Trang

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

Hàng hải nước Việt xưa

Khoảng trống văn học dân ta: Những thành tích hàng hải
Vũ Hữu San (Doremon360 tổng hợp và bổ sung thêm tư liệu, hình ảnh)
1 - Trong những thành tích hiển hách của tiền nhân
Ngày nay, trong những buổi lễ lạc, đa số các vị được lên diễn đàn để nói thì hầu hết đều ca tụng những chiến công hiển hách của của tiền nhân. Tuy vậy, qua hàng trăm, ngàn bài diễn văn người ta chưa thấy hoạt động hàng hải của tổ tiên được nhắc nhở tới.
Trong những công trình dựng Nước, mở Nước, giữ Nước trên vùng đất nước quê hương mà sông biển bao trùm khắp nơi, sự hy sinh vì nghĩa vụ với "thân xác tử sĩ chìm theo sóng nước" nhiều hơn số người "da ngựa bọc thây". Cũng ít ai từng nhắc tới công lao người chiến binh suốt những năm tháng dài đấu sức với ba đào, thi gan cùng sương gió ngoài khơi để bảo vệ hải biên, giữ gìn an ninh cho hệ thống đường thủy, hay khuyếch trương hải thương mong cho nước giàu, dân mạnh...
Và tuyệt nhiên, chưa bao giờ có ai nhắc nhở tới thành tích hiển hách mà chúng tôi xin kể sau đây: những chuyến đi xuyên dương nhiều ngàn năm trước của tiền nhân Việt tộc.
2 – Thương mại và văn hoá
Trong khi sinh hoạt với sông biển, người Việt cổ đã tạo dựng được nhiều thành tích, những truyền thống hàng hải lâu đời của dân tộc vẫn còn tồn tại đến ngày nay, cho dù hầu hết thành tích của tiền nhân đã bị thời gian chôn vùi vào quên lãng. Thật thế, ảnh hưởng của các nền văn minh cổ thời Hoà Bình, Đông Sơn rất bao la, vết tích các nền văn minh này đi lên Đài Loan, Nhật Bản, Tây Bá Lợi Á; qua Phi Luật Tân, vùng Đa Đảo; xuống Nam Dương, Úc Châu và sang tận Mã Đảo, Phi Châu. Công việc chuyển vận hải thương đã lôi kéo theo sự truyền bá văn hoá trên các bờ biển và hải đảo xa vắng mà đôi chân con người không thể tới được bằng đường bộ.
3 – Người Việt và biển cả
Sau đây người viết xin trình bày khả năng hàng hải của dân ta qua những lời phê bình của người Tây phương. Nhiều lời khen ngợi dân Việt đi biển được dẫn lại trong sách của Jean Chesneaux, cuốn "Contribution à l'histoire de la nation Vietnamienne", bản dịch Anh ngữ: "The Vietnamese Nation - Contribution to a History"
Nhật ký của George Windsor Earl :
Nhà hàng hải George Windsor Earl viết trong sổ nhật ký của ông trên đường dẫn lộ một chiếc thương thuyền đến Singapore vào đầu thế kỷ thứ 18 như sau: "... Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền của chúng tôi bị gẫy đổ cả cột buồm. Thời tiết đã tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra 6 chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam đang giương hết mọi cánh buồm tiến thẳng tới trước. … Tôi nghĩ (lời Thuyền trưởng George Windsor Earl): Mấy người Việt đó đang lèo lái những con thuyền bé nhỏ mà cách thức vận chuyển để vượt sóng lượn gió thật là tài tình. Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào của toàn khu vực Âu Châu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió Biển Đông vào giữa mùa bão tố. Đã qua 20 năm rồi, rất ít thương thuyền nào của công ty chúng tôi dám thử hải hành trong giữa mùa biển động như vậy..."
Ông còn viết thêm nhiều câu rất cảm động, thí dụ như: "Thật thú vị nếu được quen biết với những người Việt Nam này. Tính tình họ năng động, ngôn từ lại hoạt bát như dân Pháp. Khi đến buôn bán ở Singapore, họ đã phải khéo léo trong sự cạnh tranh. Hoàn cảnh sinh hoạt của họ thật sự khó khăn vì chính sách bế môn tỏa cảng của triều đình Việt Nam. Họ rất can đảm khi xuất dương. Thuyền họ lại không trang bị vũ khí và như thế có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải tặc". Những câu khen ngợi đó có thể nói là không tiếc lời. Sự suy tôn về nghề nghiệp, đề cao về nhân cách cùng khâm phục lòng can đảm như vậy rất hiếm hoi trong giới hành thủy.
Thủy thủ Việt trong báo cáo của John Crawfurd :
Bác sĩ Crawfurd đươc chính phủ Anh đề cử làm đại sứ tại hai kinh đô Bangkok và Huế năm 1822. Tuy bị thất bại trong công tác thành lập một thương cảng tại Việt Nam, ông vẫn giữ những cảm tính sâu đậm với giới hành thủy Việt Nam. Bác sĩ Crawfurd có nhận xét về khả năng hàng hải của dân ta trong mục báo cáo số 145 như sau: "... Nếu như người Việt Nam được phép tự do viễn dương thì người ta không thể tìm đâu ra được một sắc dân nào nữa ở Á Đông mà lại có đầy đủ những đức tính để trở thành các nhà hàng hải siêu đẳng như vậy... Tính họ không những cương quyết, năng hoạt động, tôn trọng hạn kỳ, mà lại luôn luôn vui vẻ chiều lòng khách hàng... Ghe tàu của họ được các nhà chuyên môn xét đoán và mô tả như là những loại thuyền tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á, kiến trúc rất chắc chắn, đủ sức hải hành ngay cả những khi thời tiết xấu nhất."
Thêm vào các nhân chứng (người Anh) này, hai người Pháp (Chaigneau và Vannier) đã làm quan trong triều đình Việt Nam và cũng đã từng làm hạm trưởng các chiến hạm loại trang bị 16 súng đại bác với thủy thủ đoàn hoàn toàn Việt Nam, bảo đảm rằng họ là những thủy thủ can đảm và thật lành nghề.
Nhận xét của John White :
Thuyền trưởng White là một trong những nhà hàng hải Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1820. Ông có dịp thăm viếng thủy xưởng sau này là Hải quân Công xưởng Sài Gòn, cho biết người Việt Nam là những nhà kiến trúc tàu bè có khả năng kỹ thuật cao nhất, hoàn tất công tác thật chính xác.
John White còn xem xét các ván gỗ đóng thuyền, Ông rất ngạc nhiên là những hải xưởng Việt Nam thời đó lại có đầy đủ vật liệu cho việc kiến trúc đến cả loại tàu lớn nhất như Frigate (tức loại chiến hạm chủ lực của Hải quân Hoa kỳ sử dụng vào đầu thế kỷ 19). Ông tận mắt nhìn thấy một tấm gỗ dài rộng tới 120 ft x 4 ft . Vì khổ này lớn quá, gỗ lại rất tốt; vị Thuyền trưởng Mỹ suy ra rằng rừng Việt Nam sản xuất được những loại cây gỗ dùng đóng tàu thuyền rất tốt.
4 - Hải sử và Bách khoa
Chính sử của nước ta ghi lại được một số hoạt động hàng hải lẻ tẻ, nhưng tiếc rằng phần viễn duyên rất ít tài liệu và đặc biệt các hoạt động xuyên dương của dân ta chưa bao giờ được đề cập đến. Những người ngoại quốc, khi muốn tìm hiểu về truyền thống hàng hải của người Việt trong cổ thời, đã gặp nhiều khó khăn.
Cho đến hậu bán thế kỷ 20 này mới có một người Việt Nam đầu tiên viết một cuốn sử nhỏ bằng ngoại ngữ với mấy đoạn đề cập sơ sài đến các hoạt động hải thương của dân ta ở Nam Hải trong thời Bắc thuộc. Đó là ông Lê Thanh Khôi với cuốn "Le Vietnam, Histoire et Civilisation", xuất-bản năm 1955 ở Paris, France. Vậy mà ông còn bị một tác giả khác cũng người Việt Nam phê bình là nói quá đáng. Không phải chỉ người nước ngoài không biết đến nền cổ hàng hải Việt mà có cả những người Việt cũng khiếm khuyết những kiến thức tương tự như vậy !
Muốn đi tìm những thành tích của cổ nhân, chúng ta cần cố công tìm thêm tài liệu qua sách vở quốc tế. May mắn thay, trong cộng đồng nhân loại không thiếu những học giả quan tâm nghiên cứu tới những vấn đề hệ trọng này.
Bách khoa từ điển The New Encyclopaedia Britanica xuất bản những năm gần đây, về từ mục Dongson Culture ghi như sau: "Đông Sơn không những chỉ riêng là văn minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa. … Người Đông Sơn là dân đi biển, có thể đã hải hành và thương mại khắp vùng Đông Nam Á Châu".
Trống đồng Đông Sơn tìm được khắp khu vực Đông Nam Á.
Chứng tích quan trọng của nền văn hoá Đông Sơn ghi nhận trên các trống đồng cũng cho ta nhìn thấy một phần nào khía cạnh truyền thống hàng hải của cổ nhân. Quang cảnh được trình bày rất phong phú trên hầu hết các cổ vật là sự sinh hoạt trên thuyền. Có người chuẩn bị tác chiến, có người như nhảy múa cùng bầy chim, đặc biệt lại có người giã gạo. Chắc đây là những chuyến đi xa, kéo dài hàng tháng đến những vùng đất xa lạ nên họ vừa đi vừa chuẩn bị thức ăn.
5 - Hải trình Địa Trung Hải / Đông Dương
Trong sách "The Junks & Sampans of the Yangtze", G. R. G. Worcester đã viết về hải lộ thông thương từ Âu Châu qua Ả Rập, Ấn Độ đến vịnh Bắc Việt, cho rằng Hà Nội đúng là trạm hải hành cuối cùng giữa Tây phương và Đông Á trong cổ thời. Worcester hình dung một "hải trình tơ lụa" như sau: "...có thể đã có những ảnh hưởng qua giao tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa Trung Hải, vì người ta tin rằng những thương gia Phoenicia trên hải trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông Dương vào năm 650 TTL". Vào thời đó, nước Văn Lang của chúng ta đang lúc thịnh thời và do các vua Hùng (2879-258.TTL) trị vì. (TTL : trước Tây lịch ~ BC)
Những hải trình tơ lụa giữa Địa Trung Hải và Đông Á mà trạm chót là Cattigara. (Vẽ theo "Exploring Our Country", Stuart Hamer, Follett, Ahlschwede, Gross, Sacramento 1956: 25.)
Hán sử chép rằng vua Vũ Đế tạo lập một đường biển tới Ấn Độ và vào năm 140 TTL, chuyến hàng gồm có vàng và tơ lụa được đem tới một thành phố gần Madras. Phương tiện chuyên chở cho đường hàng hải này do người Việt (mà người Trung Hoa thường gọi là Nam Man) phụ trách.
Con đường tơ lụa ( Silk Road in Greco Roman times )
“Hải trình” tơ lụa với hải cảng Cattigara. Silk Road (maritime trade route)
Chúng ta đọc được hai ý kiến chính xác sau đây:
Lin Yu, viết trong nguyệt san "T'ien Hsia Monthly", cho ý kiến rằng lúc xưa người Man đi tàu biển. Cho đến cuối triều đại Lưu Tống (Nam triều, năm 420-479), có thể người Trung Hoa mới bắt đầu đóng tàu thuyền cho việc hải thương.
Friedrich Hirth và W. W. Rockhill, tác giả của nhiều sách và bài khảo cứu về hàng hải Á Châu, quả quyết rằng vào đầu công nguyên, không thể có một tàu thuyền nào của Trung Hoa hoạt động trong Ấn Độ Dương, mặc dù người Trung Hoa thường quá giang theo tàu thuyền của dân Nam Man.
6 – Hải cảng Cattigara trên bản đồ Ptolemy
Sau cuộc viễn chinh của Alexandre Đại đế (336-323 TTL) sang Ấn-Độ, nhiều giao tiếp đã xảy ra giữa Á-Âu, người Hy Lạp biết thêm nhiều sinh hoạt của người Á Châu. Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia, Ptolemy (90 AD -168 AD) phát triển môn địa lý, viết sách và hình dung ra một bản đồ thế giới mà tận cùng về phía Đông Đông Nam là bán đảo Vàng Chersonese và hải cảng Kattigara (kinh độ 117 độ Đông, vĩ độ 8 độ Nam – Kinh tuyến gốc lấy từ đảo Ferro Islands of the Blest - quần đảo Canary.) Nhiều người cho rằng bán đảo Vàng là Đông Dương và Kattigara (hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long Biên (Lugin) hay Hà Nội ngày nay.
Bản đồ Ptolemy
Vị trí hải cảng Cattigara trên bản đồ Ptolemy.
Nói riêng về từ ngữ hàng hải, ta có thể hiểu theo như nghĩa người Bắc Âu thường dùng: Kati là tàu thuyền, Gata là hải đạo. Như vậy chữ Kattigara nghĩa là chỗ hải cảng tàu thuyền hải hành tới.
Ông Bình NguyênLộc không thỏa mãn với vị trí ước đoán cho rằng Kattigara nằm trong vùng Kẻ Chợ Hà Nội, mà nghĩ rằng Kattigara có thể là thành phố ghe thuyền. Ông suy ra tên Kattigara chính là địa danh của thương cảng Hòn Gai như ta vẫn gọi ngày nay.
Vị trí Hòn Gai trong Vịnh Hạ Long
Tác giả sách "Ancient India as Described by Ptolemy" là J. W. McGrindle, nơi trang 9, ghi chú : "Trung Hoa trong gần 1,000 năm đã được biết như là quốc gia nằm trong nội địa Á Châu (inner Asia)". Tại trang 26, ông viết: "... với lý thuyết rằng Kattigara, điểm xa nhất về phía Đông tới được bằng đường biển, phải nằm gần hay trên cùng kinh tuyến với nước Trung Hoa, điểm xa nhất đi đến được qua đất liền".
Vị trí Cattigara trên các bản đồ cổ Âu Châu (phỏng theo "Ancient History Atlas" Michael Grant, Cartograph by Arthur Bank, Mcmillan Publishing Co., Inc., New York, 1971: 75)
Từ trước thời Bắc thuộc, lưu vực sông Hồng, sông Mã đã là những trung tâm hàng hải cùng thương mại phồn thịnh, hàng hoá đi khắp nơi và có liên lạc thường xuyên với Tây phương. Mối giao thương này chắc chắn sâu đậm đến mức độ tất cả những bản đồ thế giới do Tây phương ấn hành suốt 13 thế kỷ sau đó, đều cố ghi địa danh Kattigara. Tuy vậy vì chưa biết sự hiện hữu của Mỹ Châu và Thái Bình Dương nên trên tất cả bản đồ cũng như cầu đồ, vị trí của Á Đông được vẽ quá gần với Âu Châu. Các hải đồ này cho thấy hình dạng bán đảo Vàng thật sai lầm kèm với vị trí hải cảng nước ta nằm trên tọa độ quá xa về hướng Đông (sai tới 55 độ kinh tuyến) và cũng quá xa về hướng Nam (sai tới 30 độ vĩ tuyến).
Lý do sự lầm lẫn lớn lao này của Ptolemy được Robert R. Newton phân tách và giải đáp chính xác trong "The Crime of Claudius Ptolemy" ấn hành năm 1977.
Dù Ptolemy thật sự mắc “trọng tội" (crime) hay không, Kattigara vẫn nằm trong tâm tưởng những nhà hàng hải Tây phương thời Trung cổ, nhiều ít thúc đẩy việc thực hiện những chuyến viễn hành và gián tiếp đưa đến biến cố Columbus tìm ra Mỹ Châu. Ai ai bên Âu Châu cứ cũng tưởng rằng nếu dong buồm hải hành về hướng Tây-Tây Nam là sẽ tới được hải cảng Cattigara. Họ nghĩ Á Châu nằm rất gần đâu đó ở bờ bên kia của Đại Tây Dương !
Những hải cảng nằm trên “hải trình gia vị” giữa Địa Trung Hải và Đông Nam Á (The spice trade from Mediterranean to South East Asia). Hải cảng Cattigara được xác định tại vịnh Bắc Việt.
Cho đến khi qua đời vào năm 1506, Kha Luân Bố (Christopher Columbus) không bao giờ từ bỏ niềm tin tưởng là ông đã thực sự đặt chân tới ven bờ biển Á Châu. Xem xét những tài liệu mà giai đoạn đó còn để lại, người ta thấy các nhà hàng hải Âu Châu thời Trung Cổ bận tâm rất nhiều đến việc làm sao đưa tàu tới được Kattigara.
Chắc chắn là phải có sự phán quyết nào đó của Kha Luân Bố rằng "hải cảng ước mơ" nằm gần đâu đó trên hải trình thám hiểm, nên người em của ông là Bartholomew Columbus (Bartolome Colon) mới ghi tên Cattigara một cách phỏng định (?!) lên bản đồ vùng đất xa lạ "Tân Thế Giới", tức Nam Mỹ Châu.
Magellan cũng lưu tâm đến vị trí Cattigara rất nhiều. Sau khi từ Đại Tây Dương vào được Thái Bình Dương, ông dẫn hải đội dọc theo bờ biển Chí Lợi, viên thư ký giữ tài liệu hải hành của ông là Pigafetta có vẻ bi quan khi nói rằng :"Cái mũi đất Cattigara mà ngay cả những nhà "Vũ trụ học" (!) cũng chưa nhìn thấy thì lúc này không những chẳng thể nào tìm ra mà chúng ta cũng không thể tưởng tượng được là nó ở vào chỗ nào!"
Trong khi băng ngang qua Thái Bình Dương, Magellan ra lệnh cho đoàn tàu đi hơi chếch lên phía Bắc bán cầu để tiếp tục hy vọng tìm ra cảng mơ ước này nhưng cuối cùng đã thất bại. Đoàn thám hiểm gồm toàn những tay lang bạt kỳ hồ đó, không những chẳng thấy Cattigara, mà nhiều người đã cùng chung số phận với Magellan, đành bỏ xác lại ở vùng đảo Phi Luật Tân.
Thật lạ lùng là sau chuyến đi của Marco Polo (thế kỷ 13), các nhà địa lý đã không sửa được bản đồ cho đúng, mà cả sau khi Magellan mất mạng trên đường đi vòng quanh thế giới (năm 1521), tọa độ địa dư của Kittigara vẫn giữ nguyên như cũ. Địa danh hải cảng này do đó được tiếp tục ghi trên lục địa Mỹ Châu trong nhiều thế kỷ.
Hình phác thảo bởi Bartolome Colon (Columbus) năm 1505. Cattigarra được phỏng định là ở Nam Mỹ.
Hình của Bartolome được Grasso vẽ lại.
Dựa theo bản vẽ của Bartolome, Grasso vẽ lại hình thể địa cầu "giả tưởng". Từ phải sang trái: Âu Châu, Tân thế giới, Cattigara (Á Châu), Ấn Độ, và Phi Châu.
7 – Thương mại ở Nam Hải
Đã có nhiều sách do người Âu Á Mỹ đề cập đến các hoạt động thương mại vùng Đông Nam Á, nhiều ít nói tới những kỳ công của người Việt cổ trong ngành hàng hải, cận duyên cũng như viễn duyên.
Trong sách "Eighth Voyage of the Dragon - History of China's Quest for Sea Power", Hải quân Học hiệu Annapolis ấn hành năm 1982, Bruce Swanson đã mở đề chương 1 như sau: "Lịch sử hàng hải Trung Hoa trong ngàn năm qua biểu thị đặc tính nơi sự đối kháng giữa hai thực thể văn minh lớn: nước Tàu có tính cách lục địa, ảnh hưởng Khổng Tử và nước Tàu có liên quan đến biển. Nước Tàu ở phần trên bộc phát từ khi thống nhất trung tâm miền Bắc, gồm nhiều nước khác biệt hồi chiến quốc, vào năm 221 TTL. Suốt hai ngàn năm sau đó, hai triều đại nhà Hán (220 TTL.- 221) và nhà Đường (618- 907) đã biến đổi Trung Hoa thành một đế quốc tráng lệ, có căn bản văn hoá lục địa (landbased cultural empire)".
Sau đó Bruce Swanson lại mở đầu chương 2 với lời khẳng-định: "Thời đại hàng hải của Trung Hoa thực sự bắt đầu vào thế kỷ thứ 8, thứ 9 khi dân số miền Bắc nước Tàu tăng lên tới ba lần và khí hậu thay đổi làm suy giảm số lượng đất canh tác."
Trên quan điểm của một người Á Đông, Wang Gungwu đã làm một cuộc nghiên cứu về giao thương thời cổ trong biển Nam Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để phổ biến kết quả của công trình đó, cơ sở xuất bản Journal of the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát hành một tập sách nhan đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of the Chinese Trade in the South China Sea".
Wang mô tả khá đầy đủ về những hoạt động hàng hải trong khoảng 11 thế kỷ trước khi thành lập triều đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, sau khi đế quốc Nam Việt của nhà Triệu bị sụp đổ, dân Việt vẫn tiếp tục nắm giữ hầu hết ngành hàng hải dọc duyên hải hay đường viễn duyên đến các nước Đông Nam Á và Ấn Độ, như đã từng nắm giữ trước kia. Đặc biệt hải cảng sầm uất hàng đầu vùng Đông Nam Á vẫn là Long Biên (Hà Nội ngày nay) với vùng hậu cảng trù phú nhất là quận Giao Chỉ. Quận này đóng góp thuế má cho hoàng đế Trung Hoa rất đáng kể, số dân đinh của Giao Chỉ cao hơn tổng số tất cả số dân đinh của 6 quận khác còn lại ở miền Nam Trung Quốc cộng chung. Mọi hàng hoá chuyên chở đường biển ra vô nước Tàu đều từ Giao Chỉ mà ra vô. Đôi khi Quảng Châu được chia sẻ một phần nhỏ hoạt động hàng hải nhưng người Việt cũng vẫn luôn luôn nắm giữ hệ thống thương thuyền. Phải đợi đến thời Ngũ Đại (907-960) và sơ diệp nhà Tống (960-1279) những thương buôn mới, người Tàu Việt (Chinese- Yueh) bắt đầu xuất hiện. Họ là người Việt bị Tàu hoá hay người Tàu tiêm nhiễm thói thích biển của người Việt bằng cách lập nghiệp chung với họ.

8 - Đường biển đi Đông Nam Á và đi Tây Bá Lợi Á
Người Tây phương thường nói "cứ có thuyền là đi biển được". Người Việt đóng được thuyền; mà thuyền người Việt lại thật tốt. Việc hải thương của dân Việt trong thời thượng cổ cùng các dân cư khác nằm quanh vùng Biển Đông rất phồn thịnh.
Trước Tây lịch 6, 7 thế kỷ, chiến thuyền Lạc Việt thời Hùng Vương đã có hai sàn, những cây nỏ thần được thiết trí ở trên, người chèo và lái ở dưới. Nhiều kiểu thuyền trang bị đầy dủ cả bánh lái phía đuôi, mái chèo lái bên cạnh, cây xiếm cố định ... Hình ảnh được ghi khắc trên nhiều chiếc trống đồng tìm thấy tại lưu vực các sông Mã, sông Hồng.


Một số chiến thuyền Đông Sơn


Những hải trình thương mại tại Đông Nam Á thời cổ đại (500.BC – 750 AD) Ancient trade routes )
Cùng thời này, Trung Hoa đang trải qua giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc. Tại một nước Việt khác mà vua là Việt Vương Câu Tiễn, thủy quân rất mạnh. Quân đội nhà vua thường được chuyển vận bằng đường thủy để hành quân xa căn cứ hàng trăm hải lý.

Trống đồng Đông Sơn tại Đông Nam Á ( Dong Son bronze drums in South East Asia )


Họa tiết mặt trống Đông Sơn tại Battambang (Cambodia), Klang & Tembeling (Malaysia)

.
Trống đồng Đông Sơn tại Lào
.
Trống đồng Đông Sơn tại Cambodia
.


Trống đồng Đông Sơn tại Thailand

.
Trống đồng Đông Sơn tại Sungai Lang (Malaysia)
.
Trống đồng Đông Sơn tại phía đông Indonesia (Dong Son bronze drums in eastern Indonesia)
Trồng đồng Đông Sơn tại tại Selayar, Indonesia
.
Trống đồng Đông Sơn tại Lubuan Meringgai và Panca Tunggal Jaya (Indonesia).


Thạp đồng Đông Sơn tại đảo Flores, Indonesia.



Rìu đồng Đông Sơn tại Indonesia.
9 - Hải trình đi Hồng hải và Địa Trung Hải
Trong số các nhà nghiên cứu hàng hải có một học giả người Đức, Ông Herrmann A. đã theo dõi những hoạt động viễn dương của dân Việt thời cổ. Ông cho rằng họ buôn bán với bến Adulis ở Hồng Hải mà sử Tàu ghi là Huang Chih (ngày nay là hải cảng Massawa.)
Tài liệu của Ông Herrmann viết vào năm 1913 vẫn còn được bàn cãi. Gần đây, khi các giả thuyết "Đông Nam Á, một trong những cái nôi văn minh của nhân loại" bắt đầu được phổ biến rộng rãi, Tiến sĩ Wilheim G. Solheim II lấy căn cứ vào chứng tích khảo cổ mới nhất, tin tưởng rằng đã có những liên lạc trực tiếp giữa Việt Nam và Địa Trung Hải hơn 2,000 năm trước đây. Nhờ hải thương, văn hoá được trao đổi giữa hai vùng Ba Tư (Persia)/ Trung Đông và Việt Nam/ Đông Dương. Những ảnh hưởng sâu đậm trên một số khía cạnh sinh hoạt kể từ trước Công Nguyên đã được học giả Shahab Setudeh Nejad (1996) tường trình hồi gần đây trong bài "Cultural and Cosmological Impact of Iranian Civilization in Vietnam and Peninsular Areas of Southeast Asia".



10 - Đường biển tới Phi Châu

Các nhà khảo cứu Âu Á Mỹ ngày nay nghiên cứu các sách sử Trung Hoa, Ấn Độ, La Mã để tìm hiểu về thương mại ở Ấn Độ Dương trong những thiên kỷ trước Tây lịch. Nhiều người tin tưởng rằng dân Việt cổ là những nhà thương buôn gan dạ, đã vượt biển tới các đảo ngoài Ấn Độ Dương và đi xa tới tận Ethiopia thuộc Phi Châu.


The Spice Route in Greco-Roman times
Sách sử đầu tiên ghi chép đến những chuyến đi Á Phi này là pho Tiền Hán Thư của Ban Cố và Ban Chiêu. Những đoạn có ghi nơi khởi hành và bến quay về của Sứ Tàu quá giang như sau: "Từ Nhật Nam, Giao Chỉ đi bằng thuyền buôn người Man Nam năm tháng sau tới xứ Tu Yuan... Nếu không bị cướp hay gặp bão, nhiều chuyến đi dài tới nhiều năm... Người ta nói phía Nam xứ Huang Chih là xứ Ssu Chhêng Pu. Đến chỗ này thì Sứ Hán quay về".
Hải trình “gia vị” với hải cảng Cattigara ( The Spice Route in Greco Roman times )
11 - Đường biển về hướng Đông
Những con đường biển người xưa sử dụng đến nay còn ghi lại trên các sinh hoạt của cư dân tại đấy. Thế giới hàng hải cổ thời cho thấy đã có một vòng cung liên tục ghi nhận ảnh hưởng của thuyền bè và văn hóa nước lên nhiều khu vực:



Hình thuyền thân cong, Mái nhà cong và Totem được tìm thấy trên khắp vòng cung Thái Bình Dương trong cổ thời. (Hình lấy từ bản đồ của Covarrubias, 1940: thuyền thân cong, totem, nhà ở Bắc Mỹ và New Zealand). Mái nhà cong và thuyền trên trống Đông Sơn tại Việt Nam.
Hình nhà trên trống đồng Hoàng Hạ
.
Hình nhà trên trống đồng Ngọc Lũ
.
Batak, Indonesia
.
Tongkonan – Toraja (Indonesia)
.
Tongkonan, Indonesia
.
Trong cuốn sách "America en la Prehistoria Mundial" (Mỹ Châu trong Thế giới Tiền sử), Dick Edgar Ibarra Grasso đưa ra quan niệm là không thể có sự cô lập ở Mỹ Châu. Sách gồm 6 chương thì có tới hai chương chú tâm bàn luận đến ảnh hưởng Đông Nam Á trên đất Mỹ Châu. Chương I bàn tới các lien hệ văn hoá xuyên dương mà Đông Sơn là một nguồn chính. Đến chương IV, Grasso đưa ra hai giả thuyết về:
(1) Những thương nhân Cattigara đã mang kỹ thuật luyện kim, nhất là đồng và vàng, tới Nam Mỹ.
(2) Có nhiều di dân đến Tân thế giới bằng cách dùng hải lộ xuyên Thái Bình Dương.


Đã có nhiều nhà nghiên cứu viết tiếng Tây Ban Nha phát biểu cùng ý kiến với Grasso. Học giả Pedro Bosch Gimpera cho rằng nền văn minh Đông Sơn đã mang lại những hiểu biết về kỹ thuật luyện kim cho vùng Chavin ở Peru.
Edwin Doran nổi tiếng nhờ đã khám phá ra nhiều hiểu biết mới lạ về khả năng vượt đại dương của bè và ghe nhỏ. Ông và Stephen Jett đồng ý với nhau là liên lạc giao tiếp xảy ra trước nhất giữa Á và Mỹ Châu có thể qua phương tiện là những chiếc bè chạy buồm có gắn cây xiếm như thường thấy ở trung phần Việt Nam và Đài Loan.

Hình trên: Thuyền Đông Sơn, ngoài 2 mái chèo để lái ra (1), còn có 2 trang cụ như cây xiếm dùng chống giạt (2). Cột buồm nằm ở nửa phần thuyền phía trước (3).
Hình dưới: Ghe Nang ở trung phần Việt Nam với giả thuyết về sự phát triển bánh lái và cây xiếm từ những trang cụ đã có từ cổ thời.


Robert Von Heine Geldern trong suốt một phần tư thế kỷ kể từ 1939, đã viết rất nhiều về giao tiếp Á Mỹ. Ông liệt kê thành hệ thống những điểm tương đồng, lưu tâm khá nhiều đến nền văn minh Đông Sơn, ông cho rằng những dân đi biển ở Đông Á tới Mỹ Châu trước hết.
Kuno Knobl, một phóng viên Đức làm cho đài truyền hình Úc, sau khi thấy "chùm dây buộc nút" (knotted cords - kết thằng) trong viện Bảo tàng ở Huế giống y hệt loại Quipu của Peru, nhìn nhận ra rằng đã có sự giao tiếp trực tiếp giữa hai nơi. Để chứng minh niềm tin của mình là đứng đắn, Knobl đứng ra quyên góp tiền bạc, đóng thuyền buồm theo kiểu cổ thời Đế quốc Nam Việt với thủy thủ đoàn 8 người từ Hồng Kông đi Mỹ Châu. Con hà (teredo), một loại sâu gỗ thân mềm, đục thủng ván gỗ làm hư hỏng vỏ thuyền trước khi tới bờ biển Mỹ Châu, phải nhờ thương thuyền cứu giúp. Sách viết bằng Đức ngữ, nhan đề "Thái Cực", bản dịch Anh ngữ: Tai Ki, Journey to the Point of No Return.

Quipu
Tiến sĩ Gunnar Thompson sáng lập Nu Sun institute, cũng dự trù thiết lập một bảo tang viện về viễn dương, một trung tâm nghiên cứu về một Thái Bình Dương hoà bình và một tờ báo định kỳ, xuất bản mỗi ba tháng. Sẽ có một chuyến hải hành hoà bình tưởng niệm những lần Nu Sun vượt Thái Bình Dương. Cuộc đi này sẽ dùng tàu thuyền kiểu Á Đông, khởi hành từ Đông Dương qua Nhật, Tây Bá Lợi Á, Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Mễ Tây Cơ, El Salvador, Guatemala, Nicaragua và trở lại, qua ngả Polynesia.
Thompson viết sách "Nu Sun, Asian American Voyages 500 B.C", tin tưởng rằng người Á Đông, lãnh đạo bởi những nhân vật huyền thoại như Đô Đốc Nu Sun, đã hải hành tới Guatemala và Honduras khởi sự từ năm 500 TTL, thiết lập một thuộc địa thương mại giữa dân bộ lạc Maya, họ sống thật hoà hợp và giúp phát triển nền văn minh ở Tân thế giới. Công trình biên khảo của tác giả rất công phu, đặc biệt cung cấp nhiều hình vẽ chi tiết, trải dài khắp cả cuốn sách, chứng minh hung hồn sự thật hiển nhiên về giao tiếp Á Mỹ.
Truyền thống hàng hải Cổ Việt, văn minh Đông Sơn được đề cập đến rất nhiều. Theo Thompson, con đường hàng hải Á Mỹ mà cổ nhân sử dụng trên Thái Bình Dương là theo chiều kim đồng hồ, với dòng nước và gió mùa rất thuận lợi cho các tàu thuyền buôn bán qua lại suốt thời gian dài nhiều ngàn năm.
Vì than phục học thuyết xuyên dương của Joseph Needham, Tim Severin đã quyết tâm minh chứng rằng người Á châu đã tới Tân thế giới nhiều ngàn năm trước đây. Nhà văn Ái Nhĩ Lan này rất ưa thích việc khảo cứu hàng hải.
Chiếc bè của Severin được đóng tại Sầm Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam) gồm có 220 cây luồng buộc lại với nhau bằng những giây leo trong rừng dài tới 46km, đặc biệt không dùng đến một chiếc đinh nào bằng kim loại. Thủy thủ đoàn gồm có 5 người, trong đó có một người Việt Nam, đã lái chiếc bè này bằng cách điều chỉnh độ nông sâu của 10 chiếc xiếm. Họ đã hải hành qua 5,500 hải lý, tức là gần hết hải trình xuyên Thái Bình Dương 6,500 hải lý thì chiếc bè bị bể.



Tim Severin vượt biển Thái Bình Dương từ Hồng Kông bằng bè Sầm Sơn.
Sầm Sơn, nơi chiếc bè được đóng.
Bè của Tim Severin.
12 - Những hải lộ thời Hậu Băng Đá
Thủy vận là yếu tố thiết yếu cho nền văn minh nhân loại. Âu Á xem ra khó gặp gỡ nhau, nếu không nhờ những cánh buồm no gió. Và nếu không có bánh lái gắn vào đuôi tàu thuyền, Mỹ Châu có thể vẫn còn là lục địa xa lạ đối với nhân loại sinh sống tại Cựu lục địa.
Tuy vậy còn có nhiều khía cạnh quan trọng hơn nữa về việc chuyển vận trên biển, đặc biệt ngay trong buổi bình minh của văn minh nhân loại.
Năm 1944, R. Buckminster Fuller cho ra mắt một tập tài liệu nhan đề 'Fluid Geography' căn cứ vào những quan sát và kinh nghiệm của nhiều năm lái thuyền buồm. Fuller tuyên bố đã khám phá ra những hải lộ con người từng sử dụng hàng chục ngàn năm trước. Những kết quả nghiên cứu này xem như rất lạ vào thời đó và vẫn còn được coi là mới đến hôm nay.
Bản đồ Thế Giới từ 25,000 BC đến 5000 BC (Genographic project)
Vào cuối thời Băng Đá, nước biển dâng lên, đồng bằng Sunda bị ngập lụt, theo Meacham, dân cư những vùng thấp chạy lên những vùng đất cao hơn. Dân Việt theo các dòng Hồng Hà (sông Hồng), Tây Giang,Dương Tử lập nghiệp tại vùng Đông Á.
Theo Buckminster Fuller, làn sóng di dân cũng đã dùng thuyền bè đi xa tới các đảo Thái Bình Dương, phía Tây qua tận Phi Châu. Tóm tắt các hải lộ di dân của Fuller như sau:
- Thế hệ đầu tiên của người đi biển Đông Nam Á, dùng bè thả trôi từ Biển Đông theo những dòng hải lưu đi dọc bờ biển đến những nơi thuận tiện trong vùng.
- Thế hệ thứ hai biết dùng buồm vuông loại căn bản chạy xuôi theo mùa gió Tây Nam vào mùa Hạ và Đông Bắc vào mùa Đông, đến bờ biển Trung Hoa và các đảo Nhật Bản.
- Thế hệ sau nữa, khi biết dùng buồm chạy vát có khả năng đi ngược chiều gió để hải hành đi khắp nơi. Trong giai đoạn này, các loại thuyền hai thân hay có thân phụ outriggers ra đời. Người Đông Nam Á mở ra những hải lộ đi các nơi trên hai đại dương Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Trên Ấn Độ Dương, người Đông Nam Á đã đi hết con đường cho đến tận biển Ba Tư và Địa Trung Hải.
Thuyết Buckminster Fuller về hải lộ phân tán dân cư: Khi nước biển dâng cao, từ Biển Đông di dân đi ra khắp nơi theo các giai đoạn phát triển của thuyền bè, buồm, xiếm...
Hỗ trợ cho thuyết này là thuyết của Paul Rivet .Nhà ngôn ngữ học này có lẽ là học giả kiên trì nhất trong việc cố gắng thuyết phục mọi người tin tưởng nơi chứng cớ ngôn ngữ khi muốn đi tìm sự thực về mối giao tiếp giữa Cựu và Tân thế giới.
Trong những công trình nghiên cứu của Rivet, người ta lưu tâm tới một khám phá hoàn toàn mới lạ về tầm quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ hàng hải. Sau khi minh chứng rằng có nhiều giống dân đã "khám phá" Mỹ Châu trước Kha luân Bố, Rivet căn cứ vào phương pháp từ nguyên ngữ học để đưa ra thuyết sau đây: "Từ trung tâm vùng Đông Nam Á, một thứ ngôn ngữ được truyền bá đi bằng đường hàng hải đến khắp nơi như Nhật Bản, Tasmania, Địa trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu".
Cuốn sách này lấy những từ ngữ Sumérien làm mốc rồi tìm một chuỗi danh từ tương đương của các thứ tiếng Melanesian, Polynesian, Indonesian, Munda, Mon-Khmer (Việt Nam), Australian, Tasmanian và Ainu để so sánh và đi đến kết luận rằng Đông Nam Á chính là nơi xuất xứ những chuỗi từ ngữ đó.
13 - Nhớ về các chuyến vạn lý xuyên dương
Chúng ta đồng ý với học giả Buckminster Fuller trong câu phát biểu có tính chất triết lý của Ông như sau: những dân tộc Đông Nam Á đứng biệt lập với những giống dân khác vì họ được thiên nhiên ban phát cho cái bản năng của dân nước, dân thuyền. Họ đã từng nắm được chân lý về sự kết hợp nhẹ nhàng trong các kiến trúc (principle of lightweight structural tensioning) áp dụng vào đời sống.
Nền văn học dân tộc, theo đúng nghiã phải phản ảnh các sinh hoạt của dân tộc ấy. Tuy vậy văn học nước ta đã có một khoảng trống quá lớn về Hàng hải. Ngày xưa, nền văn hoá "Nước" tiên tiến đã khởi sự tại vùng quê hương chúng ta, cho đến nay, sinh hoạt sông biển vẫn tiếp tục quan trọng biết nhường nào.
Vũ Hữu San

Văn hóa Đông Sơn - 85 Năm phát hiện và nghiên cứu
Nguyễn Quốc Bình
(9/5/2009) (Doremon360 bổ sung thêm tư liệu và hình ảnh)
Văn hoá Đông Sơn được đặt tên theo di tích khảo cổ Đông Sơn tìm được năm 1924 ở xã Đông Sơn thuộc vùng sông Mã, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam.
Những cuộc khai quật Đông Sơn đầu tiên được tiến hành từ năm 1924 đến năm 1932 dưới sự điều khiển của L. Pajot, một viên chức thuế quan và cũng là người sưu tầm cổ vật ở Thanh Hoá. Trong bản báo cáo năm 1929 về các chuyến khai quật kể trên, ông V. Goloubew, một học giả Pháp thuộc trường Viễn Đông Bác cổ, đã mệnh danh đó là: "Thời đại đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ" để ám chỉ nền văn hoá khảo cổ mới được khám phá này. Thuật ngữ “Văn hóa Đông Sơn” được nhà khảo cổ học người Áo R. Heine - Geldern đề xuất lần đầu tiên năm 1934.

Đèn đồng Đông Sơn.
Công cuộc nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam từ năm 1954 đến nay đã xác định được rõ ràng Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt, tồn tại khoảng gần một thiên niên kỷ, từ thế kỷ VIII trước Công Nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công Nguyên. Tuy nhiên ở nhiều nơi thuộc khu vực nền văn hoá này còn có thể kéo dài tới thế kỷ II - III sau Công Nguyên.
Văn hoá Đông Sơn ra đời là kết quả của sự hội tụ của nhiều văn hoá rực rỡ trước văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau trong quá trình chiếm lĩnh vùng đồng bằng các con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ yếu là lưu vực sông Hồng. Phạm vi phân bố của nền văn hoá Đông Sơn trên cơ bản là trong phạm vi ở miền bắc Việt Nam. Sự ra đời của kỹ thuật đồ sắt của thời kỳ này đã giúp cho kỹ thuật luyện đồng thau được hoàn thiện, đồ đồng thau Đông Sơn phát triển rực rỡ.
Trống đồng Đông Sơn ghi dấu khắp nơi tại Đông Nam Á.
Có khoảng 500 di tích đã được biết đến của văn hoá Đông Sơn hiện tồn tại ở Việt Nam, từ biên giới của Việt Nam với Trung Quốc về phía Bắc; với Lào ở phía Tây; và tỉnh Quảng Bình ở phía Nam. Trong đó bao gồm đủ các di tích khảo cổ tiêu biểu như các di chỉ cư trú; di tích mộ táng; di chỉ - di tích cư trú - mộ táng; di tích xưởng, di chỉ - di tích cư trú - xưởng; và nhiều nhất là các di tích tìm thấy hiện vật lẻ tẻ. Tỉnh phát hiện được nhiều di tích nhất là Thanh Hoá, với 80 địa điểm. Vùng đồng bằng sông Hồng có gần 130 di tích, trong đó một phần ba ở tỉnh Hà Tây. Ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình vùng sông Cả, địa phận cực nam của văn hoá Đông Sơn, có tới 54 di tích.
Các cuộc nghiên cứu khảo cổ ở Việt Nam từ năm 1954 đến nay đã xác định được là nền văn hoá Đông Sơn với chủ nhân là Âu Lạc cổ đã tồn tại được gần một thiên niên kỷ, từ cuối thời đại đồng thau sang thời đại đồ sắt. Bước chuyển sớm nhất từ văn hoá Quỳ Chử, nền văn hoá trước Đông Sơn trên thực tế đã diễn ra ở đồng bằng sông Hồng. Kết quả các xét nghiệm C.14 trên các mẫu tro than lấy từ tầng địa chất Đông Sơn sâu nhất ở các khu Đồi Đà và Chùa Thông, tiêu biểu của vùng sông Hồng là 2704 90 (ZK 305) và 2655 90 (ZK 309).
Như vậy người ta có thể xác định được văn hoá Đông Sơn ở vùng này bắt đầu từ khoảng thế kỷ VIII - VII trước Công Nguyên. Ở vài nơi trong vùng, các chuyên viên khảo cổ đã khai quật được những nông cụ bằng sắt và dấu tích của sự luyện sắt trong tầng lớp văn hóa Đông Sơn sớm. Ở vùng sông Mã giai đoạn chuyển tiếp từ Quỳ Chử sang Đông Sơn có phần muộn hơn, vào khoảng thế kỷ VII - VI trước Công Nguyên.
Lưỡi cày đồng.
Văn hoá Đông Sơn phân bố rộng nhưng vẫn mang tính thống nhất rất đậm nét. Trải qua 85 năm nghiên cứu, ngày nay chúng ta hiểu rằng đó là sự thống nhất giữa người Lạc và người Âu trong khối Việt cổ ở Đông Nam Á cổ đại. Môi trường và cảnh quan sinh thái của những vùng phân bố di tích Đông Sơn rất thuận lợi cho cuộc sống của con người khiến cho nhiều di tích văn hoá Đông Sơn được con người sử dụng kế thừa liên tục trong suốt 2000 năm (môi trường tối ưu đối với những người thuộc nền văn minh trồng lúa nước).
Sự thống nhất được thể hiện rõ nhất là sưu tập đồ đồng Đông Sơn. Một biểu tượng nổi bật của nền văn hoá Đông Sơn là trống đồng với kỹ thuật chế tạo vô cùng tinh xảo. Văn hoá Đông Sơn đã sản sinh trống Đông Sơn, nhưng không phải chỉ có người Đông Sơn mới dùng và đúc trống Đông Sơn, cho nên ngoài trống Đông Sơn ra tính thống nhất được thể hiện rõ nét hơn đó là những chiếc rìu lưỡi xéo hình bàn chân hay hình dao xén của thợ giầy, những chiếc dao găm đốc hình thuẫn, hình củ hành.
Trồng đồng Sông Đà.
Rìu đồng lưỡi hài, gót vuông.
Đặc biệt là những chiếc dao găm có cán được đúc thành khối tượng người đứng với hai tay chống nạnh, những đồ đựng bằng đồng như: những chiếc thạp, thố có hoa văn trang trí như hoa văn trang trí trên trống đồng.
Dao găm đồng Đông Sơn.
Thạp đồng Đào Xá.
Các đồ đồng khác thuộc vào các bộ hiện vật của công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, nhạc khí, đồ trang sức nghệ thuật cũng rất dễ nhận biết tính Đông Sơn của nó thông qua những biểu hiện bên ngoài như hình dáng, và hoa văn trang trí.
Vật dụng bằng đồng.
Rìu đồng Đông Sơn.
Một số loại kiếm đồng Đông Sơn
Giáp chân giáp tay bằng đồng.
Giáp ngực bằng đồng.
Lãy nỏ và kiếm đồng.

Lãy nỏ bằng đồng.
Với kỹ thuật luyện kim độc đáo của người Đông Sơn, lớp bụi thời gian phủ trùm lên các hiện vật này đã tạo nên lớp áo gỉ đồng mang màu sắc đặc biệt khiến chúng không thể nào lẫn với các hiện vật được chế tạo ở các trung tâm đúc đồng khác.
Tính thống nhất của văn hoá Đông Sơn là một sự thống nhất trong đa dạng. Bên cạnh sự thống nhất cao, trên phạm vi rộng, sự khác biệt chỉ mang tính địa phương, khu vực. Có thể phân chia văn hoá Đông Sơn thành các loại hình địa phương trong một sự thống nhất chung như:
Loại hình văn hoá Đường Cồ, hay loại hình văn hoá Sông Hồng.
Loại hình văn hoá Đông Sơn hay loại hình văn hoá Sông Mã.
Loại hình văn hoá Làng Vạc hay loại hình văn hoá Sông Cả.
Sự khác biệt địa phương có nguyên nhân sâu xa từ những nguồn gốc khác nhau của văn hoá Đông Sơn, trong quá trình ra đời trên cơ sở những nền văn hoá tiền Đông Sơn ở lưu vực các con sông lớn trong khu vực. Tính đa dạng đồng thời cũng là kết quả ứng xử của người Đông Sơn với các môi trường, vùng vi sinh thái khác nhau.
Sự đa dạng của đồ đồng Đông Sơn đã phản ánh sự khác biệt địa phương của văn hoá Đông Sơn. Tuy cùng một loại hình hiện vật nhưng các vùng khác nhau hình dáng của chúng cũng rất khác nhau.
Có thể kể ra đây một vài trường hợp để làm ví dụ:
Những chiếc rìu lưỡi xéo ở vùng sông Hồng có hình bàn chân hay chiếc ủng, nhưng những chiếc rìu lưỡi xéo ở vùng sông Mã lại có hình dao xén của thợ giầy.
Cùng là loại giáo có họng tra cán nhưng giáo của vùng sông Hồng thường có phần họng ngắn hơn phần lưỡi, mặt cắt ngang của lưỡi là một hình thoi biến dạng. Trong khi đó, giáo của vùng sông Mã lại có mặt cắt ngang là hình thoi cân đối, nhiều chiếc còn có thêm những lỗ thủng. Loại giáo hình lá mía có chuôi tra cán có thể nói rằng đó là sản phẩm riêng của vùng sông Mã.
Một số loại giáo đồng Đông Sơn.
Những hiện vật được tạm gọi là lưỡi cày ở vùng sông Hồng có hình lá trầu hay hình tim, kích thước lớn, nhưng ở vùng sông Mã lại có hình chân vịt, vùng sông Cả có hình tam giác.
Những nông cụ làm đất khác cũng mang đặc trưng vùng miền rất rõ nét như loại thuổng, xẻng của loại hình sông Hồng to khoẻ; của loại hình sông Cả thì nhỏ và mảnh hơn.
Sự khác biệt về tỉ lệ của những hiện vật cùng loại ở các vùng cũng là những biểu hiện góp phần làm nên đặc trưng cho từng loại hình. Kết quả của những cuộc khai quật mộ táng cho thấy cư dân ở lưu vực sông Cả thích dùng dao găm hơn ở vùng sông Mã và sông Hồng.
Giai đoạn cuối của văn hoá Đông Sơn được đánh dấu bằng sự xuất hiện ngày càng nhiều của các hiện vật và yếu tố ngoại lai, thí dụ như đồ minh khí tùy táng bằng đồng thau thay vì chỉ bằng gốm, gỗ trước đó, trong khi đồ đồng bản địa khác biến mất dần trong các mộ táng địa phương. Hiện tượng này tăng lên cùng chiều với sự bành trướng của người Hán xuống phía Nam. Ở các địa bàn văn hoá sông Hồng và sông Mã điều này xảy ra vào khoảng thế kỷ I sau Công Nguyên. Nhưng sâu hơn về phía Nam, ở lưu vực sông Cả, văn hoá Đông Sơn còn kéo dài đến các thế kỷ II - III.
Có thể nói là những người thợ kim khí Đông Sơn đã hoàn toàn làm chủ được kỹ thuật của họ trong tất cả các lĩnh vực của quá trình đúc đồng. Thành phần chính của đồng thau Đông Sơn là đồng, chì, thiếc. Hợp kim của đồng với tỉ lệ chì cao đã trở thành nét độc đáo của cổ đồng Đông Sơn. Kỹ thuật luyện kim và hợp chất đồng đặc biệt này đã được sử dụng một cách đồng nhất trong toàn địa bàn phân bố của văn hoá Đông Sơn, từ vùng đất cao Âu Việt cho đến vùng đồng bằng Lạc Việt của cư dân Âu Lạc thời cổ. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới có biệt lệ, thí dụ như chiếc trống đồng Thượng Nông và các nông cụ bằng đồng tìm được ở Cổ Loa gần Hà Nội.
Dựa theo chủng loại và chức năng, các loại đồ đồng thau sử dụng trong khu vực văn hoá Đông Sơn được phân thành 7 nhóm sau đây:
1- Vũ khí: Lưỡi giáo, mũi tên, dao găm, đoản kiếm, rìu chiến, qua, giáp che ngực, vật dụng đeo binh khí, cung và nỏ.
2- Dụng cụ sản xuất: Rìu, cuốc, thuổng, lưỡi cầy, lưỡi liềm, dùi, đục, dũa.
3- Dụng cụ sinh hoạt: Thạp, thố, bình, âu, khay, đĩa, chậu, lọ, ấm, muôi, đèn dầu, cốc trầm.
4- Nhạc cụ: Chuông, lục lạc, trống. Ngoài ra còn có các nhạc cụ như khèn, chiêng, cồng chỉ tìm thấy trong phần trang trí trên các trống, thạp, hoặc các hình tượng nhỏ.
5- Đồ trang sức: Vòng tay, vòng chân, vòng tai, khóa thắt lưng.
6- Hình tượng nhỏ: Thường là các tượng người hay thú đúc nhỏ để gắn trên các hiện vật khác, dùng để trang trí, vừa có công dụng cầm tay hoặc làm móc chặn.
7- Hiện vật minh khí: Đồ thu nhỏ dùng để tùy táng, với hầu hết các vật dụng bằng đồng thau điển hình dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Kỹ thuật đúc các đồ đồng này thường sơ sài, mỏng manh.
Chuông đồng có hình voi.
Chuông đồng Đông Sơn.
Một số loại chuông đồng Đông Sơn.
Lọ đồng.
Nhẫn đồng có hình trâu.
Một số loại vòng, kiềng trang sức bằng đồng.
Khóa thắt lưng bằng đồng trang trí hình rùa.
Vật dụng cùng chủng loại ở mỗi địa phương có khác nhau về hình dáng và hoa văn trang trí. Hình dạng của chúng được biến cải cho thích hợp với môi trường thiên nhiên sinh thái của từng vùng. Có ba loại hình dạng và hoa văn trang trí chủ yếu, được tập chung vào ba con sông chính trong phạm vi tồn tại của văn hóa Đông Sơn.
1- Loại hình Đường Cồ, sông Hồng.
2- Loại hình Đông Sơn, sông Mã.
3- Loại hình làng Vạc, sông Cả.
Mối giao lưu trao đổi của văn hóa Đông Sơn với các nền văn hóa láng giềng một mặt góp phần làm tăng thêm những sắc thái địa phương của các loại hình trong quá trình phát triển và hội tụ của nền văn hóa, nhưng mặt khác cũng khẳng định tính cởi mở của người Đông Sơn về sự hòa nhập với các nền văn hóa lân cận.
Phong cách họng lõm ở một số giáo, ở những chiếc rìu chiến, thuổng – mai, kiểu dao găm lưỡi lượn gấp khúc, kiểu dao găm có cán là các khối tượng động vật, khóa thắt lưng, các tượng tròn, tượng bẹt là kết quả học tập của văn hóa Đông Sơn từ các nền văn hóa của các cư dân chuyên chăn nuôi của văn hóa Điền. Những âu có chân, chậu đồng, bình đồng là những hiện vật mà người Đông Sơn đã học từ người Hán nhưng đã biết khéo léo kết hợp những trang trí ưa thích của mình như những đường văn thừng nổi, người trang sức lông chim cách điệu, ngôi sao – mặt trời ở trung tâm các đồ vật. Đồ đồng của nền văn hóa Điền, Hán đã làm phong phú thêm chủng loại hiện vật của văn hóa Đông Sơn. Các khóa thắt lưng do người Đông Sơn chế tạo được gắn thêm các lục lạc trang trí. Những con thú dữ như voi, cọp trên cán dao găm hoặc vòng trang sức của người Điền đã được biến cải thành hiền hòa, dễ mến trong đồ đồng Đông Sơn.
Trong khi văn hóa Đông Sơn tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài thì ngược lại, ảnh hưởng của nó cũng lan tỏa đến các vùng văn hóa khác.
Ra ngoài địa phận Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn cũng đã được nhận ra, trải từ miền Nam Trung Quốc đến các hải đảo phía dưới Đông Nam Á.
Trống đồng Đông Sơn tại Selayar, Indonesia.
Ở các tỉnh miền Nam và duyên hải Nam Trung Hoa, số lượng trống đồng cổ có hoa văn trang trí hình người đội lông chim cách điệu, hình thuyền đi biển, chim lạc và những trang trí hình học đặc biệt của văn hóa Đông Sơn được phát hiện không ít.
Các đồ đồng thau với hình dạng đặc trưng của loại hình sông Hồng như rìu hình bàn chân có hoa văn trang trí hình người hóa trang, rìu gót vuông có trang trí ở họng, dao găm có cán là khối tượng người, rìu hình lưỡi câu có hoa văn hình học, đã được tìm thấy trong khắp vùng hạ lưu sông Dương Tử.
Lao có chuôi tra cán hình ngòi bút, lưỡi cuốc đồng hình chữ U đặc biệt của loại hình sông Hồng đã được sử dụng rộng rãi lan đến tận vùng Bắc sông Trường Giang (sông Dương Tử). Các loại rìu chiến lưỡi xéo, hay gót vuông họng lõm, lưỡi giáo tam giác có lỗ để treo các khối tượng người nhỏ, loại lưỡi cày hình tim đã được dùng rộng rãi trong văn hóa Điền ở Vân Nam. Những đồ đựng ốc tiền bằng đồng thau của vùng văn hóa Điền có xuất xứ từ miền duyên hải Việt Nam.
Trong địa bàn văn hóa Sa Huỳnh phía Nam, lưỡi giáo và rìu Đông Sơn được tìm ra ở các vùng Tam Kỳ, Điện Bàn. Trống đồng Đông Sơn tuy chưa được tìm ra trong các di tích khảo cổ Sa Huỳnh, nhưng chúng đã có mặt ở nhiều nơi trong địa bàn thuộc văn hóa này.
Đặc biệt những năm gần đây ở vùng Tây Nguyên phát hiện được một số lượng lớn các trống loại I Hêgơ, chứng minh sức lan tỏa mạnh mẽ của văn hóa Đông Sơn, cũng như tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa này.
Trống đồng Đông Sơn ở Tây Nguyên.
Dù ở trong hay ngoài phạm vi phân bố văn hóa Đông Sơn, đồ đồng Đông Sơn vẫn dễ nhận ra được với màu sắc rỉ đồng, hình dáng, và các hoa văn trang trí đặc biệt. Đấy là các dấu ấn khó lầm lẫn được của nền văn hóa Đông Sơn độc đáo. Vậy nên có thể nhận xét rằng đồ đồng Đông Sơn, thời đại vàng của Nghệ thuật Việt Nam. Văn hóa Đông Sơn thống nhất đã hình thành nên bản sắc văn hóa thống nhất. Trong cả một thiên niên kỷ mà văn hóa Đông Sơn tồn tại, trên khắp lục địa Á - Âu, những sự thăng trầm đầy kịch tính của các nền văn hóa khảo cổ cũng đồng thời là một thực tế lịch sử. Sự tồn tại sống động và phát triển rực rỡ của nền văn hóa Đông Sơn đã làm nên bản lĩnh Đông Sơn.
Nguyễn Quốc Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét