh
236 - Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
237 - Hễ đông nam nhiều phen tàn tạc
238 - Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
239 - Bắc kinh mới thật đế kinh
240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 - Chim hồng vỗ cánh bay cao
242 - Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
243 - Ai dễ cứu con thơ sa giếng
244 - Đưa một lòng tranh tiếng dục nhau
245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
246 - Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
247 - Cấy cày thu đãi thời mùa
248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai

250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
251 - Xem tượng trời biết đường đời trị
252 - Gẫm về sau họ Lý xưa nên
253 - Dòng nhà để lấy dấu truyền
254 - Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255 - Thần qui cơ nổ ở trời
256 - để làm thần khí thủa nơi trị trường
257 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
258 - Sông Bảo Giang thiên định ai hay
259 - Lục thất cho biết ngày dày
260 - Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
261 - Có thầy nhân thập đi về
262 - Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
263 - Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp
264 - Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265 - Ra tay điều chỉnh hộ may
266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
269 - Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270 - Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
271 - Ân trên vũ khí vân hành
272 - Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
273 - Bản đồ chảng sót cho ai
274 - Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275 - Vấn nền vương cha truyền con nối
276 - Dõi muôn đời một mối xa thư
277 - Bể kình tâm lặng bằng tờ
278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài


Chương Nhì

281 - Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 - Từ đinh đổi đời chí lục thất gian
285 - Một thời có một tôi ngoan
286 - Giúp trong việc nước gặp an thái bình
287 - Luận chung một tập kim thời
288 - Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
289 - Trượng phu có chí thời coi
290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
291 - Tài nầy nên đấng vẻ vang
292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy
293 - Kể từ nhân đoản mà đi
294 - Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 - Thử cho tay giúp ra dùng
298 - Tài này so cùng tài trước xem sao
299 - Trên trời kể chín tầng cao

300 - Tay nghe bằng một ti hào biết hay
301 - Hiềm vì sinh phải thời này
302 - Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
303 - Hợp đà thay thánh nghìn tài
304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305 - Nói ra thì lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Đương thời đời trị xoay vần được đâu
309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
310 - Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 - Trời xui những kẻ ắt gian
312 - Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
313 - Vua nào tôi ấy đã bày
314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 - Đua nhau bội bạn nghịch vi
316 - ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
317 - Tiếc tài gẫm được thời hay
318 - Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 - Tài trai có chí anh hùng
320 - Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 - Đi tìm cho đến đế cung
324 - Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
329 - Còn bên thì náu chưa xong
330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 - Đời ấy những quỉ cùng ma
332 - Chẳng còn ở thật người ta đâu là
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ý ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 - Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
342 - Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
344 - Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345 - Nhân dân vắng mạt bằng tờ
346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 - Vua còn cuốc nguyệt cày mây
348 - Phong điều vũ thuận thú rày an dân
349 - Phong đăng hòa cóc chứa chan

350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 - Chính cung phương khảm vầng mây
352 - Thức thay thiên tử là nay trị đời
353 - Anh hùng trí lượng thời coi
354 - Công danh chấn ngại tìm đòi ra đi
355 - Tìm lên đến thạch bàn khê
356 - Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
357 - Nhìn đi nhìn lại cho tường
358 - Chửa có sinh vương đâu là
359 - Chẳng tìm thì đến bình gia
360 - Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
361 - Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
363 - Hữu hổ quấn khúc giang này
364 - Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
365 - Ở xa thấy một con voi
366 - Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
367 - ấy điềm thiên tử về chầu
368 - Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
369 - Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 - Đến đời thịnh vượng còn lâu
372 - Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho đông bắc nam tây
374 - Muốn làm tướng súy thì xem trông này
375 - Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
379 - Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380 - Rung bắc sang nam đông tới tây
381 - Tan tác kiến kiều an đất nước
382 - Xác xơ cổ thụ sạch am mây
383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 - Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385 - Một gió một yên ai sùng bái
386 - Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
387 - Con mùng búng tít con quay
388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Mầm sấm động hỏi người đông lân
391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 - Biết rằng ai có du phần như ai
393 - Bắt tay nằm nghĩ dông dài
394 - Thương người có một lo hai phận mình
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư bình
398 - Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh

400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
402 - Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Chức đáo dương đầu mã vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập trường an
414 - Bảo Giang thiên tủ xuất
415 - Bất chiến tứ nhiên thành
416 - Lê dân bảo bảo noãn
417 - Tứ hải lạc âu ca
418 - Dục đức thánh nhân hương
419 - Quá kiều cư bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch sinh ngưu lang
422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân
426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh
430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái bình
434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Địa giới sĩ vị bạch
437 - Thủy trầm nhi bắc kinh
438 - Kỷ mã xu dương tẩu
439 - Phù kê thăng đại minh
440 - Trư thử giai phong khởi
441 - Thìn mão xuất thái bình
442 - Phân phân tùng Bắc khởi
443 - Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử suất
445 - Bất chiến tự nhiên thành
446 - Thủy chung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 - Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương

450 - Danh vi nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại ngưu lang
452 - Mại dử lê viện dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang
454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dử thần thức thụy
457 - Thụy trình ngũ sắc quang
458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Đạo đức thực dữ đương
462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ viên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn đoài cương bất trường
466 - Quần gian đạo đanh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch tánh hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương
472 - Kiền khôn phú tải vô lương
473 - Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Đảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân
477 - Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 - Đoài phương phước địa giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
482 - Trần công nải thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất y chu
485 - Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 - Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487 - Đông tây vô sứ nam thành quốc gia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét