Việc thờ cúng trong làng là nghĩa vụ
mà mọi thành viên trong làng phải tham gia. Xưa kia phụ trách cắt đặt công việc
để lo việc thờ cúng, tế tự trong các tuần, trước hết là quyền của lão làng. Tế
tự đình làng thì có Lý Trưởng tham gia ở Đền và Nghè có Thủ Từ cáng đáng để tổ
chức theo một khoán ước mà lão làng điều hành.
Ở các làng của Vĩnh Yên xưa có đình,
đền, nghè, miếu ở những nơi thờ tự và tế lễ các thần trong làng. Đình phổ biến
là nơi họp làng và trụ sở làm việc của làng và là nơi mở hội làng hàng năm,
song hầu như Đình làng nào của xã Vĩnh Yên cũng có hậu cung dùng làm nơi thờ
tự.
Tùy theo từng làng có làng thờ nhiều
vị thần có làng chỉ thờ một hoặc hai vị, nhìn chung hệ thống thần vị trong làng
chia thành các cấp bậc gồm: Thành Hoàng và các thần linh khác. Thành hoàng làng
là cấp bậc cao nhất trong hệ thống thần vị ở một làng, các thần khác được thờ
trong làng đều là cấp dưới của Thành Hoàng. Nếu trong làng có nhiều bậc thánh
được thờ thì bao giờ Thành Hoàng làng cũng là đức thánh Cả và tiếp theo là đức
Nhị thánh, đức Tam thánh. Biểu tượng Thành Hoàng làng rất đa dạng có khi là vật
linh, có khi là nhân vật thần thoại, có khi là một con người thực có công tích
lớn đối với cộng đồng làng, được cả làng suy tôn, có khi là nhân vật lịch sử
của địa phương hay của dân tộc. Thành hoàng làng được dân làng kính trọng, được
gọi một cách kính cẩn là “Đức Đại Vương”.
Thành Hoàng làng có vị trí đặc biệt
trong đời sống tinh thần của dân làng, là sức mạnh tinh thần vững trãi để cố
kết lòng dân. Theo sách “Thanh Hóa Chư Thần Lục” tức là sách biên chép các vị
thần thờ ở Xứ Thanh, được biên chép vào
năm Thành Thái thứ 15 (1903) có chép về các làng Vĩnh Yên xưa thờ các vị thần
sau:
- Làng (xã)
Yên Tôn hạ thờ Đô bác Trịnh phủ quân tôn thần, Cao Sơn tôn thần;
- Xã An
Tôn Thượng thờ Cao Sơn tôn Thần, Nam Vương tôn thập;
- Thôn
Thọ Đồn thờ Long Vương tôn thần, Sơn thần Long Hổ thượng tướng quân tôn thần;
- Xã Mỹ
Xuyên thờ Minh Linh tôn Thần, Hoằng nghi tôn thần;
Ngoài những thần được biên kê trong
sách Thanh Hóa chư thần lục, hiện truyền lại các làng của xã Vĩnh Yên còn thờ
những vị thần như sau:
+ Làng
Mỹ Xuyên thờ thần Vũ Công, tức Vũ Văn Minh
+ Làng
Yên Tôn Thượng thờ Đông Phương thiên đá thượng đẳng thần;
+ Làng
Thọ Đồn thờ Thành Hoàng bản thổ;
+ Làng Yên
Tôn Hạ thờ Ngọc Nữ tôn thần.
Về các
vị thần thờ các làng của xã Vĩnh Yên hiện nay, có vị thần tích ghi trong sách
Thanh Hóa Chư thần lục, nhiều vị không có ghi; Qua sách Thanh Hóa chư thần lục
và qua các tư liệu sưu tầm được cùng với chuyện kể trong nhân dân xin giới
thiệu cụ thể về các thần:
1 - Thần Đô bác Trịnh phủ quân tôn thần thờ ở làng Yên Tôn Hạ, thần này được 72 nơi ở Thanh Hóa thờ,
trong đó Vĩnh Lộc có 28 nơi thờ;
Hiện ở
làng Yên Tôn Hạ không còn bản thân tích của ngài, sách Thanh Hóa chư thần lục
ghi về thần tích Đô bác Trịnh phủ Thần quân quá sơ lược. Sau đây xin giới thiệu
về sự tích thần Quản gia Đô bác theo bản thần tích đời xưa để lại hiện đang lưu
giữ tại nghè làng Cẩm Hoàng xã Vĩnh Quang (cạnh xã Vĩnh Yên) thần tích ghi chép
nội dung như sau:
Thần họ Trịnh tên là Gia (có sách ghi
là Ra, La) buổi đầu ngài giữ chức quan lang thổ tù ở đất Thiên Vực lộ Vĩnh Ninh
nhà ở xứ Long Xà, đời thế làm Tù trưởng. Trịnh Gia là người thông minh, mẫn
tiệp, trung tín truyền mãi danh thơm. Gia đình có ba anh em, hai trai, một gái.
Trai trưởng là ngài, thứ là Tú, gái út tên là Thị Ba, cả ba anh em dung mạo đẹp
đẽ, dáng dấp khỏe mạnh, đĩnh đạc. Vào thời gian vua Đường Ý Tông niên hiệu Hàm
Thông bên Bắc Quốc (Trung quốc) vua xuất trị thiên hạ sai Cao Biền giữ chức đô
hộ sứ trấn viễn nước Nam Bang vào năm 865, khi đặt chân tới Nam Bang Cao Biền
mệnh danh là Cao Vương đi kinh lý quan sát địa hình núi, sông lúc đặt chân tới
lộ Vĩnh Ninh Cao Biền cho mời Trịnh Gia đi theo. Yên ổn xong được Nam Bang Cao
Biền trở về thành Đông Quan, Trịnh Gia không quản mệt nhọc một lòng theo hầu,
chuyên tâm vào việc, Cao Biển cho ông là người hiền lành, tài đức, chịu khó nên
giao cho ông chức Quản khố nội thương. Ông làm việc chăm chỉ lại lập được nhiều
công lao, bởi vậy Cao Biển rất mực yêu mến và ban cho tên là Quan Khố Sứ và ban
cho thêm việc quản nội ngoại các quân; Lúc tuổi già ông cáo quan xin về hưu trí
tại quê hương. Cao Biền tặng cho ông 100 quan tiền, vì thế mà ông trở thành
người có tiền của, số tiền của ông được Cao Biển tặng khi trở về quê hương ông
đem cứu tế cho những gia đình nghèo túng vì vậy mọi người trong huyện được ông
ban phát mang nhiều ân huệ với ông; Ông đang hưởng hưu trí tại quê hương có
người ở làng Thủy Thanh tức là làng Thúy Đại (Yên Định, bên kia sông) từ lâu oán
thù về đời thế mà chưa phân giải được, người đó tên là Hà Lang. Hà Lang đến
chơi gia đình ông và có nhã ý xin cầu hôn với Thị Ba vì không nghi ngờ gì nên ông
đã đồng ý gả em gái mình là Thị Ba cho Hà Lang, thế là mưu kế của Hà Lang bước
đầu đã được thực hiện. Nhưng cưới nhau được mấy ngày thì Hà Lang đuổi Thị Ba về
nhà. Thị Ba ban đêm một mình trở về khi đến bến sông thì lúc ấy trời vẫn còn
sớm nhưng không có thuyền để vượt sông; Thị Ba trầm mình xuống sông la lớn cho hai
anh trai đến cứu. Ngài không biết âm mưu của Hà Lang phục binh khí trên bãi cát
ven sông. Nghe tiếng la thất thanh, khẩn thiết của em gái mình, ngài cùng em
trai là Tú dùng thuyền nhỏ ra cứu em gái. Khi thuyền ở gần bờ sông, ba anh em
đang ngồi trên thuyền thì Hà Lang từ trên bờ đột nhiên xông ra hành động, ba
anh em đều bị hại (khi ấy là ngày 14 tháng 11 âm lịch) thời gian đó thời tiết
rét đậm qua bao ngày không có ai biết thi thể của riêng Trịnh Gia cứ trôi từ
ngã ba sông đến bến Chiêu Đức tức là (Nhật Quang - Vĩnh Hòa) Chiêu Đức là quê
hương tổ ngoại của ngài đồng thời là quê vợ của ngài. Xác trôi quanh quần ở đó
5 ngày, người nhà biết được báo tin cho Cao Biển, Cao Biển thương tiếc, biết
được oan ức của ông, cho mai táng ở núi Chiêu Đức đồng thời xây mộ cao, dựng Đền,
lệnh cho dân thờ phụng. Về sau này khi vợ ngài mất cũng mai táng tại núi Chiêu
Đức. Cao Biền phong cho Ngài là Quản Gia Đô Bác Thần Vương sau đó. Sau đó ven
bờ sông huyện Vĩnh Ninh Dân lập đền thờ cầu đảo đều thấy linh ứng;
Cuối triều nhà Trần khi họ Hồ chiếm
ngôi vua Trần xưng đế, dời đô từ Đông Kinh về Tây Đô; Một đêm vua mộng thấy một
người khách lạ mình mặc áo lụa mỏng, đầu đội mũ đen đứng trước mặt vua, tự xưng
họ tên, thân thế trước đây là Tù trưởng vì bị giết hại nên được Cao Biền phong
làm Phúc thần. Nay Thiên Hạ thái bình, trước kia vào giai đoạn cuối Triều Trần
nhà vua uy đức không đủ tỏa sáng để cứu vớt sinh dân lầm than, khổ cực; Chỉ
nghe nghị mà không thấy thực hiện, vua Hồ sợ hãi tỉnh dậy mới biết mình nằm
mộng, liền kêu gọi dân trong thôn bản hỏi rõ sự việc. Vua Hồ ban lệnh cho sửa
chữa đền thờ, gia phong cho thần. Đương Giang Quản gia Đô bác Đại vương.
Vào Triều Lê mở vận trung hưng thảo
bình nhà Mạc lập nên Triều Lê Trung Hưng, Thần âm phù trợ giúp rất nhiều, công
tích nổi khắp trần gian, được gia phong mỹ tự. Các ngày lễ sóc (vào mùng 1 và
15 âm lịch hàng tháng), xuân thu nhị kỳ hàng năm tới nay vẫn còn lưu giữ.
Trải qua các triều đại được vinh dự
tiến phong, Đương Giang Quản Gia Đô Bác với các mỹ tự: Hộ Quốc quảng, Hiển hựu
chiêu ứng, Phù cảm Khuông tế, Dũng liệt Trợ thuận, Trợ Quốc tích phúc, Tăng
phúc Chiêu hưu, Hộ quốc Hựu dân, Vệ quốc Bảo dân, Chí nhã Hậu Đức, Chung tường
Dục tuý Hoãng hưu Bác thị, Tế trị Phù tộ, Diễm phúc Hồng ân, Khải quang Tích
thiện, Tạo hóa Hiển ứng, Uy Linh Khuông phù, Diễn Phúc Mỹ Linh, Uy dũng Hùng
đoán, Hồng hân Thinh đức, Linh vũ Tạ tỵ, Phù vận Linh thông, Tán úy Trợ thuận,
Lập quốc Khai cơ, Di điển Hạt đạt, Đạt độ Hùng tài, Cương nghị Quả đoán, Đại
lược Thông minh, Chính trực Anh linh, Tuấn kiệt Tuấn tiết Văn minh Ôn cung,…
ngày kị ngày 14 tháng 11 âm lịch.
2. Về Cao Sơn tôn thần.
Thần Cao Sơn riêng tỉnh Thanh Hóa có
411 nơi thờ, trong đó có Yên Tôn Thượng,
Phù Lưu, Yên Tôn Hạ ngày nay, xưa kia An Tôn Thượng tức là Yên Tôn
Thượng cùng với Phù Lưu cùng một làng (xã) An Tôn Thượng, thờ Cao Sơn Tôn thần
làm Thành hoàng gọi là Thánh cả; Khi cụm dân cư ở Phù Lưu đông đúc nhân dân Phủ
Lưu xây Đình và rước chân nhang Cao sơn tôn thần từ An Tôn Thượng về đình để
thờ.
Các nơi thờ cao tôn sơn thần ở Vĩnh
Yên hiện nay không còn giữ được thần tích của ngài. Trong sách Thanh Hóa chư
thần lục (các vị thần ở Xứ Thanh) do nhóm Lê Xuân Kỳ - Hoàng Hùng - Thích Tâm
Minh biên soạn nhà xuất bản Văn Học - Hà Nội xuất bản năm 2008 ghi thần tích
Cao Sơn tôn thần lấy trong bản thần tích phát hiện được ở làng Bàn Thạch xã
Xuân Quang, huyện Thọ Xuân được soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572).
Nhưng ở làng Mỹ Chí trước kia thuộc huyện thầy Thạch Thành nay thuộc Vĩnh Hưng
huyện Vĩnh Lộc còn giữ được bản thần tích (Ngọc phả) về Cao Sơn Quốc Thánh. Bản
thần tích này cũng do Đông các Đại học sĩ Hàn lâm viện Nguyễn Bính phụng soạn
vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được Quản Giám tước Hồng Lĩnh Thiếu
khanh Nguyễn Hiển tuân theo bản cũ chép lại vào mùa đông năm Vĩnh hựu thứ ba (1737).
Bản Thần tích này đã được tác giả Lê Doãn Phê ở viện Hán Nôm dịch ra Quốc ngữ.
Vì Mỹ Chí xã Vĩnh Hưng nay cùng huyện Vĩnh Lộc xin giới thiệu nội dung bản thần
tích ở làng Mỹ Chí nói về thần Cao Sơn như sau:
Thời kỳ bấy giờ dân gian truyền lại 1 vị phúc
thần tên huý là Cao Sơn đã được bộ Lễ ghi vào sử sách. Truyện kể lại trước đây
có 1 người ở đất Minh Hương bên tàu tên là Cao Minh (họ cao tên Minh) vợ tên là
Hoàng Nương. Một hôm Hoàng Nương được một ông già đầu bạc báo một điềm lành
trong mộng gọi là Ngọc Bông Thụy, bà vợ cảm nhận điềm lành ấy và thụ thai. Ngày
12/8 năm Bính Ngọ sinh được một con trai mặt mũi khôi ngô, thân hình cáo lớn,
mặt đỏ tóc xanh, là người dị thường (sau
sinh thêm 1 con gái nhưng biệt tích). Thấy con khôi ngô, tuấn tú, ông Cao và bà
Hoàng rất yêu quý, nhờ người chăm sóc nuôi dưỡng. Năm lên 3 đặt tên là Hiển,
năm 11 tuổi cha mẹ chơi Hiển nhập học;
Do thiên chất thông minh, nên chỉ học mấy năm mà các sách trong thiên hạ
đều thấu hiểu. Năm Hiển 18 tuổi không may cha mẹ đều mất, ông cư tang và chăm
chú học tập, mấy năm sau càng tài giỏi, trên thông thiên văn, dưới tường địa
lý, võ nghệ cao cường, thế gian không ai sánh kịp. Năm 22 tuổi vua Hy Ninh nhà
Tống mở khoa thi, ông Hiển ứng thi và khoa đó ông đỗ Tiến sĩ cập đệ xuất thân.
Vua thấy ông Đức trọng, Tài cao nên trao nhiệm vụ Trấn phủ tuần phủ các trấn
Thanh Hóa, Nghệ An. Vâng chiếu chỉ, ông đi tuần đến Nghệ An, thấy hình thế núi
Đại Bổi, trang Báo Đáp, huyện Đông Thành, là nơi âm u, tĩnh mịch, thiêng liêng
nên đặt ở phía Bắc núi một cung đài.
Tiếp sau ông đi tuần đến trang Phúc Lâm, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu
Thiên đến một nơi địa hình núi non bao bọc, Sơn Thủy hữu tình, các khe suối đều
đổ dồn vào kẽ núi.
Biết nơi đây là đất thiêng (Địa Linh) ông xuất tiền sai dân địa phương
xây một cung đài trên đỉnh núi làm nhiệm sở, mỗi khi đi tuần du tới đó làm nơi
nghỉ chân để quan sát thắng cảnh, hình khe, thế núi. Nhân dân trong vùng thấy
ông là người đức độ đều tự nguyện xin làm thuộc hạ. Nhân dân phục vụ ông, ông
giúp đỡ dân tạo thành thế keo sơn cá nước;
Năm niên hiệu Khánh Lịch (theo lịch tàu) ông thăng chức Tể Tướng của
triều đình kiêm trấn thủ Thanh Hoa, Nghệ An, các trấn. Cũng trong năm ấy giặc
Đông Di đưa nhiều binh lương, tiến quân xâm lược địa phương, quấy nhiễu nhân
dân, vua sai ông xuất chinh diệt giặc Di khấu ấy.
Vâng lệnh vua ông đem quân đến đồn trú ở khu vực Cung Đài chiêu dụ
dân đinh làm nội giao tráng sĩ, thế và
lực hùng mạnh như lũ bão, nên đi đến đâu quân giặc đều hạ giáo, quy hàng xin
tha làm thuộc hạ. Thắng giặc ông lại tiến quân về công khu, mở tiệc lớn chiêu
đãi quân dân, lại tặng dân 100 làng bạc để thù lao công trạng;
Nhân dân địa phương cảm ơn đức độ, tài cao xin ông huý hiệu để lưu danh
về sau, ông lấy bút viết bốn chữ Cao Sơn Vân Trường. Sau buổi gặp mặt đại yến
với dân, ông kéo quân trở về triều đình yết kiến Hoàng Đế. Ở kinh đô vài năm vì
tuổi già sức yếu ông xin nghỉ, vua chuẩn bị cho ông về Trí sĩ.
Năm 103 tuổi là năm bất hạnh, vì tuổi cao sức yếu bệnh già nên ông mất
ngày 16/3 năm ấy thọ 103 tuổi. thi hài được ăn táng trên đỉnh núi hình con rùa
trên dãy núi thiêng. nhân dân nghe tin ông mất đã tâu về triều đình lại sửa sang
bên phần mộ dựng 1 cung để nhang khói, cung này gọi là Linh Cung (đền thờ vị
thần thiêng). Giao cho công phu Trang Phúc Lâm, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu
thiên, trấn Thanh hoa hương khói phụng thờ.
Thần tích này so với chính sử có nhiều chỗ sai
không hợp lý “Năm 22 tuổi vua Hy Ninh nhà
tống mở khoa thi…” Vua Hy Tông tại vị năm 1072 – 1128 gọi là Tống Thần Tông –
tên là Triệu Húc tương đương với thời Nhà Lý của Việt Nam (Lý Nhân Tông- Lý Càn
Đức). Việt Nam đã độc lập được 3 triều vua Ngô – Đinh – Tiền Lê bắt đầu từ năm
938 không còn chụi sự đô hộ của Trung quốc nên Nhân Vật Cao Hiển không thể đến
vùng Thanh Hoa, Nghệ An làm quan được. Trong sử Trung quốc đời nhà Tống có ghi
nhiều về nạn giặc Đông Di, Di Khấu từ biển vào cướp bó (Giặc Nhật Bản, Triều
Tiên) ở Vùng huyện Tư Phố, quận Cửu Chân (Thanh Nghệ) không có loại giặc này;
Tích này có thể dịch nhầm của một Thần tích Cao Sơn Tôn thần nào đó của Trung
Quốc đời nhà Tống rồi.
VẬY THÌ CAO TÔN SƠN THẦN LÀ AI MÀ VEN SÔNG MÃ CÓ 411 ĐÌNH LÀNG THỜ LÀM THÀNH HOÀNG....
Tìm hiểu về nhân vật lịch sử Cao Biền (千里); 821–887) là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ tiết độ sứ; Ông đã đến đây dẹp giặc Nam chiếu để lại công đức cho dân nên 400 đình làng thuộc lưu vực tả ngạn sông Mã ở vùng này đều thờ Cao Tôn Sơn thần; Bản đồ Làng Don Hạ, Vĩnh Yên, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa những năm thuộc đất Nam Chiếu 866-875 và sau đó được Cao Biền đánh tan giải cứu dân;
Người đầu
tiên xây thành nhà Hồ ở
Thanh Hóa là ai ?
KHẢO CỨU NGUỒN CỘI, KHẢO VỀ CÁC DÒNG HỌ, MINH CHỨNG TỪ KHẢO CỔ
Thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, nằm giữa 2 dòng sông Mã và sông Bưởi, là di tích đã được công nhận di sản văn hóa thế giới. Thành nhà Hồ thì hiển nhiên do nhà Hồ (Hồ Quý Ly) xây dựng. Nhưng nơi đây đã từng là hành cung hay một trị sở quan trọng của các triều đại từ trước đó. Ai là người thật sự đầu tiên đặt gạch nền móng để xây dựng thành tại khu vực này?
Xung quanh khu vực thành nhà Hồ có nhiều nơi thờ vị thần tên là Cao Sơn đại vương. Như ở phía cổng Tây của thành nhà Hồ có đình Phù Lưu và đền Cao Sơn tại xã Vĩnh Yên (Vĩnh Lộc). Còn ở phía Đông thành có phế tích đền Còng tại xã Vĩnh Hưng, cũng là nơi thờ Cao Sơn đại vương.
Cao Sơn là một vị thần được thờ khắp nơi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Theo thống kê trong sách Thanh Hóa chư thần lục do bộ lễ triều Nguyễn soạn vào năm Thành Thái thứ 15 cho biết ở Thanh Hóa có tới trên 400 làng nơi thờ Cao Sơn làm thành hoàng trải dài ở hầu hết các huyện của tỉnh Thanh. Hiện nay ngay ở thành phố Thanh Hóa còn có một con đường lớn mang tên Cao Sơn.
Vậy Cao Sơn là ai, có công nghiệp như thế nào đối với xứ Thanh mà được tôn thờ rộng rãi như vậy?
Theo sách Thanh Hóa chư thần lục thì: Bản ngọc phả làng Yên Tôn Thượng ghi cụ thể về xuất thân vị thần tên huý là Hiển, ông đỗ tiến sỹ vào thời Tấn (thế kỷ 10), khi đó nước Việt ta bị phong kiến phương Bắc cai trị, tiến sỹ Hiển được điều sang cai quản vùng đất thuộc Thanh – Nghệ này nay. Khi qua núi An Tôn, nhận thấy vùng đất này là thắng địa, ông cho xây dựng ở chân núi một số công trình để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Viên quan cai trị đã lập công to trong lần đi chinh chiến ở đất Đông Di. Ông mất năm 103 tuổi, tại núi Đại Liễn. Trang Bảo Thánh huyện Đông Thành, Nghệ An, Cao Hiển vốn là viên quan có học vấn cao, lại có lòng thương dân, nên ông được dân tôn vinh. Nhân dân vùng đất An Tôn thờ Ông, coi Ông như một vị thành hoàng bảo hộ cho dân làng. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều có sắc phong thần cho Ông thuộc hạng Thượng đẳng tối linh với nhiều mỹ tự ca ngợi.
Thần tích này cho biết Cao Sơn có tên là Cao Hiển, người Trung Quốc sang nước ta dẹp giặc Đông Di và đã cho xây dựng một số công trình ở vùng núi xứ Thanh.
Chỗ khác, như ở đền Còng (Vĩnh Hưng, Vĩnh Lộc) thì chép thần Cao Sơn ở vào thời Lý: vào khoảng năm Khánh Lịch (1041-1048) ông làm quan tới chức Thừa tướng kiêm trấn thủ các xứ Nghệ An, Thanh Hóa… Bỗng năm đó có giặc Đông Di (Cao Ly Triều Tiên ngày nay) nổi lên xâm chiếm đất đó, quấy nhiễu cướp đoạt dân cư. Nhà vua bèn sai ông ra quân dẹp giặc…
Thật không biết vị thần Cao Sơn này chính xác sống vào thời nào. Chỗ thì bảo là đời Tấn (thế kỷ thứ 10), chỗ lại là thời Lý nhưng dùng niên hiệu Khánh Lịch của nhà Tống. Thậm chí ông này còn đánh giặc Đông Di ở tận Triều Tiên??? Quãng thời gian thế kỷ 10 – 11 thì nước ta đã độc lập rồi, lấy đâu ra vị quan đô hộ nào của phương Bắc cai quản ở đất Thanh Hóa nữa?
Vị tiến sĩ tài ba cai quản đất Thanh Nghệ mang tên Cao Hiển Văn Trường này thực ra là Tiết độ sứ của nhà Đường Cao Biền. Tướng Cao Biền có công đánh dẹp quân Nam Chiếu, truyền tích gọi là giặc Đông Di, ở vùng Thanh Nghệ, chứ chẳng phải ở tận Cao Ly Triều Tiên. Nam Chiếu là quốc gia xuất phát từ Bắc Trung Bộ Việt (không phải từ Vân Nam như sử Tàu vẫn chép) chiếm lĩnh vùng Tây Bắc Việt, làm nhà Đường lao đao, phải cử Cao Biền làm tướng đánh dẹp. Việc Cao Biền tiến xuống phía Nam, đánh vào sào huyệt của Nam Chiếu ở Nghệ An đã từng được bàn trong bài trước về thần Cao Sơn Cao Các. Thanh Hóa là nơi Cao Biền cho xây hành cung, là một vị trí chiến lược trong yếu trong việc trấn giữ quân Nam Chiếu thời kỳ này.
Sự xuất hiện của Cao Biền và hành cung tại Vĩnh Lộc thời Đường được khẳng định bởi những khai quật khảo cổ thành nhà Hồ. Tại di tích này đã phát hiện nhiều viên gạch mang dòng chữ Giang Tây quân và Giang Tây chuyên. Giang Tây là từ tương đương với tên gọi Tĩnh Hải mà Cao Biền là vị Tiết độ sứ đầu tiên của Tĩnh Hải quân. Gạch Giang Tây quân là loại gạch của Tĩnh Hải sứ quân Cao Biền.
Cũng tại di tích thành nhà Hồ còn tìm thấy các viên gạch mang chữ Đại Việt quốc, nhưng lại không hoàn toàn giống như gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên dùng trong xây thành Hoa Lư và Thăng Long. Viên gạch ở thành nhà Hồ mang các chữ còn lại đọc được là Đại Việt quốc Nam bình 大越国南平. Gạch Đại Việt là loại gạch dùng xây thành dưới thời nước Đại Việt do Lưu Cung lập nên, chứ không phải thời Lý vì mãi tới năm 1054 vua Lý thứ 3 là Lý Thánh Tông mới đặt tên nước là Đại Việt và dùng gạch với niên hiệu Long Thụy Thái Bình.
Hai lớp gạch Giang Tây quân và Đại Việt quốc ở thành nhà Hồ như vậy tương đồng với các lớp gạch xây thành tại Hoa Lư. Đây là bằng chứng xác thực về một trị sở quan trọng liên tục từ thời Đường tới thời Đinh Lê tại địa bàn Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Các hiện vật thời Lý Trần cũng được phát hiện và trưng bày tại thành nhà Hồ như lá đề có hình rồng, phượng, gạch lát nền hoa dây, hình đầu thú đất nung,… Có thể thấy rõ đây là một trung tâm chính trị tồn tại liên tục bắt đầu từ khi Tiết độ sứ Cao Biền xây dựng vào thời Đường cho tới khi nhà Hồ chuyển kinh đô của cả nước về An Tôn và xây thành đá. Việc loại bỏ không trưng bày hay không tính tới các lớp di vật của thời Đường, thời Đinh Lê tìm thấy trong di tích làm hạn chế giá trị của di tích này và làm khuất lấp sự thực lịch sử về vai trò của các triều đại trước thời Trần Hồ khi xây dựng khu vực thành ở Vĩnh Lộc.
Sự hiện diện của Tiết độ sứ Cao Biền và hành cung thời Đường ở Vĩnh Lộc còn được ghi nhận trong một sự tích khác. Đình Hồ Nam tại xã Vĩnh Khang (Vĩnh Lộc) cũng như nhiều ngôi đình, nghè ở khu vực xung quanh thành nhà Hồ hiện đang thờ vị thần là Quản Gia Đô Bác. Sách Vĩnh Lộc huyện chí của Lưu Công Đạo chép về vị thần này như sau:
Buổi đầu, ngài giữ chức Quan Lang Thổ Tù ở đất Thiên Vực họ Trịnh, tên La (Ngọc phả ghi là Ra), là người thông minh mẫn tiệp, trung tín, truyền mãi danh thơm. Nhà ở xứ Long Xá, đời thế làm tù trưởng, có 3 anh em, 2 trai, 1 gái, trai trưởng là ngài, thứ là Tú, gái út tên là Thị Ba. Cả ba anh em dung mạo đẹp đẽ, dáng dấp khỏe mạnh, đĩnh đạc.
Vào thời gian vua Đường Ý Tông niên hiệu Hàm Thông bên Bắc Quốc (Trung Quốc), vua xuất trị thiên hạ sai Cao Biền giữ chức Đô Hộ sứ trấn giữ nước Nam. Khi đặt chân tới Nam Bang, Cao Biền mệnh xưng là Cao Vương đi kinh lý quan sát địa hình núi sông. Qua đất nhà Trịnh ở huyện Vĩnh Ninh, Cao Biền ngang qua nhà ông. Biền biết ông là người trung thực, bình định xong được Nam Chiếu, Cao Biền cho ông theo cùng về thành Đông Quan. Ông không quản mệt nhọc, một lòng theo hầu, chuyên tâm vào việc. Cao Biền cho ông là người hiền lành, tài đức, chịu khó nên rất mực yêu thương, bèn giao cho ông năm quyền quản lý kho của phủ và việc nhà. Ông làm việc chăm chỉ nên lại lập được nhiều công lớn. Cao Vương rất mực yêu mến tài của ông, ban cho Thạch Khố sứ quan, kiêm Quản Tri quan trung Nội Ngoại chư khố.
Ông lại cáo từ về quê. Cao Vương quý ông trung thành ban cho ông 500 quan tiền, vì thế mà trở thành người giàu có. Ông lại có tính thương xót kẻ nghèo khó, mọi người trong huyện ai nấy đều được ông ban phát.
Trước kia tổ phụ họ Trịnh có hiềm khích với người làng Vĩnh Thanh, có oán thù về đời thế từ lâu mà chưa phân giải được, người đó tên là Hà Lang… Khi thuyền gần tới phía bờ cát, ba anh em đang ngồi trên thuyền nhìn nhau, Hà Lang từ trong bờ đột nhiên xông ra phục kích, cả ba anh em đều bị hại… Xác trôi quanh quẩn ở đó 5 ngày, người nhà biết được báo tin cho Cao Vương. Cao Vương nhớ đến công lao, bèn cho an táng ở đỉnh núi Nhật Chiêu, sai người đắp thành mộ, lập đền thờ trên đó, lệnh cho nhân dân thờ phụng… Cao Biền phong cho ngài là Đương Giang Quản Gia Thần Vương…
Cuối triều nhà Trần, khi họ Hồ tiếm ngôi vua đế, dời kinh đô từ về Tây Đô. Một đêm, mộng thấy một người khách lạ, mình mặc áo lụa mỏng, đầu đội bình đính, lưng thắt đai đen, đứng bái trước mặt tự xưng: Thần là Trịnh La, nối đời làm Tù trưởng, xin Cao Vương phong làm Thần vương, giúp dân quanh vùng được hưởng phụng thờ bảo vệ dân trong một vùng. Nay thiên hạ thái bình, nguyện xin đại vương bày rõ uy đức, chớ đem tai ương đến cho dân sinh. Nói xong không thấy đâu nữa.
Vua Hồ tỉnh dậy, mới biết là mình nằm mộng, liền chiêu gọi các phụ lão hỏi rõ đầu đuôi. Vua Hồ biết được quả rất anh linh, có ý giúp lập cơ vận nhà Hồ, bèn ban lệnh cho sửa chữa đền thờ, gia phong cho thần là Đương Giang Quản Gia Đô Bác Đại Vương.
Từ sự tích trên ta có bằng chứng rõ ràng về hiện diện của Cao Vương Biền tại đất Vĩnh Lộc. Hơn thế, khi đó tù trưởng hay thủ lĩnh địa phương tại đây là người họ Trịnh, đã theo Cao Biền làm quản gia. Có thể suy luận, người đã giúp Cao Biền xây hành cung tại Vĩnh Lộc chính là vị Quản Tri quan trung nội ngoại chư khố Trịnh La. Đó cũng là lý do tại sao sau đó khi vua Hồ dời đô về An Tôn đã gặp vị “thành hoàng” họ Trịnh này hiển mộng phù trợ.
Điểm đáng lưu ý khác là như thần tích cho biết họ Trịnh ở đất Vĩnh Lộc đã đời thế làm tù trưởng, từ thời Đường. Sau đó đến thời Lê vùng đất này lại có danh tướng là Trịnh Khả, công thần lập quốc của nhà Lê, cùng tham gia khởi nghĩa với Lê Lợi. Trịnh Khả có cha là Tổng chính (chánh tổng) của vùng Vĩnh Ninh. Tổ tiên trước làm quan triều Trần, có công bình dẹp giặc Nguyên. Như vậy, họ Trịnh trên vùng đất Vĩnh Lộc là thủ lĩnh của khu vực này suốt từ thời Đường tới thời Lê sơ. Sang thời Lê trung hưng lại nổi lên chúa Trịnh, cũng quê ở Vĩnh Lộc, là người nắm quyền điều hành quốc gia trong một thời gian dài.
Như thế rất có thể cội nguồn của các chúa Trịnh, tướng quân Trịnh Khả thời Lê đều bắt đầu từ vị Trịnh La, người xây thành đầu tiên tại đất Vĩnh Lộc dưới thời Cao Vương Biền. Đồng thời, hơn 400 nơi thờ thần Cao Sơn ở Thanh Hóa cũng chính là nơi thờ Cao Biền, vị Tiết độ sứ quân đầu tiên của đất Tĩnh Hải, người xây thành Đại La, Hoa Lư và thành ở Vĩnh Lộc.
[NGỒN BÀI ĐĂNG: NGƯỜI ĐẦU TIÊN XÂY
THÀNH NHÀ HỒ Ở THANH HOÁ](https://bahviet18.com/2018/04/19/nguoi-dau-tien-xay-thanh-nha-ho-o-thanh-hoa/)
3. Về Đông Phương tôn thần và Nam Phương tôn thần….
Đông Phương Tôn thần và Nam Phương
tôn thần được thờ ở làng Yến Tôn Thượng. Đông Phương tôn thần có Duệ hiệu Hách
linh, Trạc linh thuần túy trinh uyển, Dực báo trung hưng, Đông Phương thiên đá
thượng đẳng thần là thánh nhì thờ nghè Lũng hiệu nhật vào ngày 16 tháng 6 âm
lịch.
Nam Phương tôn thần có Duệ hiệu: Khải
Minh Lệ Chính Thi quan đoan túc, Dực Bảo Trung Hưng Nam Phương công chúa áo bạc
Trung đẳng thần là thánh Tam được thờ ở Nghè Nam. Hai vị thần trên trong sách
các vị thần thờ Thanh Hóa (Thanh Hoá Chư Thần Lục) chỉ có Nam Phương tôn thần
được ghi rõ ở Thanh Hóa có 4 nơi thờ trong đó có An Tôn Thượng huyện Vĩnh Lộc,
nhưng không ghi thần tích nên không rõ là lai lịch của thần (có người nói là
thần em gái Cao Sơn ?) vì Cao Sơn có 1 người em gái nhưng biệt tích.
4. Về các thần: Long trung tôn thần, Thành Hoàng bản thổ và Sơn thần
long hổ thượng tướng quân tôn thần được thờ làng Thọ Đồn. Ngày xưa mỗi thần được thờ riêng ở từng khu Nghè. Hiện nay
chỉ còn 1 Nghè chính ở đỉnh đồi (gọi là Nghè Đồn), là nơi thờ chung cho cả ba
vị thần trên, trong đó có Long Vương tôm thần được gọi là Đức Thánh Cả, là
thành hoàng của làng.
Trong sách “Thanh Hóa chư thần lục” ghi
Long Vương tôn thần ở Vĩnh Lộc có 2 nơi thờ là Thôn Thọ Đồn và thôn Giang Biểu
Bảo. Sơn thần long hổ thượng tướng quân tôn thần ở Vĩnh Lộc chỉ có thôn Thọ Đồn
thờ. Còn Thành Hoàng bản thổ không thấy có tên thần trong sách. Trong 2 thần
chỉ có Long Vương tôn thần là có ghi thần tích vắn tắt như sau:
- Khoảng năm Khánh Đức đời Lê (1649 -
1653) có 1 ông già làm nghề đánh cá có một hôm ông bắt được một quả trứng to mắc
lưới. Ông đem về đặt lên cho gà ấp chợt 1 ngày quả trứng đó nở ra con rắn. Ông
nuôi con rắn đó ngày càng lớn thì càng giống Rồng, ông bảo con rắn rằng: “anh
nếu là rồng thần thì nên xuống sống ở”. Con rắn đó nghe, tỏ ý bằng lòng và đi.
Từ đó dân làng cho là vị thủy thần rồi lập đền thờ.”
Truyện dân gian ở làng Thọ Đồn kể về sự
tích Long Vương tôn thần thở nghè đồn như sau: Sau khi dựng cờ khởi nghĩa vào
năm 1420 Lê Lợi đi chiêu quân. Lê Lợi có đi qua Thọ Sơn Trang ông thấy quả Sơn
Trang đẹp (tức là quả núi tròn) Lê Lợi cùng quân lính tìm đường lên núi xem. Khi
lên đến đỉnh núi Lê Lợi thấy có 1 cái giếng đường kính 2,5 m, sâu không hề thấy
đáy, Lê Lợi mới lấy một hòn đá khắc 6
chữ “Thủy Thần Hộ Quốc Cứu Dân” rồi cầm bỏ xuống giếng. Năm 1421 Lê Lợi lại đi
đò qua sông vào ngay sát chân núi Sơn Trang, Lê Lợi rất ngạc nhiên lại thấy hòn
đá khắp 6 chữ “Thủy Thần Hộ Quốc Cứu Dân nằm ngay trước mặt mình. Khi đó Lê Lợi
lại cầm hòn đá đem lên đỉnh núi và bỏ xuống giếng rồi lại sai quân lính lấy đất,
đá lấp ngay cái giếng đồng thời cho trồng 1 cây si bên cạnh giếng lấp để làm
vết tích. Xong rồi Lê Lợi cho lập bàn thờ cỏ (tức là bàn thờ đặt ở dưới đất chỉ
có hương hoa và lá) và cầu thủy thần xin đánh thắng giặc Minh. Sau đó Lê Lợi
đem quân lên miền núi đóng trại tại Lạng Sơn. Khi đánh thắng giặc Minh Lê Lợi
về thăm giếng Thủy Thần, ngạc nhiên thấy cây si mới có ít năm mà đã lớn cao. Lê
Lợi bắt dân trong vùng làm vài gian tre, lá trên đỉnh núi Thọ Sơn Trang để thờ
thủy thần – tức Long vương tôn thần. Không biết có phải cây si do Lê Lợi cho trồng
hay không mà trên đỉnh núi Thọ Đồn có 1 cây si đã chết vào năm 1947, khi đó
đường kính cây si rộng tới 1,5m;
Ở Nghè Thọ Đồn hiện còn lưu giữ 1 đạo sắc
phong gốc và 1 cuốn sách Hán nôm cổ. Bản sắc phong gốc do nhà vua ban, phong
tặng cho thần vào năm 1740 đạo sắc phong này sau được sao chép trong cuốn sách
cổ, trên cuốn sách chép lại nội dung của 11 sắc phong cho thần ở Nghè Thọ Đồn.
Vào năm 2009 gia đình ông, bà Nguyễn Văn Nhạ và Nguyễn Thị Rằng (Chính xác là ông Quân con của hai ông bà) ở Thọ Đồn đã có
nghĩa cử nhờ ông Trần Trọng Dương nghiên cứu viên Viện nghiên cứu Hán Nôm phiên
âm và dịch nghĩa các sắc phong ở Nghè Thọ Đồn.
Qua nghiên cứu về nội dung của 11 sắc
phong ông Trần Trọng Dương cho biết ở Nghè Thọ Đồn có thờ tự vị Đại Vương. Tên
húy của ngài không thấy được ghi chép cho nên có thể khẳng định rằng đây là 1
thiên thần (thần tự nhiên) vị thần này vừa là thần biển (Long Vương Uyên Tịnh)
lại là sơn thần cai quản núi non (Cao Sơn Trấn Quốc) thần đã được nhà vua phong
nhiều sắc, trước sắc phong năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) thần Long Vương đã có 18
sắc phong (nhưng đã mất). Sắc phong năm 1711 có thể là sắc phong thứ 19 ban cho
thần.
Trước khi được ban sắc 19 thần có các
Mỹ Tự: Long Vương Uyên Tịnh, Cao Sơn Trấn Quốc, Phù Vận, Cương Nghị, Hùng Lược,
Hiển Ứng, Khuông Quốc, Phù Tộ, Đôn Tính, Minh Nghĩa, Uy Đức, Khoan Nhân, Chính
Trực, Thông Đoán, Quả Quyết, Uy Dũng, Trợ Thắng, Diễn Phúc, Phong Công đại
vương. Năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) thần được vua ban cấp sắc phong vì đã có công
hiểu ứng giúp nhà vua “củng cố hồng đồ…tôn phù xã tắc” do đó nhà vua đã ban
thêm cho thần 1 Mỹ Tự nữa là Mặc Tướng (tướng nhà trời ngầm giúp đỡ nhân dân và
triều đình) như vậy năm 1711 tên thần đầy đủ cả Mỹ tự là Long Vương Uyên Tịnh, Cao Sơn Trấn Quốc, Phù Vận, Cương Nghị, Hùng
Lược, Hiển Ứng, Khuông Quốc, Phù Tộ, Đôn Tính, Minh Nghĩa, Uy Đức, Khoan Nhân,
Chính Trực, Thông Đoán, Quả Quyết, Uy Dũng, Trợ Thắng, Diễn Phúc, Phong Công,
Mặc Tướng đại vương. (Mỹ: nghĩa đẹp,
Tự Nghĩa là chữ. Mỹ tự là cái chữ đẹp của Thần; Mỹ tự có chức năng là ca ngợi.
tán tụng công đức, sự nghiệp của vị thần được thờ).
- Về Thành Hoàng bản thổ nhân dân tôn
là Đức Thánh Nhì ở Nghè Đồn, Nghè là nơi thờ 1 người có công đầu lập nên làng
Tọ Đồn (không nói rõ họ tên). Duệ Hiệu ngài là Thành Hoàng bản thổ Côn ông tước
phong Dực bảo trung hưng linh phù gia Phong đôn ngưng thượng đẳng tôn thần.
- Về Sơn thần Long hổ Thượng tướng
quân tôn thần, nhân dân tôn là đức thánh Tam. Truyện dân gian kể lại thần tích
của ngài với điểm tốt lành duyên may trời định như sau: “Bấy giờ quân nhà Minh
đóng quân trong thành Tây Đô mấy ngày liền giawcj Minh kéo ra đóng đồn tại cánh
đồng Quan. Hỗn tướng nhà Mình đã gây cho nhân dân ta những cái chết chóc đau
thương. Cũng vào thời điểm này 1 tướng của Lê Lợi cùng 1 số quân vượt sông Mã
bằng thuyền nan sang khu vực núi Ngưu Ngoạ (núi có nghè trên đỉnh núi hiện nay)
thị sát quân Minh. Hôm ấy là ngày mùng 3 tháng 7 âm lịch, trời có mưa, nhưng
ban ngày lại tối như ban đêm. Bọn giặc Minh trong đó có 1 tướng lại có thân
hình nhỏ nhất đi thị sát đến khu vực Văn Chỉ thì tướng nhà Minh bị 1 con hổ vồ.
Con hổ lôi tướng nhà Minh lên đỉnh núi ăn thịt. Quân ta hò reo đuổi hổ lấy được
áo giáp, mũ của tên tướng nhà Minh ném sang cho quân giặc. Quân lính nhà Minh
thấy vậy rút vội vào thành và từ đó không dám ra khỏi thành. Hổ không bắt được
tướng giặc nên dân Thọ Sơn Trang lập đền thờ ngài và Ngài có Duệ hiệu là: Sơn
thần Long hổ huyền đàn thượng tướng quân, tước phong Dực bảo trung hưng gia
phong tú ngực thượng đảng tôn thần.
Cả ba thần thở ở nghè Thọ Đồn hiện
nay đều được cúng tế chung vào lễ kỳ phúc mùng 10 tháng 3 âm lịch và lễ tế hè
mùng 1 tháng 4 âm lịch hàng năm.
5. Thần Minh Linh tôn thần, Hoằng Nghi tôn thần, thờ ở làng Mỹ Xuyên;
Trong sách Thanh Hóa Chư Thần Lục (tức
các vị thần thờ ở Xứ Thanh) có ghi Minh Linh tôn thần – Hoắng Nghi tôn thần
được thờ xã Mỹ Xuyên huyện Vĩnh Lộc nhưng không có thần tích. Căn cứ vào quyển
Tộc Phả của họ Vũ Mai làng Mỹ Xuyên có phần nói về sự tích của thần lập ấp Mỹ
điềm trang (Mỹ Xuyên) do ông Vũ Mai Cấn dịch từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ năm
1983, biết được thần lập ấp trang Mỹ Điềm và thần tích của Minh Linh tôn thần
và Hoằng nghi tôn thần như sau:
“Thời nhà Trần có 1 người Tù trưởng có uy
tín 1 vùng, họ Vũ, tên Minh cùng vợ là Lê Thị Ngọc đến lập trại tại Quan Hoàng
sách, huyện Cẩm Thủy (tục gọi là Mã Mốc) tức Mỹ Xuyên ngày nay, vợ chồng muộn con
chỉ làm điều nhân đức và khẩn hoang lập trại.
Một buổi trưa (giờ ngọ) Thái Nương ngủ
mộng thấy 1 cụ già tóc bạc phơ đưa 1 bé trai đến bà bế bé trai 1 cách trìu mến
đến 7 lần, sau đó bà tỉnh dậy nói với Thái công cho đó là quái mộng liền làm lễ
tống quái mộng.
Từ hôm ấy Thái Nương cảm ứng thành thai
ngoài 7 tháng sinh 1 bé trai trong bọc (đẻ bọc) thấy có 7 điểm đen ông cho là
quái gở đem ra đấu Hoa Xứ bỏ (tức là gò Mã Anh). Ngày mai dân làng đi làm đồng
thấy có em bé khóc nên về bảo với Thái Công, Thái Công chạy ra quả thực đứa bé
mặt mũi khôi kỳ, liền đem về nuôi. Ngày tháng thoi đưa đến 11 tuổi đặt tên là Đức,
đến 14 tuổi cho học trường của Tiên sinh, em học 1 biết 10, nhưng khổ thay cùng
năm ấy Thái Công từ trần, thế là chỉ 2 mẹ con nuôi nhau.
Đến năm 19 tuổi em học giỏi trên thông
thiên văn, dưới tường địa lý, tiếng tăm đến triều đình, em có uy tín toàn vùng,
khi đó vua Trần Thánh Tông qua tới phủ Thiệu Thiên, Vua cho gọi em đến. Vua
trông thấy dáng người nho phong mỹ hạnh, vua liền phong cho sức Thái Úy đồng
thời triệu vào Triều làm việc. Chỉ trong 3 năm ông được nhà vua yêu mến lại
phong cho chức Quyền Thái Giám nội vụ, ông làm quan trải 3 triều vua. Năm 75
tuổi ông xin về trí sĩ tại Mỹ Điềm trang, vua cho 50 lạng bạc và cho hưởng lộc
Mỹ Điểm trang (ruộng đất). Cụ về mở trường dạy học từ 1 năm. Ngày 1 tháng 8, cụ
mơ thấy có 1 viên quan có mũ chỉnh tề, tay cầm cờ lệnh và binh lính đầy sân,
khi tỉnh dậy cụ nói với gia đình, quả nhiên 3 tháng sau cụ lâm chung, dân làng
thương tiếc đem chôn tại đồng Lũy Thổ và lập đền thờ (Thượng sàng hạ mộ)
Sau ít năm quân Chiêm Thành xâm chiếm
nước ta, vua Trần Minh Tông cầm con đi đánh giặc khi vừa đến địa phương Mỹ Điềm
trang tự nhiên trời tối đen, sấm chớp ầm ầm, vua đành phải dừng quân tại đây.
Đêm hôm ấy vua cho gọi phụ lão thăm hỏi, các cụ tâu bày sự tích thần lập ấp đã
làm quan trải qua ba triều.
Đêm hôm ấy vua mộng thấy của vị thần áo
mẫu chỉnh tề, đến trước mặt vua quỳ tâu: “tôi là thái giám đã làm quan trải 3
triều Trần nay thấy vua đi đánh giặc xin vua cầu thiên thần” vua tính dậy sai
các quan đến thờ thần Thái Giám cầu lễ, và sai dân lập đàn cầu Thiên thần.
Trong khi đang cầu lễ thì trời tối sấm lại, vua trông thấy vị thần đứng trước
vua tâu rằng: “Tôi là thiên thần được lệnh giúp vua đánh giặc” rồi biến mất,
trời lại quang tạnh như thường.
Vua chắc chắn có thần giúp đỡ, liền
đem quân đi ngay, qua 1 tháng đến địa điểm, vua tung quân đánh trận đầu 1 ngày
không phân được thua đành phải nghỉ.
Đến sáng ngày mai vua lại ra quân,
khi đang đánh nhau tự nhiên thấy có sấm chớp, mây đem kéo đến, vừa có tiếng
binh lính hò reo ầm ầm, rồi trời lại quang tạnh, vua liền thúc quân đánh tiếp.
Quả nhiên chỉ trong vài hiệp giặc bị tan vỡ, vua thgu nhiều khí giới và bắt
được cả tướng giặc đem về. Đến ngày 19 tháng 7 vua lại tới Mỹ điềm trang nghỉ
chân, sai các quan làm lễ tạ đền Thái Giám đồng thời cho dân ăn mừng 5 ngày,
tặng 140 quan tiền lập thêm 1 đền thờ (nghè Đông) giữa nơi vua trú chân nghỉ (sau
có ngày hội đàn). Dân địa phương cứ đến ngày 3 tháng 5 âm lịch là lễ hội đàn,
và khi vua đi có phong sắc cho 2 ngồi đền ở đây: Đền Tây (dịch nghĩa): Đương Cảnh
Thành Hoàng Trường Thái Giám Quốc Sĩ Hoằng Nghi thần minh thượng đảng phúc thần
Đại vương, đền Đông dịch nghĩa: Dương Cảnh bản thổ hiền đức Thông ứng Minh Linh
Thượng đẳng thần Đại vương.
+Ngoài
thờ thần ra các làng Vĩnh Yên xưa đều thờ phật và thờ mẫu Liễu Hạnh. Làng nào
cũng có ngôi chùa to, nhỏ khác nhau, có làng có tới 2 ngôi chùa trong chùa là
nơi thờ phật và thờ mẫu. (làng xây nơi thờ mẫu riêng gọi là phủ);
Phật Giáo nguyên có nguồn gốc từ nước Ấn Độ,
người sáng lập ra đạo Phật là thái tử Tất Đạt Đa sinh năm 563 trước công nguyên.
Phật Giáo truyền vào Việt Nam từ đầu công nguyên, ở Thanh Hóa phật đã phát
triển vào thế kỷ thứ VI sang thế kỷ thứ X mới thịnh hành với triều Đinh và triều
Lê.
Theo quan niệm trong dân gian, các Đức
Phật đều có lòng bác ái, bao dung, từ bi, hỷ xả lớn lao, có khả năng cứu khổ,
cứu nạn, phù hộ cho con người khi gặp những điểu tai ương “được tai qua, nạn
khỏi”. Những người đi lễ phật là cầu mong tránh được những điều ác, gặp được
điều thiện và tu thân.
6. Về Liễu Hạnh công chúa, cũng là 1 vị thần.
Theo các
sách thần tích của bà chúa Liễu Hạnh được kể như sau: Thần là Chúa Tiên trên Thiên Đình giáng sinh vào nhà họ Lê ở xã An Thái,
huyện Thiên Bảo, rồi lấy chồng người đồng hương sinh được một người con gái thì
hoá. Sau thường hiện hình thành người cùng hai nàng là Quế Hoa và Quỳnh Hoa,
thường đi du ngoạn các danh Sơn, thắng cảnh và hiển hiện tiếng thiêng. Năm cảnh
trị (1663 – 1671) vua cho xây dựng đền thờ và phong là “mạ vàng công chúa” rồi
sai dân thờ phụng. Sau các vua đi đánh giặc thần đều giúp cho thành công và
thắng lợi. được gia tăng: “Chế thắng hòa diệu Đại Vương”. Rồi tỏ sự linh ứng, các
đời đều có phong tặng.
Người dân Vĩnh Yên từ xưa đến nay lên
chùa lễ phật, lễ mẫu và các ngày sóc (mùng một âm lịch) và ngày vọng (ngày mười
lăm âm lịch) hàng tháng. Lễ hội lớn nhất của chùa ngày Phật Đản ngày mùng tám
tháng tư âm lịch (nay là ngày mười lăm tháng tư âm lịch).