Trang

Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2023

ĐỊA CHÍ THỪA THIÊN - HUẾ (HỒ ĐẮC DUY)

 


HỒ ĐẮC DUY

ĐỊA DƯ CHÍ ĐẤT VIỆT NƯỚC NAM

 

Quyển

THỪA THIÊN – HUẾ

 

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

 

Lời nói đầu

          Địa lý học là một môn học có từ lâu đời; quyển Nam Bắc phiên giới địa đồ được xem là quyển sách địa lý đầu tiên của nước ta.

          Dưới thời Hậu Lê, vua Lê Thái Tông đã lệnh cho Nguyễn Trãi viết sách Địa Dư Chí. Sau khi Nguyễn Trãi hoàn thành xong Địa Dư Chí, Vua sai Nguyễn Kiên Tùng làm Tập chú, Nguyễn Thiên Tích làm Cần án, Lý Tử Tấn làm Thông luận, rồi cho in khắc vào bộ Quốc Thủ Bảo Huấn Đại Toàn.

          Về sau, vua Lê Thánh Tông sai làm sách Thiên Hạ Bản Đồ; đến đời vua Lê Dụ Tông, vua sai Trịnh Cương định lại biên giới châu huyện rồi làm ra sách Tân Định Bản Đồ; cuối đời vua Lê Hiển Tông, Lê Nhữ Ngọc đã viết quyển Thiên Nam Lộ Đồ Thư, Ngô Thì Sỹ, Nguyễn Nghiễm soạn ra sách Nam Quốc Vũ Cống.

Dưới triều Tây Sơn có sách Cảnh Thịnh Tân Đồ.

Sau khi lên ngôi, vua Gia Long lệnh cho Lê Quang Định soạn bộ Nhất Thống Địa Dư Chí.

Dưới thời vua Minh Mạng, Phan Huy Chú soạn Dư Địa Chí.

Năm 1841, vua Thiệu Trị sai soạn sách Đại Nam Nhất Thống Chí. Dưới triều vua Tự Đức, Quốc Sử Quán soạn ra Đại Nam Nhất Thống Chí. Năm 1849, vua Tự Đức cho biên soạn Đại Nam Nhất Thống Chí theo lời tâu của Bùi Quỹ.

Năm 1865, Quốc Sử Quán biên soạn bộ sách dựa trên bộ Đại Nam Nhất Thống Dư Đồ.

Năm 1882, bộ Đại Nam Nhất Thống Chí mới hoàn thành, Quốc Sử Quán dâng lên vua Tự Đức xem và xin phép khắc in; nhà vua bắt sửa kỹ lại và làm thêm tập "Bổ biên".

Năm 1883, vua Tự Đức mất. Lúc ấy, trong triều liên tiếp xảy ra nhiều việc bất ổn và tiếp theo Kinh thành Huế thất thủ vào năm 1885, tất cả tài liệu trong thư khố gần như bị thất lạc hết.

Năm 1886, vua Đồng Khánh sai Hoàng Hữu Xứng viết sách Đại Nam Quốc Cương Giới Vùng Biên, gồm có 7 quyển. Sau đó, triều đình sai Quốc Sử Quán biên soạn bộ Đồng Khánh Địa Dư Chí, có 27 quyển và nhiều bản đồ.

Năm 1909, vua Duy Tân sai Quốc Sử Quán soạn lại bộ Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là bộ mới vì giai đoạn trước đó vua Tự Đức đã cho làm việc này rồi.

Về địa chí địa phương có Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1555, ghi chép về núi sông, thành trì, phong tục của xứ Thuận Hóa (tức là Châu Ô, Châu Lý của Chiêm Thành cũ); Trịnh Hoài Đức soạn sách Gia Định Thống Chí, Bùi Dương Lịch soạn Nghệ An Chí…

Năm 1910, Đại Nam Nhất Thống Chí được cho khắc in, nhưng nội dung hạn chế chỉ đề cập đến ở các tỉnh Trung Kỳ. Trong bộ sách này, nội dung từng tỉnh được viết cũng tương tự như bộ sách trước, dù có thêm bớt vài mục: Lăng mộ thì nhập lẫn vào Cổ tích; Nhân vật thì thêm truyện các hiếu tử. Ngoài ra, có thêm các mục mới là: Dịch trạm, Lý lộ và mỗi tỉnh có biên soạn thêm một bản đồ. Nguyên bản bộ sách được biên soạn khá công phu dưới triều vua Tự Đức, có 28 tập với 31 quyển được xem là bộ sách đầy đủ nhất về địa phương chí cho đến lúc này. Nội dung mỗi quyển biên soạn về một tỉnh, bao gồm: Kinh sư (Huế), phủ Thừa Thiên, Hà Nội, Hưng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Bắc Ninh, Quảng Yên, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Vĩnh Long, Gia Định, Biên Hòa, An Giang, Định Tường, Hà Tiên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phú Yên, và Phụ lục đề cập đến các nước lân cận: Campuchia, Thái Lan, Thủy Xá, Hỏa Xá, Miến Điện, Lào.

Cấu trúc nội dung mỗi tỉnh được trình bày theo các đề mục: 1) Phân dã (giới hạn theo các vị sao trên bầu trời), hiện nay chúng tôi cải biên lại bằng tọa độ; 2) Kiến trí diên cách (lịch sử thay đổi, tách nhập); 3) Hình thế (vị trí địa dư); 4) Khí hậu (thời tiết, mưa nắng); 5) Phong tục (tục lệ, thói quen); 6) Thành trì; 7) Học hiệu (trường học); 8) Hộ khẩu (dân số); 9) Điền phú (thuế ruộng); 10) Sơn xuyên (núi sông); 11) Cổ tích (di tích lịch sử văn hóa); 12) Quan tấn (cửa ải và đồn biên phòng); 15) Đê uyển (đê điều); 16) Lăng mộ (mộ vua, quan); 17) Từ miếu (đền miếu); 18) Chùa quán (chùa, đền, nhà thờ); 19) Nhân vật (tiểu truyện các danh nhân); 20) Liệt nữ (phụ nữ tài giỏi, có công); 21) Tiên thích (các bậc chân tu); 22) Thổ sản (sản vật địa phương); 23) Giang đạo (đường sông); 24) Tân độ (bến đò).

Về bản dịch ra chữ quốc ngữ có sự khác nhau giữa miền Nam và miền Bắc:

– Ở miền Nam, Đại Nam Nhất Thống Chí đã được dịch ra tiếng Việt lần đầu bởi Á Nam Trần Tuấn Khải và Tu Trai Nguyễn Tạo, đã được Nha Văn hóa thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa ấn hành năm 1960.

– Ở miền Bắc, bộ sách đã được ông Phạm Trọng Điềm phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1970, 1971.

Khác với lịch sử, hầu hết các sách về địa lý thường được viết bằng văn xuôi. Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái được viết dưới dạng văn vần. Riêng về địa lý, chúng tôi chưa thấy một tác giả nào viết địa lý bằng văn vần ngoại trừ một số bài thơ phong cảnh được các tiền bối vịnh ngâm mà thôi.

Chính vì lẽ ấy, đến tháng 8/2013 chúng tôi bắt đầu quyết định soạn bộ địa lý nước ta dưới dạng thơ với dự định sẽ viết mỗi tỉnh một tập; mỗi tập có khoảng từ 800 đến 1200 câu thơ song thất lục bát. Bộ Địa Dư Chí Đất Việt Nước Nam này sẽ có khoảng 70 tập, trong đó có 63 tập đề cập đến 63 tỉnh, thành phố cả nước, các tập còn lại sẽ đề cập về các lĩnh vực cụ thể của đất nước: núi sông, biển đảo…

Dữ liệu trong sách được cập nhật đến năm 2013. Đồng thời, chúng tôi sẽ cập nhật và thêm vào các mục mà sách xưa chưa đề cập đến như: bến phà, sân bay, nhà ga, bến xe, bến tàu, hải cảng, đường cao tốc, khu du lịch, khu công nghiệp, đập thủy điện, khu sinh thái, khu bảo tồn, hầm mỏ, tài nguyên khoáng sản, mỏ dầu, khách sạn, bãi tắm…

Trong quá trình biên soạn, tác giả đã tham khảo, sử dụng nhiều tư liệu, bài viết của các cơ quan, các nhà nghiên cứu trên cổng thông tin điện tử của 63 tỉnh, thành phố. Nhân đây, tác giả xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban ngành đã giúp đỡ, cung cấp tư liệu giúp tác giả hoàn thành bộ sách này.

Vì sách được biên soạn bởi một người cho nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ quý bạn đọc để sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau ngõ hầu góp một phần nhỏ vào việc giáo dục giới trẻ tự hào về non sông gấm vóc của mình.

Mong ước thay!

 

TP. Hồ Chí Minh, tiết Thanh Minh,

Xuân Giáp Ngọ 2014

Hồ Đắc Duy

 

CỐ ĐÔ HUẾ

Kinh đô Huế là nơi giao điểm,

Giữa rừng núi và biển hợp về.

Hai miền Nam Bắc chắn che,

Đất đai cao ráo bốn bề bình nguyên.

 

Cửa Thuận An, Tư Hiền đường thủy,

Núi Hoành Sơn, cửa ải Hải Vân,

Nam Bắc đồi núi chắn ngang

Địa linh nhân kiệt rõ ràng đất thiêng.

 

Phía mặt tiền, sông Hương án ngữ,

Dãy Trường Sơn nằm chắn sau lưng,

Một vùng đất thật lạ lùng,

Rồng chầu hổ phục, bên đường cái quan.

 

Đất Việt Thường, Nhật Nam thuở trước,

Xứ Thuận Quảng, Lâm Quốc, Chiêm Thành,

Từ Đèo Ngang, đến giáp ranh.

Tân Bình, Bố Chính, đất thành của ta.

 

Năm Thiên Thuận, Champa, Chân Lạp

Liên kết nhau trấn áp Nghệ An

Rồi khi Hoàng đế Chế Mân,

Đem Châu Ô, Lý cầu hôn làm quà.

 

Vua Anh Tông đổi ra Thuận Hóa

Rồi về sau Chiêm phá kinh thành.

Nhiều năm trong cảnh chiến tranh,

Ruộng vườn xơ xác, vắng tanh rùng mình.

 

Dân xiêu tán, mệnh trời thay đổi,

Nước lầm than, khổ nỗi dân lành,

Đến thời Trịnh – Nguyễn phân tranh,

Đất đai hoang hóa, đồng thành bãi hoang.

 

Chúa Nguyễn Hoàng lập dinh cố thủ,

Trên đất vùng Ái Tử phía Nam,

Rừng rậm vỡ đất khai hoang

Đưa dân lập ấp mở mang dần dần.

 

Nguyễn Phúc Lan chọn gần thế đất

Lập cơ ngơi, tạo dựng cơ đồ,

Nơi này sẽ đặt kinh sư

Xây nên triều chính bên bờ sông Hương.

 

Chốn đế đô, sông Hương núi Ngự,

Nơi kinh kỳ làm chỗ vua quan,

Thiết triều lo việc nước non

Xiển dương phong hóa, chỉnh trang vương triều.

 

Kinh thành Huế, chu vi mười tám (18 dặm),

Riêng chiều cao, một trượng lẻ năm (1,5 trượng)

 

Sông sâu vòng kín quanh thành,

Gạch xây thành lũy vây quanh bờ hào.

 

KIẾN TRÚC KINH THÀNH

Lối ra vào nội thành mười cửa:

Cửa Thể Nhân, Đông Bắc, Tây Nam,

Chính Đông, Quảng Đức, Đông Nam,

Chinh Tây, chinh Bắc, Chính Nam, An Hòa.

 

Để đi qua xây cầu bằng đá

Mặt chính giữa là ngã Kỳ Đài,

Trên thành hai dãy pháo đài

Bốn trăm xưởng súng với vài ngàn binh.

 

Sông Ngư Hà đào quanh Thành Nội,

Có vườn hoa, cồn nổi hào sâu

Trên bờ trồng cỏ, hoa ngâu

Có cầu Vĩnh Lợi thêm cầu Khánh Ninh.

 

Sông Hộ Thành bên ngoài Thành Nội

Cống Thủy Quan là lối ra sông.

Trên cầu có dãy hoa trồng

Có nhà che mái dừng chân cho người.

 

Cầu Gia Hội là nơi thị tứ

Cầu Bạch Yến, Bạch Hổ, Kim Long

Tháp chuông Thiên Mụ bên sông

Đô thành có Các Thiên Dương Bảo Trì.

 

Nhà chính quan lối đi lặng lẽ

Hiên Đồng Lạc lắm vẻ tương tư

Chung quanh thủy đạo ao hồ,

Ngàn hoa, cỏ lạ, lờ mờ bóng trăng.

 

Đêm Hoàng Thành nửa vầng trăng khuyết,

Cửa Ngọ Môn, rồi Duyệt Thị Đường

Phảng phất thoang thoảng mùi hương

Bóng nàng cung nữ bên tường Vọng Lâu.

 

Cửa Ngọ Môn có lầu Ngũ Phụng

Đài Đồng Khuyết đá dựng vườn hoa

Long Trì, Đan Bệ Quang Hòa.

Trung tâm có điện Thái Hòa ngai vua.

 

Tử Cấm Thành xây từ năm trước

Phía nam thành có cửa Đại Cung

Hưng Khánh nằm ở phía đông

Tây An phía bắc, trước cung Kiền Thành.

 

Trước Kiền Thành là điện Cần Chánh

Nơi nhà vua thiết định thường triều,

Phía tây Võ Hiền tiếp theo

Phía đông Đông Các, hậu liêu Kiền Thành.

 

Cung Khôn Thái, Tường Minh, Gia Thọ

Điện Văn Minh nằm ở phía đông

Hoa văn gắn cẩn lân rồng

Uy nghi quan chế vô cùng nghiêm trang.

 

Hàng phỗng đá là quan văn võ

Hồ Thái Dịch sen nở ngàn hoa.

NGOẠI THÀNH CỐ ĐÔ HUẾ

Cống Tây Thành nước chảy qua

Đền đài cung khuyết người ta nhìn vào.

 

Buổi bình minh xôn xao điền thái

Đàn Nam Giao ở xã Dương Xuân

Hình tròn đền đắp ba tầng

Dùng trong đại lễ dâng hương cúng trời.

 

Đàn Nam Giao bên ngoài thông mọc,

Chu vi đàn: bốn mặt tường cao,

Thần Đòn, thần Khố phía sau

Trai Cung Đại Tế dâng cầu lời xin.

 

Đất đắp nền cho Đàn Xã Tắc,

Là đất thiêng khắp nước đưa về.

Từ vùng vực thủy sơn khê

Đất màu ngũ sắc chở về kinh sư.

 

Cây mù u, thông xanh quanh lối,

Giống xoài vàng một gốc người ôm.

Đến ngày tế lễ đầu hôm

Vua thân hành đến mang hòm trầm hương.

 

Đàn Tiên Nông bên phường Yên Trạch,

Ruộng Tịch Điền hai mảnh đất thiêng,

Phía đông Quan Cách dành riêng

Giao cho Phủ doãn Thừa Thiên coi đàn.

 

CẤU TRÚC HOÀNG THÀNH HUẾ

Phía đông nam là nhà Thái Miếu,

Thờ Thủy Tổ họ Nguyễn Gia Miêu

Thần Khám, cung phiến, phù điêu.

Cực kỳ cung kính các triều trước đây.

 

Điện Long Đức được xây phía trước

Điện Mục Tư mấy bước hướng tây

Hương trầm nghi ngút khói bay

Có gian thờ phụng hiền tài triều xưa,

 

Phía bắc bên trong khu Thái Miếu

Thờ Triều Tổ miếu hiệu Gia Long.

Thế miếu nhà vua ở trong

Đề tên Hoàng Đế ghi công của người.

 

Sân trước đài, một hàng Cửu Đỉnh

Chính giữa là Cao Đỉnh uy nghi

Hoa văn khắc nét lạ kỳ

Giang sơn cẩm tú sơn khê dặm dài.

 

Trên Cửu Đỉnh vô vàn sử liệu

Được khắc họa nhiều kiểu hoa văn.

Cỏ cây hoa lá chim muông

Rừng vàng biển bạc, ruộng vườn phì nhiêu.

 

Đúc Cao Đỉnh ngàn cân bề thế

Nét điêu khắc mỗi vẻ mỗi tinh

ĐỀN MIẾU BÊN NGOÀI

Núi non quan ải kinh thành

Di tích lịch sử trên vành Đỉnh Cao.

 

Miếu Phụng Tiên nằm sau Hưng Miếu

Nằm trong vùng Thế Miếu Hoàng Gia,

Khám thờ bày biện nguy nga

Một nơi cấm kỵ vào ra phải trình.

 

Cung Khánh Ninh phía bắc sông Ngự,

Ở nơi đây xanh rợp bóng cây,

Thường ngày vua vẫn đến đây

Tập cung, tập kiếm, tập cày, làm thơ.

 

Cung Bảo Định thâm u tĩnh lặng,

Là nơi vua thư giãn tĩnh tâm

Phía trong có điện Long An

Có hồ Giao Thái, hai hàng phỗng quan.

 

Vua Thiệu Trị thường sang ngắm cảnh,

Cùng bầy tôi ngâm vịnh thơ văn

Hai mươi bài tả cảnh quan

Cung khai phiên yến mấy hàng án thơ.

 

Ngoài kinh thành miếu thờ Lịch Đại

Có khám thờ Thần Thái Tiên Vương.

SƠN LĂNG

Từ Kinh Dương đến Hùng Vương

Các triều Lê, Lý, huân thần đời sau.

 

Xã An Ninh có tòa Văn Miếu,

Ở kế bên Võ Miếu ba gian.

Trước sân là cửa Nghi Môn

Phía đông Quảng Trọng, Tây Môn bản triều.

 

Nền văn võ chúa yêu vua trọng

Xiển dương dần tích lũy sách hay.

Rèn gươm đúc súng, khí tài

Lập kho quân cụ lựa người tinh thông.

 

Tả sông Hương lập trường Quân Thủy,

Bến Ngươn Đình thuyền ngự của vua

Dưới sông người bán kẻ mua

Ngược xuôi mắc cửi từ trưa đến chiều.

 

Ở phía tây có thuyền miền ngược

Đi Sơn Lăng, vượt thác lên cao

Có lăng Tuệ Tĩnh, quần hào

Có lăng Trường Thiệu dốc cao đến ghềnh.

 

Lăng Thiên Thụ kế bên Cơ Thánh

Lăng Trường Diên ở cạnh Xương Lăng

Phần nhiều lăng tẩm ở vùng

Đều nằm trong núi, mé rừng giáp sông.

 

KIẾN TRÚC TRONG THÀNH

Góc đông bắc trong kinh thành Huế

Có Tịnh Tâm nằm phía Bình Đài

Cửa Thu Nguyệt ở hướng tây.

Đông Hi hướng bắc tường xây quanh hồ.

 

Ở trong hồ có ba hòn đảo

Đảo Bồng Lai, tiểu đảo Doanh Châu

Nối liền bằng những chiếc cầu

Dưới hồ Phương Trượng có lầu Tĩnh Tâm.

 

Cầu Lục Liễu, Nam Huân gác gỗ.

Điện Bồng Doanh cổ độ ngàn năm,

Cá dầy gặm cỏ sủi tăm.

Là nơi di dưỡng tịnh tâm tinh thần.

 

Nam kinh thành có vườn Cơ Hạ.

Có ngàn cây cỏ lạ hoa thơm.

Có nhà thủy tạ thâm sơn.

Có lầu Thưởng Thắng lối mòn dạo quanh.

 

Hiên Thận Nhật gác xanh Quang Biểu,

Sóng Trại Võ lá liễu ngủ đêm.

Bóng trăng ngất ngưỡng trước thềm,

Hành lang Khả Nguyệt làm mềm Hằng Nga.

 

Vườn thượng uyển người qua ngự lãm.

Có nhiều cây là cảnh kỳ hoa.

CÔNG VIÊN NGOẠI THÀNH

Đình Quang Đức, ngõ Tiên Sa.

Cảnh quan thanh thoát như là cõi tiên.

 

Ngõ Tây Sương quanh Kinh thành Huế,

Có rất nhiều sân quế danh viên

Từ Thánh phong đến Lục viên

Lại thêm Thúy Mỹ, Xuân Viên, Mậu Đình

 

Những công trình vườn hoa xinh đẹp

Vua làm ra dành để cho dân

Vào chơi lễ hội du xuân

Trai thanh gái lịch dừng chân chuyện trò.

 

Trước Ngọ Môn cột cờ cao vút,

Cờ Tổ quốc trước gió tung bay

Lính canh trấn giữ đêm ngày

Hồn thiêng đất nước cờ bay muôn đời.

 

Trên Kỳ Đài có lầu Vọng Đẩu

Từ trên cao nhìn thấu khắp nơi

Đặt người canh gác bầu trời

Thấy gì khẩn cấp báo ngay quan phòng.

 

Trước Kỳ Đài, Phú Văn lầu cổ

Ngày xưa có bảng gỗ đề tên

Xướng danh tiến sĩ trước thềm

Là nơi thi Hội, thi Đình mỗi năm.

 

Lầu Tàng Thơ phía nam Hồ Tịnh

Là nơi chính cất giữ công văn.

Và nhiều tư liệu rất cần

Để dành tra cứu dễ dàng về sau.

 

Ở ngoại thành kinh sư còn có

Nhiều hành cung chỗ ở cho vua.

Khi đi tuần thú công du

Dừng chân ở lại, lên bờ nghỉ ngơi.

 

Thừa phủ hành cung nơi đây cảnh đẹp.

Trước bằng tranh, gạch ghép xây thêm.

Phía đông chằm phá rừng chen.

Chim muông cư trú ngày đêm bay về.

 

Vua gọi tên Đông Lâm Dật Điểu,

Ngài làm thơ cho biểu dựng bia.

Có khi ngâm vịnh đến khuya

Thưởng trà đôi chén cầm kỳ so giây.

 

Chiều Hương Giang, thuyền xuôi Thuận Trực

Cung Thúy Vân vàng rực ánh trăng

Ngoài khơi sóng vỗ mênh mang

Nửa đêm thức giấc bóng trăng trước thềm.

 

Cung Thuận An ru êm giấc ngủ

Trước thềm lan liễu rủ mơ màng

Xa nơi đô hội ngai vàng

Tưởng mình lạc cõi địa đàng ở đâu.

 

CUNG KHUYẾT

Trong kinh thành đình lâu phủ đệ

Nhà Phúc Thiên cho kẻ cơ hàn

Còn nơi dinh thự của công

Là nhà lưu trú có phòng nghỉ ngơi.

 

Viện Thái Y gần ngôi Duyệt Thị

Nhà Nội Các nằm phía Tả Vu

Tập Hiền, Nội Vụ, Hữu Vu

Tôn Nhơn, Cơ Mật mù u mấy hàng.

 

Đường lục bộ là nơi quy tụ

Sáu bộ ngành cột trụ triều đình

Bộ Công, Bộ Hộ, Bộ Binh

Bộ Lễ, Bộ Lại, Bộ Hình sáu nơi.

 

Cả sáu nơi, lựa người bổ nhiệm.

Quan Thượng Thư điều khiển đứng đầu.

Tham tri, Tuần Vũ đứng sau.

Nhân viên, lính lệ người hầu mấy trăm.

 

Viện Hàn Lâm gần Quốc sử quán

Hai nơi này khoa bảng lắm người

Hàn Lâm nằm ở phía tây

Là nơi hội tụ nhân tài nước ta.

 

Ở gần bên Quan nha Vũ khố

Nhà Tào chính, Thái bộc, Hồng lô

Quan chức dừng để chuyển lo

Giúp thêm các bộ dự trù cho nhanh.

 

Ở trong thành có kho thuốc nổ

Sở Diêm Tiêu chủ sự Bộ Hình

Ty Trực Tinh thuộc Bộ Binh

Là nơi hiểm yếu cấm binh canh chừng.

 

Khu Trường Thi ở phương Ninh Bắc

Thí viện coi việc phép tắc quan trường

Viện Giám khảo, chỗ thi Hương

Hàng trăm sĩ tử nhập trường đến đây.

 

Ngọ Môn nơi gần Quốc Tử Giám

Ở phía sau là phố xa nhà dân

Sông Ngự Hà, nhà Tể Sinh

Chung quanh chợ búa dân sinh lắm người.

 

Ở khắp nơi, nhà trạm, bệnh xá

Có nhiều nhà Loan Giá, Cẩm Y

Đền Phong gió thổi Ngưng Hi

Ve kêu, bóng rủ thầm thì bên song.

 

Ở ven sông có nhiều đền miếu

Thờ các thần Sông, Núi, Đá thiêng

Thờ người đột tử oan khiên

Thờ người chết đuối đắm thuyền trôi sông.

 

Thượng lưu sông Hương chùa Thiên Mụ,

Là ngôi chùa rất cổ phía tây

CHÙA QUÁN

Lầu Chuông, lầu Trống, Phật đài

Thấp trên năm trượng mây vài tầng cao.

 

Chùa Thánh Duyên lao xao sóng vỗ

Dưới chân chùa mấy chỗ dừng chân

Núi cao trăm bậc, Thúy Vân

Danh lam thắng cảnh, khói trầm trong mây.

 

Chùa Diệu Đế bóng soi Gia Hội

Sân nhà chùa rộng rãi đầy hoa

Hai bên tượng Phật mấy tòa

Lầu Chuông, lầu Trống thoảng xa mùi thiền.

 

Ở Thừa Thiên có nhiều chùa quán

Chùa Tường Vân, Bác Vọng Ưu Điềm,

Chùa Ông, Từ Hiếu, Kim Tiên

Bảo Sơn, Viên Giác, Đông Thuyền, Thiền Lâm.

 

Chùa Tuệ Lâm, Diên Thọ, Quảng Đức

Chùa Hà Trung, Vạn Phước, Quốc Ân

Từ Đàm, Hải Đức, Khánh Vân

Trúc Lâm, Diệu Đức, Hồng Ân, Bảo Hoàng.

 

Chùa Tịnh Quang, Phước Duyên, Tuệ Vũ

Chùa Cổ Trát, Tịnh Phổ, Thiên Hòa

Đức Sơn, Long Phúc, Liên Hoa

Báo Quốc, Liên Tịnh thật là thiền danh.

 

TỈNH THỪA THIÊN

VỊ TRÍ ĐỊA DƯ

Nét văn hóa của nền Phật giáo

Ở kinh đô là chỗ cội nguồn

Là nơi nhiều loại pháp môn

Thiền sư Liễu Quán, dấu còn Thiên Thai.

 

Sư Diệu Không, một người trầm mặc

Tổ Giác Nhiên trước tác nhiều pho

Sư ông Mật Hiển học trò

Người là đệ tử truyền tâm của thầy.

 

Chùa Tường Vân có ngài Tịnh Khiết

Là Tăng Thống Phật giáo Việt Nam

Người cha trong giới Già Lam

Vô cùng đức hạnh nghiêm trang chốn thiền.

 

Chùa Từ Đàm vốn nguyên Quốc tự

Hiện nay là trụ sở Già Lam

Là nơi Phật học trung tâm

Có ngài vị pháp thiêu thân vì đời.

 

Phía bắc Huế giáp ranh Quảng Trị

Còn phía nam giáp tỉnh Quảng Nam

Giáp biển về phía đông nam

Phía tây là rặng Trường Sơn giáp Lào.

 

NÚI NON – SÔNG NGÒI

Đất Thừa Thiên thuộc châu Ô, Lý

Thời Anh Tông, dụ chỉ đặt tên

Châu Thuận, châu Hóa là miền

Là vùng đất mới thuộc quyền nước ta.

 

Bảy trăm năm đã qua thuở trước (1307)

Việc thay đổi đất nước đến nay

Thay da, đổi thịt từng ngày

Rừng hoang phố thị, cỏ cây thành đồng.

 

Qua đời Trần, đời Lê, triều Nguyễn

Nền hành chính biến chuyển thật nhanh

Phân vùng, đo đạc, vẽ ranh

Đặt tên quận huyện, thị thành phân minh.

 

Núi Thừa Thiên có 70 ngọn

Núi thấp dần cuối dãy Trường Sơn

Trùng trùng, điệp điệp núi non

Bạt ngàn rừng thẳm, xanh rờn lá cây.

 

Núi Ngự Bình án ngay trước mặt

Cửa Ngọ Môn, phía trước hoàng cung

Ngự Bình danh thắng khắp vùng

Mây giăng đỉnh núi, một rừng thông reo.

 

Núi Hải Vân, đường đèo vách đá

Về phía tây, xanh lá cây rừng

Bên đông nước biển chập chùng

Ở trên đỉnh núi, hùng quan xây đài.

 

Trên Hải Vân nhiều cây gỗ quý

Rừng Cầu Hai có loại trầm hương

Ngạt ngào hương tỏa dị thường

Kim giao lá nhỏ mùi hương thơm lừng.

 

Đi thật sâu vào rừng núi thẳm

Cũng có thể tìm gặp kỳ nam

Dưới gốc cây gió rụi tàn

Môt loại nhựa quý khó tìm đâu ra.

 

Ngoài biển xa, Thúy Vân, Linh Thái

Trên núi này có mái chùa hoang

Có hàng trụ đá của Chăm

Chưa người đọc được chữ Chàm tới nay?

 

Núi Phú Bài, phía nam Hương Thủy

Núi Lựu Bảo, núi Úy, Trúc Lâm

Núi Khải Vận, núi Dương Lăng

Núi Voi, núi Chúa thấp dần hướng đông.

 

Ngọn núi Rồng, núi cao Kim Phụng

Sau núi này là động người Man

Chập chùng cao thấp cây rừng

Chín mươi ngọn núi quanh vùng Sơn Lăng.

 

Núi Cao Đôi, Bạch Mã, núi Chấn

Núi Kim Long, Khải Vân, Cổ Nông

Núi Thương, Hải Cát, núi Nông

Núi Bao Vinh, núi Vọng, núi Cổ Bi.

 

Ngọn Kim Phụng, lối đi dốc đứng

Vách núi cao, đá dựng lên trời

Là nơi danh thắng tuyệt vời

Chiều tà đứng ngắm lòng người khó quên.

 

Hệ sông ngòi thành hình mạng lưới

Nước trên cao từ dãy Trường Sơn

Đổ về vùng phá Tam Giang

Ô lâu, Tả trạch, Sông Nông, Sông Bồ.

 

Theo chiếc đò ngược dòng sông Chảy

Từ bến Tuẩn nước rẽ làm hai

Sông Hương nước hợp nơi đây

Chảy về Gia Hội, chợ Mai, bến Sình.

 

Sông cứ chảy, êm đềm về phá

Qua Bao Vinh, rẽ ngã Thanh Tiên

Qua đồn Trấn Hải, cồn Tiên

Xuôi về biển cả của miền Thuận An.

 

Cả ngàn năm, dòng sông không đổi

Dòng nước trong; sương khói lưng trời

Bên bờ thạch thảo mọc đầy

Tỏa hương thơm ngát hương bay cuối dòng.

 

Con sông Hương, con sông huyền thoại

Mùi nước thơm tắm gội thời gian

Hòa tan giọt đọng sương tan

Xương bồ thạch thảo cuối nguồn quanh co.

 

Sông là thơ mộng mơ là sóng

Vỗ thì thầm gió động lăn tăn

Bóng ai thấp thoáng dưới trăng

Câu hò mái đẩy, chạnh lòng tình ơi!

 

Sông Chợ Mai gần sông Chợ Nọ

Hai sông này về ngã Thuận An

Con sông thuộc huyện Phú Vang

Mương ngang dẫn nước cánh đồng hai bên.

 

Sông An Cựu bờ nghiêng nước chảy

Từ Cầu Ga cho đến Hà Trung

Dòng sông nắng đục mưa trong

Con sông nay đã không còn như xưa.

 

Sông Phú Bài vào mùa nước lụt

Cá trên nguồn mỗi lúc mỗi nhiều

Cá dầy, cá gáy, cá mẻo

Ngạnh nguồn cá diếc kho tiêu tuyệt vời!

 

Ở phía tây có sông Thiên Lộc

Dòng sông này có gốc Trường Sơn

Dòng chảy về phía tây nam

Lắm ghềnh, nhiều thác băng ngang cây rừng.

 

Sông Bạch Yến ở vùng Xước Dũ

Chảy vòng vèo rồi đổ ra sông

Mặt sau của đất Kim Long

An Hòa điểm cuối của con sông này.

 

Sông Cao Đôi, Nam Đông Phú Lộc

Phát nguyên từ ở sóc Cao Đôi

Vùng này dân tộc Tà Ôi

Hiện đang sinh sống vùng đồi chung quanh.

 

Cách kinh thành, phía nam Phú Lộc

Sông Sư Lỗ nằm ở Ứng Đôi

Đến Bàn Môn, sông rẽ hai

Chảy về đầm phá Cầu Hai cuối cùng.

 

Sông An Nông và sông Mỹ Chánh

Sông Đan Điền dòng chảy quanh co

Chảy qua mười mấy bến đò

Mấy ngàn thửa ruộng đang chờ nước sông.

 

Chi sông Hương có sông Như Ý

Sông này thuộc huyện lỵ Phú Vang

Con sông nước đã bịt dòng

Con sông hấp hối, ngổn ngang rác thừa.

 

Sông Nga Sơn, thuở xưa rất đẹp

Phát xuất từ vùng hẹp cao nguyên

Dùng dằng sông chảy thật êm

Nước sông trong vắt, mây liền với mây.

 

Sông Ngự Hà trong Kinh thành Huế

Từ Kẻ Vạn đến Hàm Tế phía đông

ĐÈO DỐC

Dòng chảy từ sông Kim Long

Chảy vô thành nội nối dòng Đông Ba.

 

Đèo Hải Vân, “Hùng quan đệ nhất”

Biệt danh này quả thật không ngoa

Khách du lịch đã đi qua

Cũng đều tấm tắc: quả là như tên.

 

Hải Vân quan mang tên cửa ải

Bởi ngày xưa ranh giới hai bên

Chiêm Thành, Đại Việt, mỗi miền

Dưới chân sát biển, phía trên mây tầng.

 

Đèo Phước Tượng ven đường quốc lộ

Trên đỉnh đèo còn chỗ dấu chân

Chim kêu ai oán Huyền Trân

Lung linh bóng nguyệt chập chờn hương xa.

 

Đèo Phú Gia đường ra ngoài Huế

Dốc ngoằn ngoèo khó thể nhìn xa

Phía đông là biển xa xa

Phía tây vách núi, ráng tà mù sương.

 

Dốc Từ Đảm: Độ cao thoai thoải

Đi từ cầu lên tới ngã ba

Nam Giao phía trước xa xa

Phía bắc thung lũng, đi ra bến đò.

 

GÒ ĐỐNG

Dốc Bến Ngự, đi lên, không xuống

Độ dốc cao hơi đứng khó đi

Đường xe lửa, dù chắn che

Vẫn còn nguy hiểm cho xe chở hàng.

 

Dốc Nam Giao, không bằng, nhưng thẳng

Đẹp nhất là lúc nắng chiều phai

Gái Nam Giao để tóc dài

Dáng đi tha thướt nhớ hoài ngàn năm.

 

Dốc Câu Lim phía nam Long Thọ

Trên dốc có miếu cổ lâu đời

Ngày rằm, mồng Một, nhiều người

Đem hương cúng vái, lễ trai, cúng thờ.

 

Áng mây bay trên gò Long Thọ

Người ta thường gọi “Địa trục thiên quan”

Là nơi án giữ cửa quan

Trong từ phía bắc, phía nam vùng này.

 

Gò Dương Xuân, bắc tây Hương Thủy

Đàn Nam Giao nằm phía tây nam

Ngày xưa có phủ tây nam

Hôm nay chùa Quán Già Lam thay rồi.

 

Gò Linh Mụ, có ngôi cổ tự

Mấy trăm năm thủa trước vua Lê

ĐẦM PHÁ

Lầu Chuông, lầu Trống, hậu liêu

Sân sau lối trước, liễu nghiêng, trăng gần.

 

Chuông Linh Mụ, tiếng ngân theo gió

Đời thăng trầm tiếng mõ thời gian

Hương bay phảng phất mùi trầm

Dòng sông thầm lặng tĩnh tâm lòng người.

 

Phá Tam Giang gần nơi cửa biển

Là một vùng nổi tiếng tài nguyên

Hơn trăm loài cá, loài chim

Toàn loài đặc hữu khó tìm đâu ra.

 

Đầm Cầu Hai ngoài xa nhiều cá

Bờ phía tây: Đá Bạc, Hà Trung

Bờ đông sương khói mịt mùng

Thánh Duyên cổ tự, giữa vùng nước non.

 

Đầm An Gia, An Xuân, Mỹ Á

Đầm Cổ Đà về phía đông nam

Đầm La Bích, đầm Thanh Lam

Đầm Bác Vọng, với đầm Sam, An Truyền.

 

Đầm An Truyền là nơi có chợ

Chợ làng Chuồn, chợ mở sáng đêm

Người buôn, kẻ bán đều quen

Rượu Chuồn, bánh khoái điểm thêm cá kình.

 

KÊNH RẠCH

Con cá chình, ong hương, bống thệ

Con cá dìa được mẽ cá tươi

Cá chuồn, cua biển mấy loài

Có khi bắt được một vài con to.

 

Qua tháng bảy là mùa cá đối

Con tôm rằn gió thổi tháng ba

Gió êm biển lặng thuyền ra

Sương sa, gió lặng, trăng già: mực nang.

 

Kênh La Khê trước lăng Thiên Thụ

Nước từ kênh, nước đổ ra sông

Vùng đồi, vùng núi Định Môn

Suối to, suối nhỏ, nước gom tự nguồn.

 

Kênh Châu Ê có nguồn trong núi

Kênh kéo dài Châu Chữ tới đây

Vòng quanh đến bến kênh này

Cuối cùng nước đổ vào ngay đầu nguồn.

 

Kênh Lăng Xá từ đồng An Cựu

Chảy ngoằn ngoèo sông cũ Lợi Nông

Tưới tiêu cho cả cánh đồng

Của vùng Lăng Xá, Phú Lương, Thần Phù.

 

NGUỒN THÁC

Nguồn Sơn Bồ có ba mươi thác

Thác Ông Thai, ba thác Sơn Long

Thác Rau, thác Tất, thác Bàn

Thác Ao, thác Mạ, thác Con, thác Bà.

 

Thác Lai Đôi, Đại Cô, Lộc Cốc

Thác Kiền Kiền, Mang Mộc, thác Năng

Thác Chiêu, thác Gối trên ngàn

Nhiều nơi thác đẹp, cảnh quan khó tìm.

 

Nguồn Tả Trạch im lìm chướng khí

Có rất nhiều vị trí tuyệt vời

Hơn năm mươi thác đá trồi

Thác Tổ Sa, thác Trà Hồi, thác Thang.

 

Thác Cù Mông, thác Thủ, thác Đá

Thác Bụi Trúc, Chọi Cá, Đình Linh

Thác Lấp, Châu Mã, Sơ Đình

Thác Gạt Nai, thác Kịch, thác Kim… tuyệt vời.

 

Nguồn Ô Lâu, Bình Vôi, Thị Đốc

Thác Bến Chim, Điển Mộc, thác Dài

Thác Chỉ Xác, thác Mộc Bài

Đều là danh thác, nhiều người muốn xem.

 

Nguồn Hữu Trạch, phát nguyên từ rặng

Núi Trường Sơn chảy thẳng phía đông

BÃI BỒI – CỒN NỔI

Nguồn có mười bốn thác gềnh

Một là Thác Rượu, Trà Tường, thác Tu.

 

Thác Gà Lôi, thác Sô, thác Việt

Thác Ba Lai, thác Nghĩa, A Lăng

Thác Ruộng, Thác Hiệp nước trong

Về xuôi nước chảy giữa dòng hoa lau.

 

Thác My Y, nơi sâu nơi cạn

Ở giữa dòng những tảng đá xanh

Đầu nguồn khe suối Trà Linh

Danh lam thắng cảnh hữu tình khó quên.

 

Ở Thừa Thiên, bãi bồi cồn nổi

Như cồn Hến, cồn Nổi Thanh Tiên

Những nơi danh tiếng làm nên

Giống bắp thật dẻo, thật mềm, thật ngon.

 

Cồn Dã Viên con con nho nhỏ

Là hoa viên của vị quân vương

Nằm gần ở giữa sông Hương

Nhà vua mua lại, lập vườn trồng hoa.

 

Một món quà của vua Tự Đức

Dựng cơ ngơi lấy trúc làm nhà

Cây cổ thụ, rợp ngàn hoa

Làm nơi thư giãn chiều tà ngự chơi.

 

Nơi bãi bồi ngàn hoa dị thảo

Vua trồng thêm loại cỏ hiếm hoi

Hang sâu, động thẳm là nơi

Cho loài dị thảo thêm tươi chốn này.

 

Cồn Dã Viên, một nơi thắng cảnh

Vua để dành dưỡng tánh, tĩnh tâm

Hoa viên ấy đẹp vô cùng

Chừ đây cỏ mọc hoang tàn lối xưa.

 

Bãi Rái Cá lời như huyền thoại

Mảnh đất thiêng cho loại rái sông

Ăn no, tắm mát, phơi lông

Gặp thuyền hoàng đế Thánh Tông ngang chào.

 

Năm Minh Mạng vào đầu đông giá

Khi nhà vua ngự giá thăm lăng

Rái cá tụ lại môt đàn

Rồi cùng cúi lạy, vua ban tên này.

 

Khu cồn Hến nằm nơi phố chợ

Sẽ trở thành đắt đỏ mai sau

Nên nhạy cảm, biết đầu tư

Một hòn đảo nhỏ sẽ thu nhiều lời.

 

Như hiện nay, nhân dân kham khổ

Dân số nhiều không chỗ nương thân

Đa phần lao động tay chân

Nếu đem tất cả cư dân tới vùng.

 

DÂN SỐ - HỘ KHẨU

Vùng ở mới là vùng quy hoạch

Có trường học tách bạch khang trang

Dân sinh phải tính rõ ràng

Triệt ngay tham nhũng, triệt ngăn cửa quyền.

 

Hiện nay, thuyền ghe còn vấn nạn

Riêng bãi bồi làm cạn dòng sông

Phải nhanh chóng, phải khơi thông

May ra cứu được con sông chết dần.

 

Về số dân: có trên một triệu

Một trăm ngàn còn thiếu vài trăm

Giới tính thì nữ hơn nam

Nông thôn thành thị cũng bằng ngang nhau.

 

TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN

Lãnh thổ Thừa Thiên - xứ Huế

Có một trăm hai mươi mỏ rất cao

Than bùn trữ lượng dồi dào

Hiện đang khai thác, đưa vào kinh doanh.

 

Vùng Phong Chương có trằm than tốt

Sản xuất ra phân bón trứ danh

Giúp cho cây lúa lên nhanh

Giúp cho đồng ruộng tươi xanh mùa màng.

 

Mỏ titan nhiều nơi đều có

Lấy ra từ đồi cát trắng phau

Bất cần di hại về sau

Đổi thay diện mạo hoa màu xác xơ.

 

Cần thăm dò túi nước dưới đất

Nước khoáng nóng: hút, cất để dùng

Thanh Tân, Mỹ An, A Roàng

Suối, khe nước nóng là vùng tài nguyên.

 

Nước Thanh Tân tài nguyên vô giá

Được đóng chai giải khát khá ngon

Nước khoáng trong dãy Trường Sơn

A Roàng cũng được đóng lon để dùng.

 

Trữ lượng nước vô cùng phong phú

Chiếm tỷ trọng kinh tế khá cao

Làm sao khai thác đưa vào

Sản xuất nhanh chóng thu vào dễ không.

 

Với khoàng sản thuộc dòng kim loại

Sắt, vàng, chì, kẽm, quặng titan

Nhất là kim loại mỏ vàng

Lập khu sơ chế cho vàng thành thoi.

 

Khoáng sản coi: là phi kim loại

Đá gabro, cuội sỏi, kaolin

Đá vôi, granit dễ tìm

Khắp nơi đều có đào tìm quang khai.

 

LOẠI CỐC

THỔ SẢN

Ở phương nam vốn nhiều thổ sản

Theo Cương Mục bản thảo soạn ra

Nam Bắc tên gọi khác xa

Đến khi tra cứu có là dễ đâu?

 

Đọc lại sách Ô Châu Cận Lục

Sách Vân Đài Loại Ngữ Quý Đôn.

Sách xưa kể cả nghìn trang

Phân tích chủng loại dàn trang dễ làm.

 

Khoa sản vật phân làm loại cốc

Nhiều loại lúa thích mọc ruộng sâu

Rừng rú chỗ thấp chỗ cao

Lựa giòng lúa tốt đưa vào cấy gieo.

 

Lúa thân ngắn cấy theo mùa gặt

Cấy tháng Mười thì gặt tháng Ba

Lúa móng chim chính hiệu là

Gạo thơm sắc trắng, ngọc ngà trời cho.

 

Lúa thơm to, lúa de gạo trắng

Đồng An Cựu thổ sản lúa này

Bây giờ lúa đã còn hay?

Hỏi ra thì muộn ngày nay chẳng còn.

 

Giống lúa chiêm, thân con mà cứng

Vào tháng Ba lúa đứng giữa đồng

Lựa vùng ruộng trũng mà trồng

Gạo cơm trăng trắng thơm ngon tuyệt vời.

 

Lúa dẻo trắng bông dài gạo trắng

Cơm thì mềm thoang thoảng mùi hương

Tháng Ba lúa chín khắp đồng

Nông dân đều thích vì trồng ít công.

 

Lúa ba trăng ruộng cao đều có

Thân thì thấp, gạo đỏ, cơm ngon

Cấy gieo ba tháng không hơn

Đó là giống lúa vô cùng lợi nông.

 

Giống lúa đen dày bông hạt nhỏ

Cơm thì mềm hạt thóc tròn xoay

Tháng Năm đi cấy chờ ngày

Tháng Mười chưa tới gặt ngay về dùng.

 

Các thứ lúa nông dân hay cấy

Còn nhiều lúa khác ngoại lai

Lúa vàng, lúa thốc, móng tay

Lúa sài đường, chày chày bồ lô.

 

Lúa vùng cao độc nhất vô nhị

Cây lúa cao giống quý nước ta

Từ khi gieo gặt chỉ là

Bốn mươi ngày chẵn trổ hoa ngắn ngày.

 

LÚA NẾP

Giống lúa câu cứu ngay nạn đói

Giúp nhân loại khắp cõi thế gian

Nông Lương Quốc tế nên làm

Tìm ra giống quý dễ dàng giúp dân.

 

Cây lúa ếch thích dặm mùa hạ

Giống lúa này cấy xạ ít lo

Nấu cơm vị đậm ăn no

Là cây lương thực để lâu trong bồ.

 

Thóc Thừa Thiên là đầu lương thực

Đất Quãng, Phong đã hết khẩn hoang

Trong khi thóc ở miền Nam

Dễ trồng, dễ gặt nông dân lợi nhiều.

 

Lúa nếp dùng mỗi khi rang cốm

Cũng có khi cất rượu nấu chè

Dùng vào dịp lễ hội hè

Việc làng, đám cưới, vài vò rượu thơm.

 

Loại nếp thơm, nếp vằn, nếp bụt

Lúa nếp voi, nếp cút, kỳ lân

Nếp cò, nếp cái, nếp than

Nếp bông hoa cải có vằn rất thơm.

 

Lúa cho cơm dẻo dai nếp sáp

Thóc hung hung thơm ngát hương nhu

Rang vàng, giã nhỏ phơi khô

Dùng làm bánh cốm, cu đơ làm quà.

 

Nếp lụa, mơ gọi là nếp Huế,

Thóc vàng mơ, dễ cấy, dễ trồng.

Lấy men làm rượu đỏ hồng,

Hồng đào, danh tửu xiêu lòng văn nhân.

 

Lúa nếp Tây, hiếm nơi cấy được

Giống nếp này của nước Tây Dương

Đem về gieo thử mà trồng

Mọc nhanh như thổi ruộng trong làng Chuồn.

 

Ruộng làng Chuồn có vài chục mẫu

Đem gieo thử nếp mọc ra sao?

Bất ngờ chỉ có mấy sào

Mà khi gặt hái, nếp cao mấy lần.

 

Người nông dân gọi tên nếp mới

Là Dương Nhu, lấy thổi làm xôi

Ủ men làm rượu vài ngày

Dùng nước ở giếng bên ngoài Cồn Theo.

 

Ngoài Cồn Theo có ba cái giếng

Nước ngọt lừ nổi tiếng từ xưa

Đem về nấu rượu tiến vua

Vua khen nức nở ban cho mấy đồng.

 

Rượu làng Chuồn lừng danh sản vật

Gọi là danh tửu đất Thần Kinh

LÚA BẮP

Rượu ngon nổi tiếng kinh thành

Có mùi đầm phá, riêng dành người thân.

 

Lúa nếp thơm nông dân các tỉnh

Tùy thổ nghi mà tính gieo trồng

Nếp hoa vàng, nếp lúa rồng

Nếp sóc, nếp chúc dễ trồng, dễ xay.

 

Sách Vân Đài Loại Ngữ có ghi

Nếp quả vải rồi nếp nàng hai

Nếp mâm, nếp quảng, nếp nai

Thêm vào phụ lục để người xem qua.

 

Nếp hoa dâu ra hoa thưa hạt

Nếp nghến cổ thóc gạo thân cao

Nếp tho, nếp cẩm ruộng sâu

Lựa giống tránh được rầy nâu mà trồng.

 

Người Việt ta vốn ưa lúa tẻ

Đợi tân niên lễ tế mới dùng

Mâm xôi, chén rượu chúc mừng

Mừng ngày lúa mới, hội mừng đầu xuân.

 

Cây lúa ma gọi là bãi tử

Cấy lúa này thuận loại mọc hoang

Thân hạt giống lúa hay dùng

Dễ nhầm, dễ lẫn với cùng lúa canh.

 

Hạt lúa ma xây thành ra bột

Là lương thực cứu đói mất mùa

Ở trong Bố Chính Toàn Thư

Đem ra khuấy bột, không lo đói lòng.

 

Cây lúa bắp thuộc giòng ngự mạch

Là giống cây thích mọc ven sông

Bãi bồi, cồn nổi, đất giồng

Là nơi thích hợp để trồng loại trên.

 

Bắp dễ trồng chọn riêng loại giống

Giống hột đỏ, hột trắng, hột vàng

Bắp Cồn hạt dẻo lại thơm

Bắp rừng hạt đỏ cứng cơm ít dùng.

 

CHÈ VÀ CÁC LOẠI ĐẬU, HỘT

 

Mấy loại chè thường dùng ở Huế

Chè hạt sen, đậu ngự, chè kê

Chè đậu xanh, đậu đỏ, chè mè

Chè bắp, bột lọc vỉa hè càng mê.

 

Đến mùa hè, chè bắp Cồn Hến

Lắm du khách tìm đến ăn xem

Ăn xong còn chưa đã thèm

Mang về vài chén dễ đem làm quà.

 

Cây hoàng lương thân cao đuôi sói

Hột kê vàng hạt nhỏ dẻo ghê

Mồng năm Đoan Ngọ chè kê

Ăn chung bánh tráng mãi mê vị chè.

 

Cây ý dĩ ủ ghè làm rượu

Cháo bo bo vị thuốc cảm hàn

Lá dùng nấu nước rất thơm

Là cây lương thực thay cơm khi cần.

 

Hột mè vàng, mè đen, mè trắng

Lấy hạt vừng làm bánh mà ăn

Rang lên sấy bột khuấy dần

Bánh măng, bánh tráng thức ăn tuyệt vời.

 

Cao lương cây, khi dài rũ xuống

Hạt tròn xoay, lá cuống màu xanh

Có thể dùng hái nấu canh

Giống từ Lưỡng Quảng, nước mình nhập vô.

 

Cây đậu xanh, ô ô lục đậu

Lựa hột tròn để nấu mà ăn

Nẩy mầm làm giá ăn nhanh

Là cây ăn sống vị thanh tuyệt vời.

 

Bánh đậu xanh được rây từ bột

Chè đậu xanh vị ngọt mà thơm.

Hột này nấu cháo rất ngon

Trộn chung với gạo làm cơm mà dùng.

 

Bột đậu xanh nấu chung với nếp

Thành xôi vò ăn với thịt quay

Ăn rồi ngẫm nghĩ mà nhai

Vô cùng thú vị ngẫm hoài khen ngon.

 

Hái gương sen còn non hồ Tịnh

Bóc đài ra ăn sống giòn tan

Khi sen hột đã hơi vàng

Nấu chè bọc nhãn, thuộc hàng thượng lưu.

 

Đồ Ngự Thiện có sen hồ Tịnh

Vốn là sen nổi tiếng kinh thành

Tim sen vị thuốc đã đành

Nhức đầu mất ngủ nước thanh an thần.

 

Cây đậu đen, cao thân làm thuốc

Quả là giáp, lá hoắc thần kỳ

Có thể chữa được bệnh phù

No hơi đầy bụng đem đi dự phòng.

 

Cây đậu gươm gọi là kiếm đậu

Bóc quả ra để nấu thịt gà

Đúng mùa đậu nở ra hoa

Hoa sắc màu tím như là cánh sen.

 

Cây đậu quyên, dây leo hạt trắng

Loại đậu này quả thẳng màu xanh

Nấu chè, tráng bánh nướng nhanh

Là cây đậu quý lừng danh nước mình.

 

Cây đậu mèo mọc quanh bờ dậu

Có tên là hổ đậu rất ngon

Cây ra những hạt tròn tròn

Món ăn tuyệt diệu ngon hơn thịt bò.

 

Nấu nước tro với hột đậu cốt

Hột có vằn hay hột màu xanh

Khi sôi thêm một chút chanh

Đường phèn nấu lại nước thanh tuyệt vời.

 

Chè đậu cốt trị bay mụn nhọt

Nếu thêm vào vài đọt tía tô

Tan đàm, thông cổ đang khô

Những ngươi đang bệnh hay ho khạc đàm.

 

Cây đậu đỏ thân cao một thước

Bản thảo ghi rằng vị thuốc rất hay

Lá tròn hoa tím quả dài

Nấu chưng cá chép cho người nan y.

 

Cây đậu trắng mọc tì gốc mướp

Cây đậu túi trồng trước hàng ba

Cây đậu ván mùa nở hoa

Chung quanh hàng giậu thật là dễ thương.

 

Cây đậu tương đậu nành một loại

Sữa đậu nành lấy củi mà đun

Hạt cho vào hũ làm tương

Vị ngon đặc biệt, mùi hương còn hoài.

 

CÁC LOẠI RAU

Cây họ đậu có vài chục giống

Ở Thừa Thiên tổng cộng hai mươi

Mùa hoa đậu nở khắp nơi

Ong say hút nhụy, bướm bay khắp vườn.

 

Cây đậu phụng món ăn dân dã

Món thịt hon thêm sả khó quên

Ép dầu, bã để dành riêng

Bón phân cây cảnh, nuôi chim chích chòe.

 

Mấy loại rau, dân ghiền ăn sống

Rau càng cua trộn dấm tuyệt vời

Rau khoai, rau muống, mồng tơi

Nấu canh tép bạc nhớ mùi quê hương.

 

Cây bạc hà, mướp hương, mướp ngọt

Quả mướp đắng trị hết tiểu đường

Rau bồ ngót với lộc vừng

Rau dền tôm thẻ thơm lừng bát canh.

 

Lá xanh xanh tần ô cải cúc

Loại rau này ăn sống cũng ngon

Húng sắc vàng lá xanh non

Tần ô nấu với nấm rơm ngọt lừ.

 

Rau dền gai, tía tô, rau má

Riêng rau má, lấy lá mà xay

 

CÂY CÓ MÙI

Rau má, nước lục xanh xanh

Dùng làm giải khát ngon lành giữa trưa.

Loại thuốc Nam, người xưa làm thuốc

 

Quả mít non, lá lốt, rau răm

Nấu chung để có món canh

Ngó sen, bông súng trộn thành gỏi ngon.

 

Cây bồn bồn ăn giòn mát miệng

Tàu hủ dừa ăn ghém thịt heo

Uống thêm chút rượu mang theo

Vô cùng hấp dẫn giàu nghèo cũng ham.

 

Đọt khoai lang, đọt bầu, đọt bí

Nấu đồ chay thêm ít muối rang

Ăn vào cảm thấy nhẹ nhàng

An thần tâm thể thuộc hàng muối dưa.

 

Cây chột nưa làm dưa mà chấm

Lấy ruốc chà cho dấm ớt vô

Ăn rồi nhớ cốm hái lu

Chỉ người xứ Huế hợp gu món này.

 

Dù ăn chay hay là ăn mặn

Trên mâm cơm chẳng vắng đậu khuôn

Cắt thành từng miếng hình vuông.

Chao tương cũng được thịt bằm độn thêm.

 

RAU CỦ, BÍ BẦU

Ớt cay cay tôm chiên với mỡ

Cá bống thệ kho tộ tuyệt chiêu

Mái dầu xé bóp muối tiêu

Rượu Chuồn canh cải mấy niêu cơm đầy.

 

Mấy lá ngò, húng gai, húng quế

Vài tép hành, rau ngổ, rau thơm

Rau son, xà lách, cải xanh

Và thêm rau sống ngon lành bữa ăn.

 

Lá thằn thăn, đậu xanh làm giá

Làm đồ chua, củ kiệu phơi khô

Cà rốt, đu đủ, trái dưa

Cho vào ít dấm cho vừa mới ăn.

 

Trong nhân gian củ khoai, củ sắn

Là loại củ có sẵn trong nhà

Khoai môn lắm thứ kê ra

Xích vu, thổ noản, quả cà, sắn dây.

 

Củ khoai tây, cà chua, cà pháo

Quả cà tím lủng lẳng dái dê

Thức ăn dân dã nhà quê

Nướng xào dâm muối lở khi tối trời.

 

Củ môn, khoai có năm sáu loại

Môn xanh, môn dại độc hại vô cùng

Ăn nhầm có thể mạng vong

Sáp vàng, môn đỏ lạ lùng thật ngon.

 

Củ khoai lang nhỏ con mà ngọt

Củ đậu, chấm muối hột mà ăn

Đỡ cơn khát nước giữa đường

Phơi khô, ướp muối ăn dần với cơm.

 

Hái đọt non dây bầu, dây bí

Rửa sạch rồi, luộc chín sơ sơ

Trộn dầu, trộn dấm chút bơ

Phi hành phi tỏi thịt bò để trên.

 

Mụt măng tre mọc lên trong bụi

Cắt đem về lấy củi mà đun

Thái ra từng sợi măng non,

Mấy thìa mỡ tỏi xào xong ăn liền.

 

Muốn cho thơm bỏ thêm đậu phộng

Rang cho vàng mà trộn mới ngon

Sợi măng, đậu phộng giòn giòn

Món này tuyệt nhất bữa cơm gia đình.

 

Củ bình tinh, môn, khoai, chuối luộc

Là thứ củ nấu được ăn chơi

Khoai từ, khoai tía, củ mài

Đem ra ngoài chợ thiếu người đến mua.

 

Ruột vàng au là cây bí đỏ

Trái có khía gọt vỏ mà ăn

LOẠI NẤM

Tính nhuần ích khí bổ trung

Là cây lương thực thường dùng nấu canh.

 

Cây bí đao trên cành dưới lá

Có lông tơ ra quả rất to

Làm mứt, làm bánh nấu nhừ

Ăn nhân trong hạt để trừ phù chân.

 

Cẩm lệ chi chín vàng trong ruột

Chính là cây mướp đắng sắc xanh

Sáng mắt bổ khí đã đành

Trộn thêm dầu muối là thành gỏi ngay.

 

Cây bầu sao khác loài với bí

Quả bầu dài, quả bí tròn xoay

Khi nào quả bằng cổ tay

Phơi khô, luộc chín món chay thường dùng.

 

Dưa Bà Cai chấm chung với ruốc

Trái dưa chuột bằng cỡ ngón tay

Vân xanh mà quả lại dài

Hái xong ăn sống ngọt ngay mới là.

 

Loại nấm voi gọi là lương khuẩn

Lấy phân voi chất bẩn loại ra

Ủ bằng lá chuối phơi qua

Bảy ngày nấm mọc, xào qua chút dầu.

 

LOÀI HOA

Nấm tai mèo có tên mộc nhĩ

Sinh ra từ gỗ mục cây dâu

Cây hòe, cây liễu gầm cầu

Nấu chung thịt lợn hầm lâu mới mềm.

 

Nấm mũ tiên có tên nấm đất

Loại nấm này quả thật danh y

Loại này là thuốc thần kỳ

Trị bay mụn nhọt bất kỳ ở đâu.

 

Nấm cứt trâu bãi phân trâu mọc

Người ăn phải nấm độc loại này

Cười cười nói mãi không thôi

Đến khi gục chết kêu trời khổ thân.

 

Loại nấm thông, nấm tràm, nấm mối

Loại nấm rơm xào tỏi ngon hơn

Sánh bì món lạ vật ngon

Canh gà nấu với nấm hương tuyệt vời.

 

Nấm mối mọc ở nơi đất xổi

Dưới bụi trúc, tổ mối kế bên

Mùa đông khí đất bốc lên

Ở gò đất ấy mọc lên nấm này.

 

Cây bạch mai nhụy thơm hoa trắng

Loài mai vàng thân thẳng lá xanh

Đến mùa hoa nở đầy cành

Là lúc Tết đến điềm lành đầu năm.

 

Hoa hải đường phương Nam sắc đỏ

Cánh hoa tươi, rực rỡ vô cùng

Hoa này hơn cánh phù dung

Búp hoa hé nhụy như nhung giữa trời.

 

Hoa trúc đào có đài năm cánh

Lá hẹp dài giống dáng trúc xinh

Hoa đào đỏ thắm trữ tình

Xuân quang khoe sắc, lan đình dáng ai.

 

Cánh hoa lài tỏa mùi thơm ngát

Ướp trà xanh thì thật là thơm

Trà lài nay vẫn hãy còn

Tuổi già thích lựa trà ngon mới dùng.

 

Hoa phù dung, hoa lê, hoa bút

Hoa tường vi, hoa cúc, ngọc lan

Hoa phượng, hoa hòe, hoa xoan

Hàm tiếu, thược dược, điểu lan, hoa quỳnh.

 

Hoa huệ trắng phương tiên, trinh nữ

Hoa hồ điệp, hoa lựu, ngọc anh

Vàng lơ, hoa đỏ trên cành

Thạch trúc, tam hợp, trổ hình hoa sen.

 

Vườn ngự uyển, nghìn hoa dị thảo

Đêm Nguyên tiêu mờ ảo ánh trăng

LOẠI QUẢ

Sương khuya mờ lối đi quanh

Cung phi, mỹ nữ nghiêng mình thưởng hoa.

 

Mới nhìn qua có trăm loại quả

Đất Thừa Thiên quả lạ, quả ngon

Quả xoài loại nhỏ trái tròn

Quả bằng cái chén ngọt ngon vô cùng.

 

Lá xoài non hái ra ăn được

Năm nào sai nhiều quả thì xui

Mất mùa lúa tẻ, lúa xôi

Lúa không có hột, trắng tay đói lòng.

 

Quả lệ chi thuộc giòng cây vải

Loại cây này mọc trái thành chùm

Hai ngày hái xuống đổi hương

Ba ngày đổi vị tìm phương giữ gìn.

 

Cây quả na nở hoa kết trái

Cây xù xì nảy lá mùa xuân

Mãng cầu tên gọi trong dân

Cơm dai vị ngọt bội phần hương thơm.

 

Quả cây thơm gọi là quả dứa

Có tên là Phượng lễ loại ngon

Nương vườn miền núi dễ trồng

Tháng năm quả chín ruột vàng vị thanh.

 

LOẠI THẢO

Cây nho xanh trái nâu vị ngọt

Rượu bồ đào sủi bọt lên tăm

Quả nho hái lấy mà dầm

Lên men cất rượu làm hầm mà chôn.

 

Quả bòn bon cây cao vài trượng

Trái tròn tròn vỏ mỏng thịt thơm

Chua chua ngọt ngọt dễ trồng

Cây này thấy có ở vùng Sơn Lăng.

 

Quả tam lang ở vùng Phú Lộc

Tháng năm thời kết quả ra hoa

Gặp khi nạn đói người ta

Lựa ra quả chín quả già nấu ăn.

 

Cây củ năng, sa kê, củ ấu

Quả mít nài, quả ớt, hồ tiêu

Chôm chôm, tầm ruột, quả đào

Quả hồng, măng cụt, chúc mào hạt sen.

 

Quả trám đen, cau rừng, quả mít

Chuối sừng trâu, cây thị, quả sung

Thanh trà, trái bưởi cau bồng

Còn nhiều quả nữa kể không hết lời.

 

Tính sơ qua vài trăm loại thảo.

Họ dây leo dễ mọc vô cùng

Đưa ra vài loại chung chung

Khắp nơi đều có trên rừng, dưới sông.

 

Cây sài hồ mọc hoang sơn thái

Cây hoàng tinh, cây ngải, cỏ tranh

Cây thuốc lá bồ công anh

Cỏ bồng bồng, cộng tràng sinh đậu ràng.

 

Liễu âm dương, lưỡi bò, cỏ xước.

Vỏ vòi voi, gà xước, từ bi,

Cỏ chỉ thiên, bông cu ly.

Phơi khô tam thất, cải quy dùng dần.

 

Cây rau muống, xà sàng quả dã.

Cây chàng xay ra quả cối xay

Cỏ lau, cỏ sưa, ớt cay

Tía tô, đọt húng hương bay khắp vùng.

 

Rau ngổ nước ở vùng nước ngập

Cây chột nưa nơi thấp giồng cao

Rau rìu, rau ẻo, rau câu

Nha đam, cỏ cú, muồng trâu, xương rồng.

 

Quả thanh long, cây xanh quả đỏ

Cây lưỡi rồng và củ sắn dây

Hột bìm bìm, cỏ móng tay

Cây gai, cây vả, hột xoay trên rừng.

 

Cây đọt mùng, dây leo, quả mướp

Cây mồng tơi, dưa hấu màu son

LOẠI MỘC

Loài dưa hấu có màu vàng

Dùng làm giải khát vô cùng thanh ngon.

 

Cây loại mộc dùng trong kiến trúc

Gỗ càng già mối mọt không ăn

Rừng Thừa Thiên kể cả trăm

Tùng bách lim trắc gỗ trầm trứ danh.

 

Lá thông già màu xanh ngọc biếc

Nhựa thông già hổ phách phục linh

Cây này ở núi Ngự Bình

Mọc nhanh như thổi biến thành rừng xanh.

 

Cây trắc bách có cành hai lá

Bẻ lá non hái quả mà dùng

Trị lành tất cả vết thương

Là cây thuốc quý bổ tâm kiện tỳ.

 

Cây hoàng bì giống như cây bưởi

Cây gáo nước ở dưới vực sâu

Gỗ đồng, Nam Chữ, thầu đâu

Tre gai trúc nứa tre tàu địa long.

 

Gỗ chò chỉ, gỗ muồng, cây quế

Gỗ bằng lăng, cây khế, trầm hương

Gỗ sao, gỗ mít, hoàng đàn

Cây vòng vang, cây giáng hương, ngô đồng.

 

CÁC LOÀI CHIM

Cây dầu rái, cây bông, cây móc

Cây sim tím có gốc bồ đề

Cây bàng, đỗ trọng, cây kè

Cây xôi, măng cụt, lá chè phơi khô.

 

Cây mù u, dầu chai, dầu rái

Cây thốt nốt có trái con con

Bồ kết, ngũ trảo, cây son

Trái cây dừa nước, bòn bon trên rừng.

 

Gỗ kim giao trên rừng Bạch Mã

Có mùi thơm bay tỏa rất xa

Trường Sơn cây nở nghìn hoa

Núi rừng lên tiếng nhạc hòa sương đêm.

 

Trong Thành Nội có loài cây lạ

Bao báp thân mọc thẳng vươn cao

Anh Danh có tự thuở nào

Hoa dây, quả trĩu đón chào Chúa Xuân.

 

Chim muông có kền kền, tu hú

Có chích chòe, anh vũ, họa mi

Gà sao, gà ác, gà ri

Chim khách, cun cút, chim di ác là.

 

Chim chèo bẻo, đa đa, vịt nước

Chim bồ chao, khổng tước, chim công

CÁC LOÀI THÚ

Chim quạ, chim sáo, bồ nông

Bồ câu, chim sẻ, chim nhồng, con dơi.

 

Chim bù cắt, thắng chài, mỏ nhác

Chim gõ kiến, chim cắt, cò ma

Chim sâu, chim én bay qua

Uyên ương, chim cú là đà trên không.

 

Chim chàng bè ven sông mới có

Chim mặt cắt hung dữ vô song

Ngỗng trời, hoang hạc đào trùng

Có con chim lạ nghìn trùng tới đây.

 

Chim họa mi vẫy đuôi hay hót

Nàng bồ nông bay vút lên không

Vành khuyên thích uống nước trong

Chim quyên xuống đất, chim hồng bay cao.

 

Chim chào mào rồi chim bói cá

Con bìm bịp, chim quạ, bồ câu

Chim ưng, cú vọ, chim sâu

Yến oanh sốt ruột bắc cầu đong đưa.

 

Thuở xa xưa trong rừng lắm thú

Rặng Trường Sơn thú dữ rất nhiều

Lắm loài hổ báo, sơn miêu

Sơn dương, tê giác, loài cheo, voi rừng.

 

Loài hổ vằn ưa vùng núi đá

Loài hổ trắng hoang dã núi cao

Lưng chừng Bạch Mã khó vào

Giang sơn của chúng, hang sâu khó tìm.

 

Loài tê giác cỏ mềm bờ suối

Thèm thức ăn quả chuối, cây rừng

Sơn tê loại có hai sừng

Nặng vài ba tấn da lưng như đồng.

 

Gấu trong rừng vừa hung vừa dữ

Loài gấu chó là thứ hung hăng

Gấu ngựa nặng đến trăm cân

Gấu thích hút mật lăn đùng xuống cây.

 

Gấu khi đói mút tay trong miệng

Bàn tay gấu nổi tiếng là ngon

Mật gấu chữa được gãy xương

Da gấu làm áo, áo choàng thời trang.

 

Thú ở hang thuộc loài chồn cáo

Ở bìa rừng nhiều thỏ, heo rừng

Loài sói từng bầy sống chung

Vượn hầu, dê núi, chồn hương, bạc mày.

 

Giống rái cá là loài dưới nước

Con sơn thái da mướt mà trơn

Lặn sâu cá bắt dễ dàng

Thịt đắp vào chỗ vết thương mau lành.

 

CÁ TÔM

LOÀI CÓ MAI

Con thằn lằn, sơn xuyên loài trút

Sống ven rừng dọc núi Trường Sơn

Là loài gặm nhấm rễ non

Vảy thân làm thuốc đại hoàng rất hay.

 

Con tắc kè, rắn mai, rắn lục

Loài mái gầm ẩn úp dưới cây

Rắn hổ đất có đuôi dài

Liu điu hổ lửa, rắn hai ba mồng.

 

Con cá gáy theo dòng nước lũ

Con cá mè đuôi đỏ xương cong

Cá vượt từ biển vào sông

Sống vùng nước lợ, tìm tôm làm mồi.

 

Con cá mương sống ven lạch nước

Bơi từng đàn lội ngược lên nguồn

Cá hanh, cá diếc, cá chuồn

Cà bò, cá nhám, cá hồng Biển Đông.

 

Cá rô đồng lấy mang cằn ngược

Gặp mưa dông theo nước lên bờ

Cá thu, cá nục, cá cờ

Cá theo dòng chảy ven bờ kiếm ăn.

 

Loài cá măng ở vùng đầm phá

Ở sông ngòi cá quả thịt ngon

Cá son sống ở thượng nguồn

Ở nơi đầm phá, thờn bơn, cá dìa.

 

Cá sông Hương ở bìa mép nước

Ở cửa sông cá vược, cá chim

Trong đầm có cá lìm kìm

Cá dầy thác lác, cá kim mũi dài.

 

Cá lòng tong từng đàn giỡn sóng

Cá rô phi thấy động lặn sâu,

Sát đáy có cá râu mèo

Loại này sinh sống đi theo từng bầy.

 

Cá chuồn bay tháng tư tháng bảy

Khi mưa dông cá nhảy lên bờ

Cá chày, cá đối, cá cờ

Có khi đầy lưới làm khô để dành.

 

Dưới lục bình có đàn cá lóc

Ở cửa sông cá ngát, cá hanh

Gần bờ có cá lành canh

Ngoài khơi xa tít sắc xanh cá ngừ.

 

Loại cá thu là con cá quý

Bơi từng đàn ở tít ngoài khơi

Để lâu mà thịt còn tươi

Nấu canh nước ngọt nhiều người thích ăn.

 

 Ở ngoài khơi có con cá mực

Có loại tròn, loại mực có nang

Loại nào nhuyễn thể cũng ngon

Mực cơm dồi thịt ăn ngon vô cùng.

 

Ở trong bùn có con lươn, con lệch

Có con chình, cá chạch lá tre

Trong đầm có loại cá he

Nhỏ con thơm thịt đem về phơi khô.

 

Con rùa đen, cá rô nước lợ

Cá bống kèo sống ở dưới sông

Bống dừa, bống đục, bống bông

Đem đi kho mặn, món ngon ở đồng.

 

Con rạm đồng trong mùa mưa lũ

Tôm càng xanh, tôm sú, tôm gân

Tôm to thì có tôm hùm

Ở trong rặng đá lấy trùn mà câu.

 

Con cá nâu ăn cây rong biển

Bởi cho nên ruột đắng mà ngon

Kho xăm xắp nước đáy xoong

Hành tiêu ớt đỏ bày bàn dọn cơm.

 

Ở cửa sông nghêu sò ốc hến

Chúng sống thành từng bãi ven bờ

Có năm trúng được mùa sò

Người dân hí hửng thu vô nhiều tiền.

 

CƠ QUAN HÀNH CHÍNH

LOÀI CÔN TRÙNG

Con nàng tiên, con còng, cua núi

Nửa đêm bò ra suối tìm ăn

Nhất là lúc có mùa trăng

Loài cua hay óp chỉ bằng nửa con.

 

Loài côn trùng con tằm sâu nước

Con xén tóc, bọ ngựa, muỗi mòng

Tò vò, nhền nhện, con ong

Con sâu, con rít, ruồi đồng, con ve.

 

Con ruồi trâu vo ve khó chịu

Loài con này hút máu mà ăn

Dế cơm, dế lửa, dế than

Bắt về tẩm bột chiên giòn mới ngon.

 

Con thầy tu, con đuông, sâu rọm

Con bọ xít trên ngọn nhãn lồng

Ong bầu hút mật nhụy bông

Mang về trong tổ, nhộng con ăn dần.

 

Ở Thừa Thiên có hơn 100 xã

Và có thêm 47 cấp phường

Còn ấp, còn xóm, còn làng

Cũng do chia nhỏ địa bàn mà ra.

 

 Nếu cho rằng: làng là đơn vị

Thì cơ cấu làng là nét đặt trưng

Nhìn vào bản sắc của làng

Nói lên văn hóa rất chung mỗi miền.

 

Huyện Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc

Huyện Hương Trà, Hương Thủy, Nam Đông

Huyện A Lưới ở miệt núi rừng

Quảng Điền, vùng phá Tam Giang cuối cùng.

 

Ở Thừa Thiên, cơ quan hành chính

Gồm có bốn bộ phận chuyên môn

Ủy ban, Tỉnh ủy, Hội đồng

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đứng đầu.

 

Mỗi bộ phận chuyên sâu riêng biệt

Để điều hành công việc cho dân

Thành phố, huyện lỵ cần phân

Cơ quan thuộc tỉnh, chuyên ngành nằm sau.

 

Về hành chính, chia ra sáu huyện

Huyện A lưới kế huyện Phong Điền

Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền

Nam Đông miền núi, cao nguyên vùng đồi.

 

Có thêm hai khoanh vùng thị xã

Những nơi này phố xá mọc lên

Một vùng Hương Thủy đặt tên

Vùng đất còn lại mang tên Hương Trà.

 

Vùng thị xã mang tên Hương Thủy

Trên cung dừng trục lộ Bắc Nam

Thừa Thiên có 47 phường

Hai trăm thôn, xã có đường giao liên.

 

Tỉnh Thừa Thiên có sáu thị trấn

Vùng Hương Trà thị trấn giáp biên

Sịa là thị trấn Quảng Điền

Còn vùng A Lưới kế bên nước Lào.

 

Đất Thuận An, Lăng Cô thị trấn

Ở nơi này nhìn thẳng ra khơi

Biển êm, mây trắng trên trời

Vịnh đẹp nổi tiếng tốp 10 vinh danh.

 

Huyện Quảng Điền đất vùng phía bắc

Thị trấn Sịa nằm sát trung tâm

Sông Bồ dòng nước uốn quanh

Quảng Công, Quảng Phước, Quảng Thành, Quảng An.

 

Về phía đông, Tam Giang là phá

Ở vùng này lắm cá nhiều tôm

Đan Điền từ thuở khai hoang

Quê hương của tướng Đặng Dung đời Trần.

 

Thị trấn Sịa vốn nơi đô hội

Rất nhiều người tiếng nổi đồn xa

Nhất Huế, nhì Sịa quả là

Ca dao đã nói không ngoa chút nào.

 

Phong Điền sát vùng cao A Lưới

Phía tây bắc Quảng Trị, Hải Lăng

Phong Điền thị trấn đông dân

Có nhiều khoáng sản, than bùn khắp nơi.

 

Kê khai mười chín ngàn lẻ một

Là dân số các hộ gia đình

Phần nhiều độ tuổi thanh niên

Sức trai lực lưỡng nghề chuyên ruộng đồng.

 

Ngoài lâm trường, nghề nông, thủy sản

Có thêm nghề khai thác đá vôi

Học trò đi học nhiều người

Thành danh đỗ đạt, sáng ngời tiếng xưa.

 

Huyện A Lưới người thưa, đất rộng

Là vùng đất dưới rặng núi cao

Phía tây giáp với nước Lào

Có hai mươi xã nằm sâu trong rừng.

 

Bốn lăm ngàn dân trong vùng đất rộng

Sống ở nơi rừng rậm hoang vu

Sắc dân gồm có Cơ Tu

Vân Kiều rải rác, trung du nhiều người.

 

Người Tà Ôi sống thành bộ tộc

Họ là người dân tộc miền cao

Hằng năm lễ hội đâm trâu

Vô cùng vui vẻ, giúp nhau hết lòng.

 

Huyện Nam Đông, tây nam thành phố

Huyện này có mười xã, ít dân

Cơ Tu dân số khá đông

Có riêng thị trấn trong vùng cho dân.

 

Với số dân: 24 ngàn toàn huyện

Số người Kinh, người Thượng sống chung

Tạo ra xã hội hòa đồng

Thanh bình thịnh vượng hết lòng vì nhau.

 

Huyện Phú Lộc cực nam xứ Huế

Về tỷ lệ đất ít biển nhiều

Núi non bãi biển, đường đèo

Huyện này quang cảnh thiên nhiên hữu tình.

 

Vùng biển xanh, Lăng Cô, Phú Lộc

Vùng đánh cá Vinh Lộc, Vinh Giang

Lộc Trì, Lộc Thủy, Vinh Hưng

Vinh Hiển, Lộc Bổn, cát vàng, rừng dương.

 

Lăng Cô có tiềm năng du lịch,

Là mũi nhọn kinh tế mai sau

Lại thêm mỏ cát, rừng sâu

Trầm hương, gỗ quý tìm lâu ra nguồn.

 

Khu vực Hương Trà ở vùng Tứ Hạ

Được nâng lên thị xã mới đây

Thống kê niên giám năm nay

Một một ba bốn hai mươi năm người.

 

Vùng Hương Trà đi qua trục lộ

Một A là cửa ngõ đi ra

Quảng Bình, Thanh Hóa, Sơn La

Đi toàn miền bắc đi qua tới Tàu.

 

Ở vùng sâu có nhiều sản vật

Xã Bình Điền, Hồng Tiến đất cao

Tài nguyên, sản vật dồi dào

Có nguồn nhân lực người nào cũng hay.

 

Huyện Phú Vang đông nhất dân số

Tính đến nay có 179 ngàn dân

Trước đây đất của người Chăm

Sau khi sáp nhập, nhà Trần đổi tên.

 

Rượu làng Chuồn, bánh canh Nam Phổ

Là đặc sản của mỗi vùng quê

Làng Trài, nước mắm khỏi chê

Thịt con heo mọi, ăn về khó quên.

 

Thôn Mỹ Khánh, Phú Diên của huyện

Có tháp Chàm phát hiện gần đây

Là ngôi cổ tháp cát vùi

Cả nghìn năm trước, ngày nay mới đào.

 

Về anh hào có Lê Quang Định

Hồ Đắc Di, thủ lĩnh thần y

Nguyễn Chí Diễu, thật thần kỳ

Là dân của huyện, lỗi nghì danh thơm.

 

MỞ MANG PHỐ THỊ

Thị trấn mới ở vùng Hương Thủy

Vùng này đây đất quý hơn vàng

Nhiều khu công nghiệp mở mang

Khu đô thị mới hạng sang đang làm.

 

Trên quốc lộ có làm cầu vượt

Một công trình rất được lòng dân

Cầu xây theo hướng tây đông

Vô cùng tiện lợi cho dân đi về.

 

Vùng này quê trở thành đô thị

Bởi vì ở vị trí hanh thông

Anh tài tụ hội đồng lòng

Mai sau tấc đất tấc vàng còn nguyên.

 

Với tiềm năng tài nguyên vốn có

Với con người hiếu học hiện nay

Thừa Thiên còn quỹ đất đai

Mở mang chuyện dễ ngày mai kế thừa.

 

Trăm năm trước còn thưa phố chợ

Đến bây giờ được mở khá nhiều

Từ thành thị đến thôn quê

Khắp nơi đều có, còn nhiều hơn xưa.

 

Ở thuở xưa chưa có ngành điện

Còn thời này ngành điện ưu tiên

Sản xuất, kinh tế ra tiền

Phải có nguồn điện dùng riêng làm đầu.

 

Ngành điện lực yêu cầu phát triển

Đường dẫn điện mạng lưới khắp nơi

Từ thành phố đến xa xôi

Gần như trùm hết đất này tỉnh ta.

 

Ngành điện lực cũng là khá tốt

Đường Nam Bắc có một không hai

Vượt ngàn cây số đường dài

Xây nhiều trạm áp, đặt người trông coi.

 

Đập thủy điện trên nguồn Tả Trạch

Góp phần tăng ngân sách quốc gia

Giúp cho công nghiệp tỉnh nhà

Sản xuất ổn định bán ra thị trường.

 

Ngành điện lực con đường phát triển

Nhưng sự cố cũng khiến chúng ta

Nếu từ nguyên tử làm ra

Xảy ra tai nạn, thôi thà chớ nên.

 

Đập thủy điện làm nền phải chắc

Nếu vỡ đập nguy khốn vô cùng

Mất mát rất lớn nói chung

Khó bù lại được thương vong loại này.

 

Loại phong điện hay trời nhiệt điện

Là loại hình thực hiện tương lai

Ít gây ô nhiễm lâu dài

Nên chăng suy xét sau này khỏi lo.

 

Phải định hình bây giờ lập tức

Đừng chần chừ vuột mất thời cơ

Ai mà đi trước nước cờ

Thành công chắc chắn khỏi nhờ người ta.

 

Ở Quảng Nam xa ta mấy bước

Mà cầu đường phía trước lối sau

Sân bay cho đến bến tàu

Đi vào quy hoạch làm giàu cho dân.

 

Đường hàng không sân bay tu sửa

Sẽ trở thành điểm tựa mai sau

Chân Mây vùng biển cảng sâu

Giao thông mở rộng về lâu về dài.

 

Đường hỏa xa nối dài Nam - Bắc

Phải thiết kế đường sắt rộng ra

Tàu cao tốc, chạy đường xa

Sài Gòn - Hà Nội chạy qua nửa ngày.

 

Còn hiện nay giao thông đường bộ

Vẫn còn vô số việc phải làm

Giao thông trong xóm, trong làng

Giao thông liên xã dễ dàng hay chưa?

 

Đường liên tỉnh dây dưa chưa được

Cần phải làm, làm trước thật nhanh

DANH LAM THẮNG CẢNH

Để sớm cho kịp hoàn thành

Giao thông Nam - Bắc lộ trình ngắn hơn.

 

Cửa Tư Hiền, Thuận An còn cạn

Cần phải đào vét cát mang đi

Lập phương dự án khả thi

Giao thương đường biển tức thì mở mang.

 

Đèo Hải Vân “Hùng Quan Đệ Nhất”

Là một cảnh có một không hai

Ngành du lịch phải triển khai

Trở thành điểm đến mời người tham quan.

 

Biển Lăng Cô, Cầu Hai, Bạch Mã

Là một vùng gom cả trời mây

Biển thì sóng nhỏ suốt ngày

Núi thì chót vót, rừng cây ngút ngàn.

 

Suối đá voi cảnh quan ngoạn mục

Dòng suối này uốn khúc quanh co

Nước trong vũng cạn thành hồ

Là nơi bơi lội dành cho nhiều người.

 

Đèo Phước Tượng, Cầu Hai, Nam Phổ

Rặng Trường Sơn nhiều chỗ thâm u

Núi Truồi, Nước Nóng, Ngũ Hồ

Danh lam thắng cảnh còn vô số là.

 

Mũi Chân Mây cũng là cảnh đẹp

Biển xanh rờn sóng nhẹ nước sâu

Dưới núi bến cảng của tàu

Cả ngàn trọng tải ra vào thường xuyên.

 

Biển Cảnh Dương, thúng thuyền lác đác

Rừng dương xanh, bãi cát trắng phau

Du khách tắm nắng phía sau

Đặc sản giải khát nước dâu núi Truồi.

 

Vùng Đá Bạc bên này Quốc lộ

Đầm Cầu Hai nhiều chỗ đá nhô

Hà Trung, Bãi Đáp ven bờ

Bên rừng bên biển lờ mờ núi xanh.

 

Đầm Cầu Hai nước xanh nhiều cá

Đây là vùng nước lợ quanh năm

Một vùng sinh thái trọng tâm

Một vùng đặc hữu tiếng tăm nhất vùng.

 

Con tôm rằn sống vùng nước lợ

Con chình hoa mà ở trong hang

Cá kình, cá vược, cá hồng

Liệt loài quý hiếm vô cùng khó mua.

 

Thôn Lương Điền gió lùa từ núi

Đồi Năm Mươi gió thổi phía tây

Chiến trường xưa ở vùng này

Bia ghi công trạng đến nay vẫn còn.

 

Qua xứ Nông, Phú Bài, Hương Thủy

Vùng đồi thấp ở phía tây nam

Xa xa đồi núi Nam Đông

Bạt ngàn sim tím, ven rừng thông reo.

 

Gạo Dạ Lê bên đồng Phú Thứ

Núi Thần Phù nét cũ ngày xưa

Bây giờ không biết bao giờ

Mới cho tôn tạo, thuở xưa huy hoàng.

 

Sau Thần Phù, Ngũ Tây núi đá

Nơi Duy Tân, vua cũ sa cơ

Việt gian, quân Pháp đang chờ

Bắt vua trở lại kinh đô, đi đày.

 

Chùa Thuyền Tôn ở ngay nơi đó

Là ngôi chùa rất cổ trong vùng

Thiền sư Liễu Quán khai sơn

Cũng là danh thắng giữa rừng núi non.

 

Chùa Viên Thông, ngôi Trúc Lâm tự

Đồi Thiên An án ngữ phía tây

Dương Xuân ngôi mộ của ngài

Thượng thư Bộ Học cuối đời Gia Miêu.

 

Núi Ngự Bình thông reo vi vút

Đàn Nam Giao nghi ngút hương bay

Cũng là thắng cảnh ngày nay

Nam thanh nữ tú làm nơi hẹn hò.

 

BÃI BIỂN

Từ Hải Vân đến gò Thiên Mụ

Từ kinh thành đến chỗ sơn lăng

Nguy nga tráng lệ vô cùng

Đó là tài sản của chung xứ mình.

 

Nơi danh lam, riêng ngành du lịch

Phải làm sao kích thích người xem

Tạo ra dấu ấn khó quên

Ân cần, hiếu khách ưu tiên cho người.

 

Biển Lăng Cô, Cầu Hai, nước ngọt

Biển thật hiền, sóng bọt không cao

Thoải dài bờ cát trắng phau

Dây leo hoa tím phủ màu sắc xanh.

 

Biển Cảnh Dương rất xinh mặt nước

Vùng nước sâu phía trước ngoài xa

Cách bờ mép nước là là

An toàn du khách người già rất ưa.

 

Nơi phục vụ vui đùa còn ít

Nhưng biển thì rất đẹp hiếm hoi

Hơn hẳn biển ở nhiều nơi

Sóng to, bờ dốc khó bơi, khó nằm.

 

Tư Hiền cách Cảnh Dương phía dưới

Bên bờ kia là núi Thúy Vân

Thánh Duyên trên đỉnh Thúy Vân

Là ngôi cổ tự vào hàng Quốc ân.

 

Ngọn Quy Sơn nằm nhô ra biển

Dưới chân núi bãi tắm tự nhiên

Ở đây cát trắng mùi tiên

Cát thơm thoang thoảng mùi sen giữa đồng.

 

Trên đỉnh núi trong lòng miếu cổ

Của người Chiêm tự thuở ban sơ

Trụ đá có khắc câu thơ

Đến nay chưa rõ câu thơ nói gì.

 

Bãi Mỹ Khánh nên thơ tuyệt diệu

Bãi cát vàng, rừng liễu màu xanh

Đồi cát thoai thoải lối quanh

Bãi thì cực sạch nước xanh mắt mèo.

 

Gần Mỹ Khánh còn nguyên tháp cổ

Của Chăm pa không rõ năm nào

Mười hai thế kỷ hay sao?

Hay là hơn nữa ngày sau sẽ bàn.

 

Cách Thuận An gần hai cây số

Bãi Hòa Duân mới mở về sau

Từ năm chín chín bắt đầu

Xây thêm quán sá cao lâu cửa hàng.

 

Khách du lịch ngày càng tìm đến

Việc kinh doanh phát triển thật nhanh

Môi trường ô nhiễm chung quanh

Phía trong rác thải hôi tanh bốc mùi.

 

Bãi Thuận An không vui như trước

Khách vài người dạo bước trên bờ

Bãi thì chỗ cạn chỗ sâu

Lại thêm nước xoáy ngập đầu hiểm nguy.

 

Vì nguy hiểm ít người dám lội

Sóng thì cao, nước xoáy vô cùng

Bơi xa, nước cuốn kéo ngang

Dễ sa vào chỗ hụt chân chết chìm.

 

Bãi Vinh Thanh cách đó một đoạn

Mười cây số một khoảng không xa

Một vùng bãi biển bao la

Có rừng dương liễu, hoàng sa nên đồi.

 

Xuống An Lai, qua đò Ca Cút

Bãi Quang Thái nằm tuốt phía trên

Nước trong bãi biển lài lài

Mịn màng cát trắng trải dài ngoài xa.

 

Phá Tam Giang quả là hiếm có

Khắp cả vùng Nam Á Biển Đông

Đệ nhất danh thắng trong vùng

Là khu đặc hữu, nói chung khó tìm.

 

Phá Tam Giang, tràm chim, Cửa Lác

Là rừng thiêng của các loài chim

Ba tư hết thảy loài chim

Còn nhiều giống quý khó tìm đâu ra.

 

Vào Cửa Lác chỉ xa vài dặm

Là vùng trũng của phá Tam Giang

Chim trời di trú mùa đông

Nơi thôn Thủy Nịu, Quảng Công, Phong Điền.

 

Bãi Phù Du nơi chim trú ẩn

Vùng cỏ lác thực phẩm chim ăn

Cho nên cứ đến tuần trăng

Vào mùa đông giá, là năm chim về.

 

Sông Ô Lâu đổ về đầm phá

Mang theo dòng nhiều cá, phù sa

Làm giàu cho xã Điển Hòa

Vùng đất di trú, cò ma, vịt trời.

 

Phá Tam Giang nhiều loài thủy sản

Cá bống sao, cá ngát, cà dầy

Cá nâu, cá đối, cá hồi

Cá ong, cua đỏ sống nơi mé rừng.

 

Cá lìm kìm, cá chuồn, bống thệ

Cá ong chuôm, cua biển, tôm rằng

Chình hoa, cá trích, cá hồng

Những loài cá hiếm của vùng Tam Giang.

 

CẦU ĐƯỜNG

Cầu Thuận An được xây kiên cố

Cầu Trường Tiền từ thuở Tây qua

Ở vùng Phú Thứ, Trung Hà

Cầu qua chợ Nọ, cầu ra An Hòa.

 

Cầu qua Ga, Từ Đàm, Bến Ngự

Cầu qua làng La Chữ chợ dinh

Cầu qua Gia Hội thật xinh

Cầu về An Cựu, Ngự Bình phía nam.

 

Cầu Dã Viên khánh thành năm ngoái (2012)

Là chiếc cầu thuộc loại dễ thương

Vọng lâu trên các cung đường

Giảm đi thô kệch, bê tông dưới gầm.

 

Cầu Phú Xuân, cây cầu chiến lược

Cầu được xây trong cuộc chiến tranh

Cầu xây chỉ được để dành

Lưu thông cho thoáng, chạy nhanh đi về.

 

Cầu chợ Dinh, Bãi Dâu, Vỹ Dạ

Những chiếc cầu gần ngã ba sông

Vòm cầu xây dáng cong cong

Chợ Mai chợ Nọ qua sông dễ dàng.

 

Cầu Hương Lưu bắt sang Cồn Hến

Dưới chân cầu có bến đò xuôi

Về Thanh Tiên, đến Mậu Tài

Ngược lên Vỹ Dạ ghé qua bên Cồn.

 

Ở bên Cồn chè bắp, đậu ván

Có mấy quán bánh tráng, chè kê

Cơm hến, ớt mọi cay xè

Ăn xong mới thấy cay tê cả ngày.

 

Cầu Xước Dủ nằm nơi đầu nhánh

Lấy nước từ dòng chảy sông Hương

Cầu Huyền không, cầu chợ Thông

Giúp dân đi lại, lưu thông dễ dàng.

 

Một chi sông Hương: sông Như Ý

Nằm ở trên Vỹ Dạ, Dương Xuân

Đập đá chận chết dòng sông

Đó là sản phẩm thực dân Pháp làm.

 

Cầu Như Ý phía nam thành phố

Đường qua cầu về ngõ Thuận An

Đi về miệt biển đầm Sam

Về thị trấn mới chỉnh trang đang làm.

 

Cầu Như Ý, qua sông chạy thẳng

Đường dẫn đến thị trấn Phú Đa

Đó là thủ phủ huyện nhà

Phú Vang huyện thị sẽ là tương lai.

 

Mấy chiếc cầu chiều dài khiêm tốn

Từ Gia Hội qua đến Đông Ba

Hay từ An Cựu bắc qua

Chưa đầy trăm mét, chẳng xa chút nào.

 

Cầu Đông Ba dốc cao vừa phải

Mới năm rồi đợi mãi mới xây

Hy vọng đến hết năm nay

Đông Ba cầu mới nối hai bên bờ.

 

Cầu Trường Tiền, 6 vài 12 nhịp

Chiếc cầu của thế kỷ trước đây

Bây giờ có những đổi thay

Không còn duyên dáng của ngày xa xưa.

 

Thuở thời xưa, Thánh Tông Hoàng đế

Làm cầu mây dùng để sang sông

Đến khi quân Pháp xâm lăng

Thì cầu được đúc bê tông làm dầm.

 

Cầu Trường Tiền chứng nhân lịch sử

Bước thăng trầm lịch sử xưa nay

Giờ đây thấp thoáng áo bay

Con đò Thừa Phủ nhớ hay quên rồi?

 

Cầu Bạch Hổ phía tây thành phố

Cho tàu hàng chuyên chở chạy qua

Chiếc cầu không được hài hòa

Làm mất vẻ đẹp hiền hòa sông Hương.

 

Cầu dưới Truồi trên đường về phố

Cầu Thừa Lưu xuống ngã Lăng Cô

Cầu ra về phía ngoại ô

Là cầu An Cựu, cầu vô nội thành.

 

Cầu Phủ Cam, Thanh Lam, Phú Thứ

Cầu Phác Lác thôn cũ Nhì Tây

Dưới vùng đầm phá Cầu Hai

Có nhiều cầu nhỏ, cống dài xe qua.

 

Ở vùng xa có cây cầu ngói

Là cầu gỗ có mái bên trên

Hiện nay kiến trúc còn nguyên

Của trăm năm trước, mang tên Thanh Toàn.

 

Cầu đi lên các vùng miền núi

Như là cầu A Lưới, A Sao

Hầu như khắp cả vùng cao

Dây văng, cầu mới, bắc cao giữa trời.

 

Ở nông thôn nơi nơi đều có

Hệ cầu đường tương đối khả quan

Cầu tre vắt vẻo đổi sang

Xi măng, sắt hóa khang trang vững bền.

 

Những chiếc cầu vùng ven thành phố

Cầu Phú Lộc, An Lỗ, Vân Dương

Cầu qua Tứ Hạ, Phú Lương

Cầu về Bảng Lãng dọc đường Trường Sơn.

 

Cầu liên xã, đi qua đi lại

Cầu xi măng, nối lại hai bên

CHỢ BÚA

Thành cầu tay vịn lối riêng

Bộ hành, xe cộ chia nền mà đi.

 

Đa số cầu được xem bề thế

Vào thời cuối thế kỷ hai mươi

Cầu thông, đường suốt tương lai

Là điều căn bản lâu dài dân sinh.

 

Nhưng nghĩ lại mà buồn não ruột

Bến đò xưa Ca Cút sử thi

Tam Giang cầu mới làm chi

Cứ tên Ca Cút dân ghi tạc lòng.

 

Các ngôi chợ ở nơi thành phố

Có ngôi chợ tuổi đã trăm năm

Chợ Gia Hội, chợ An Vân

Phù Lễ, Nam Phổ, chợ làng La Khê.

 

Chợ miền quê ở vùng chợ Nọ

Chợ An Hòa, Long Thọ, Bao Vinh

Chợ Mai, chợ Cũ, chợ Sình

Vân Cù có chợ, Chợ Dinh, Kẻ Trài.

 

Chợ Phú Bài, Lộc Sơn, chợ Xép

Chợ chồm hổm không phép cứ đông

Chợ Tuần, chợ Sịa, Kim Long

Chợ Cá, Xước Dũ, Chợ Thông, chợ Chuồn.

 

Chợ Phù Lương, Vân Cù, chợ Cống

Chợ Hương Cần, Bác Vọng, Thanh Hà

Chợ trong thành phố Đông Ba

Người mua kẻ bán vào ra rộn ràng.

 

Chợ Nam Giao, chợ phường Thuận Lộc

Chợ đông vội dưới dốc cầu Lim

Chợ bến Ngự, chợ ban đêm

Chợ Gia Lạc chỉ đông đêm giao thừa.

 

Ở thôn quê, Lăng Cô Lộc bổn

Chợ Thừa Lưu nằm chỗ trung tâm

Chợ Nước Ngọt, chợ Trúc Lâm

Đồ chơi, vải vóc, giá hàng vừa mua.

 

Chợ Quảng Điền dễ mua vừa bán

Ở chợ Sịa, hải sản khá nhiều

Chợ A Lưới bán hạt tiêu

Nam Đông đặc sản chuối tiêu, hột vừng.

 

Chợ trong vùng hay nơi thị trấn

Chợ chồm hổm cứ vẫn đông vui

Siêu thị mới mở năm nay

Hàng bày chủng loại kiểu này dễ mua.

 

Việc thu mua rất là khoa học

Kiểu bày hàng dễ đọc, dễ xem

Hàng nào cũng được dán tem

Chất lượng đảm bảo, nêu tên rõ nguồn.

 

PHONG TỤC TẬP QUÁN

Người xứ Huế có nhiều phong tục

Nhiều tập quán cũng khác nhiều nơi

Tiết xuân, gả cưới, ma chay

Tổ tiên, giỗ chạp nhớ ngày Thanh Minh.

 

Đêm giao thừa lung linh, pháo nổ

Đóa mai vàng, sớm nở trước thềm

Chào cha, chào mẹ, người quen

Vợ con sửa soạn, xuất hành cầu may.

 

Tối hai ba ngày đưa ông Táo

Cúng tất niên mũ áo chỉnh tề

Sau đó lại cúng tổ nghề

Cúng quân hành khiển mọi bề lo toan.

 

Đất Gia Lạc đầu xuân họp chợ

Nơi họp chợ là ở Phú Vang

Hàng ăn, thức uống trang hoàng

Những phường hát bộ, hát rong nói vè.

 

Trước ngày cưới cứ theo nghi lễ

Lễ vấn danh, đầu lễ đính hôn

Nghiệm xem hợp tuổi hay không

Chọn ngày tháng tốt thành hôn rõ ràng.

 

Lễ Thanh Minh khai quang tảo mộ

Để bà con, dòng họ thân quen

Trên vai vác cuốc, xà beng

Bông hoa quả phẩm, hương đèn đem ra.

 

Lễ giỗ hội, ở nhà thờ Họ

Cũng là ngày cúng nhớ tổ tiên

Làm người không ai được quên

Lật trang gia phả mà xem họ hàng.

 

Tục nhuộm răng ngày nay đã bỏ

Đốt vàng mã, xe cộ, tư trang

Nên chăng cũng nên bỏ dần

Những điều hủ tục đa phần bỏ đi.

 

Có những tục quên đi cũng tốt

Như mồng năm, mười bốn, hai ba

Xuất hành chớ gặp đàn bà

Phong long là để phòng xa: nhiễm trùng.

 

Để cầu an khi con gặp nạn

Như là té giếng, tai nạn giao thông

Hú hồn chín vía, giải phan

Khi mắc quan sát mà không thừa hành.

 

Những tục này, tâm linh là chính

Giải căng thẳng cho được tĩnh tâm

Sợ người khuất mặt cõi âm

Quan tha ma bắt, thất thần sợ ma.

 

Lễ đầy tháng trải qua sinh nở

Chờ đến kỳ làm lễ thôi nôi

HỌ TỘC

Đến khi con biết tập ngồi

Ăn mừng sinh nhật, mời người thân quen.

 

Dân ở Huế có chừng trăm họ

Họ Đinh, Lê, Lý, Võ, họ Dương

Họ Ngô, họ Nguyễn, họ Hoàng

Họ Thân, Hà Thúc, họ Đoản, họ Trương.

 

Họ Nguyễn Khoa, họ Vương, họ Trịnh

Họ Phan, Mạc, Lê Định, Nguyễn Vinh

Họ Trần, họ Triệu, họ Quỳnh

Họ Khúc, họ Đái, Lê Đình, Phan Gia…

 

Ở Huế nhiều danh gia vọng tộc

Kể từ đầu Hà Thúc, Nguyễn Khoa

Kiến thức uyên bác kinh qua

Làm quan chính trực, thật thà vì dân.

 

Họ Thân Trọng, quần thần đáng kính

Để làm gương cho lính trong quân

Văn chương, cổ học, uyên thâm

Có họ Hồ Đắc làng Chuồn nổi danh.

 

Với dân lành, họ Đoàn, họ Võ

Bậc thượng sư kèo đỡ cho dân

Chia cơm sẻ áo đỡ đần

Cho dân khỏi lạnh, cơ hàn lo toan.

 

Có họ Hoàng, chăm dân dạy học

Truyền kiến thức, chăm bón cho người

Họ Văn, họ Châu ơn trời

Lắm người học giỏi, một thời lưu danh.

 

Họ Lê Duy ở An Ninh hạ

Khoa văn chương đã quá nhiều đời

Lưu danh muôn thuở cho đời

Có nhiều danh sĩ hiền tài đến nay.

 

Họ Lê Đình, Phù Lương làng cói

Có nhiều người học đỗ rất cao

Có người phò mã dưới trào

Nhà vua Minh Mạng trao cho sách vàng.

 

Làng An Truyền có dòng Hồ Đắc,

Người thường gọi: Đệ nhất danh y

Hồ Đắc Hóa, Chánh ngự y

Còn cháu nội Hồ Đắc Di thiên tài.

 

Hồ Đắc Trung thì ai cũng biết

Giữ trung trinh kẻ sĩ thời xưa

Là thầy dạy học cho vua

Thượng thư Bộ Học, giúp vua lập trường.

 

Họ Trương Như, khiêm nhường mà giỏi

Ra làm quan tiếng nói dân nghe

Cháu con nổi tiếng nghề rèn

Cửa nhà hiếu đễ đáng khen nhiều bề.

 

VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

 

Ở vùng quê, Thừa Thiên, xứ Huế

Có nhiều đoàn văn nghệ dân gian

Hò vè, nói lối, hóa trang

Ca ngâm, hát bội, hát rong quanh làng.

 

Hò vè là đặc trưng xứ Huế

Hò chuyển tải, chuyện kể xưa nay

Người hò thường đứng dưới cây

Hay trong lồng chợ, ở nơi đông người.

 

Hò xứ Huế có ba thể loại:

Hò nghi lễ, sinh hoạt, vui chơi

Hò khoan, hò hụi, hò lơ

Xay lúa, giả gạo, hò ô, bài chòi.

 

Hò quét vôi, hò ơi, đạp nước

Hò mái nhì não nuột vô cùng

Hò câu lục bát thường dùng

Thâm trầm da diết, chạnh lòng thiết tha.

 

Vè nói lối nghe ra dí dỏm

Rất phong phú diễn cảm thật vui

Nói lui, nói tới, nói lui

Trẻ con rất thích, vỗ tay vang trời.

 

Hò ru em cả đời còn nhớ

Hò giã gạo, nhịp gõ cối xay

Giọng hò tha thiết thật hay

Tình em nức nở, mấy ngày chờ nhau.

 

Hò lịch sử lắng sâu vào trí

Suốt cả đời cất kĩ trong tim

Quân xâm lăng, muốn nhấn chìm

Cái loài lang sói đã dìm dân ta.

 

Muốn kể ra kinh đô thất thủ

Thì có vè thất thủ kinh đô

Pháp lang, phá nát cơ đồ

Giết ngàn dân chúng, bỏ tù nhiều hơn.

 

Hò Mụ Đội có nguồn hài hước

Phàm những người nói trước quên sau

Bến đò, lồng chợ chen nhau

Vào xem cho biết, câu nào mà hay.

 

Hò đối đáp loay hoay vui nhộn

Tha hồ cười, chồm hổm người nghe

Liền anh, liền chị chia phe

Nhiều câu vặn vẹo vừa nghe vừa cười.

 

Hò đám ma, người người đều khóc

Tiếng hò ơ nghe thấy rùng mình

Câu hò “Thập loại chúng sinh”

Nghe sao rờn rợn tưởng mình gặp ma.

 

VĂN HÓA ẨM THỰC

Hò diễn ca, lô tô bài tới

Hò loại này có lối hò riêng

Giọng hò vui vẻ tự nhiên

Người nghe thích chí, quăng tiền thưởng ngay.

 

Một truyền thống lâu đời hiếm có

Khi nghiên cứu mới rõ ràng ra

Ẩm thực đâu phải chỉ là

Loay hoay ăn uống cho qua tháng ngày.

 

Món ăn Huế trình bày rất khác

Nhìn mân cơm đã thấy muốn ăn

Lá hành, ngò rí, ớt xanh

Lại thêm múi tỏi, vắt chanh cho vừa.

 

Chọn món ăn cho vừa mới dọn

Chọn thực đơn ít tốn mới hay

Nhìn người khách đã được mời

Để xem, sức khỏe khách mời ra sao?

 

Người có tuổi, món nào ăn được?

Chọn món gì ăn trước, ăn sau

Mâm cơm ít thịt nhiều rau

Thực đơn thật nhẹ, thuộc làu nghe con.

 

Thực đơn Huế cũng còn phải học

Cả hàng ngàn, chọn món thật ngon

Dành cha, dành mẹ, hay con

Đó là chữ hiếu vuông tròn con ơi!

 

Lời mạ dạy cho con dễ sống \

Là văn hóa ẩm thực quê ta

Đó là lời dạy của bà

Cố mà giữ lấy, nếp nhà mai sau.

 

Nghệ thuật cao theo mùa để chọn

Vào đầu thu, nên chọn món gì?

Bữa ăn vào sáng hay khuya

Thực khách cỡ tuổi ăn gì dễ tiêu.

 

Thực đơn nhiều thịt thà chất béo

Không hài hòa, không khéo thì nguy

Tiệc xong đứng dậy ra về

Tới nhà ích bụng khó tiêu mấy ngày.

 

Phụ nữ Huế mát tay làm bếp

Lựa thực đơn giản dị mà ngon

Đó là nghệ thuật hãy còn

Mấy trăm năm trước khác hơn xứ người.

 

Tiệc cung đình, hay đòi dân dã

Ăn đời thường muối sả, chột nưa

Thịt heo kho với nước dừa

Cá cơm kho mặn, me chua tép ròng.

 

Bánh xứ Huế vô cùng phong phú

Đầu tiên là bánh ú, bánh chưng

Bánh khoái, bột lọc, bánh thùng

Bánh đúc Nam Phổ, Kim Long bánh xèo.

 

Bánh tai mèo ăn nghe rất lạ

Loại bánh nậm, bánh lá chả tôm

Phu thê, bánh ít bánh rơm

Ít đen, ít trắng mùi thơm khắp nhà.

 

Bánh hỏi với thịt quay, rau sống

Bánh ướt với thịt nướng, dưa leo

Chấm chung với thứ nước lèo

Vô cùng hấp dẫn, bánh bèo cũng ngon.

 

Miếng khoai lang, gói chung bánh tráng

Thêm rau muống ít cọng lá thơm

Nước chấm là loại mắm nêm

Bùi bùi, sừng sực ít tiền mà ngon.

 

Kẹo mè xửng, một lon đậu phụng

Kẹo mè gương thơm phức mùi dâu

Kẹo cứng thì ngậm được lâu

Còn như kẹo dẻo ăn mau hết liền.

 

Bánh chuối chiên, mấy cô, mấy cậu

Biết chỗ nào bán dạo mà mua

Dòn dòn ngọt ngọt chuối cau

Chiên thêm chút lửa, màu nâu chuối già.

 

LINH TINH

Trong phố thị, ngân hàng mấy chỗ

Vài tiệm sách, kệ gỗ bày hàng

Sách toán học, sách văn chương

Có nhiều học cụ, có hàng đồ chơi.

 

Chỗ bản đồ, có nơi sách truyện

Quầy ngoại ngữ, sách truyện tiếng Anh

Báo nhi đồng ở chung quanh

Sắp xếp thứ tự, tìm nhanh khỏi phiền.

 

Việc chuyển tiền, ngân hàng đảm nhận

Chuyện rút tiền đưa tận liền tay

Hệ thống vi tính hiện nay

Là phương tiện chính làm thay con người.

 

Máy vi tính công cụ thời thượng

Là phương tiện, biểu tượng văn minh

Hiện nay ở tại nước mình

Trở thành công cụ điều hành chuyên môn.

 

Ở kế bên nhà hàng khách sạn

Nhà cao tầng san sát chung quanh

Công viên thoáng mát cây xanh

Bờ sông sạch đẹp dưới chân phố phường.

 

Khu công viên trước trường Quốc học

Nhiều tác phẩm của các nghệ nhân

Thổi hồn vào đá hóa thân

Điêu khắc kì diệu, thì thầm tiếng thơ.

 

Cầu Dã Viên giấc mơ của nước

Bức bình phong che trước “Kỳ quan”

Cái mà làm xấu sông Hương

Nhắn cho ai đó chỉnh trang phố phường.

 

Dòng sông Hương uốn cong như múa

Nước thì thầm áo lụa nàng thơ

Hò ơ đò dọc hò ơ

Đò ngang Thừa Phủ mà mơ suốt đời.

 

Nước sông Hương thơm mùi thạch thảo

Cỏ xương bồ mặc áo thiên thanh

Chiều vàng chiều nắng vàng hanh

Màu xanh, xanh biếc, khôn đành người ơi.

 

Có nhiều nơi trên thành phố Huế

Có chiếc cầu không để lâu hơn

Con đập ngăn nước lưu thông

Hay chăng phá bỏ khai thông nước vào.

 

Có nhiều nhà độ cao vượt mức

Che mất tầm, thể thức được cho

Ví rằng thiết kế không đo

Thôi thì mặc kệ lý do giải trình.

 

Nha bưu điện trên nền đất cũ,

Còn bề thế hơn cả lúc xưa

Ngăn nắp, trật tự có thừa

Trước sân đủ rộng cũng vừa để xe.

 

Nhà tư liệu trên thư viện cũ

Chính là nơi lưu trữ tàng thư

Là thư viện của ngày xưa

Kho tàng dữ liệu còn chưa có người…

 

Ga xe lửa cho người sơn phết

Mới trùng tu một số công trình

Nhà ga chỉnh sửa phân minh

Mua, thay thiết bị, công trình mới toanh.

 

Hệ thống xe phải cần đuổi kịp

Theo láng giềng, bí quyết canh tân

Bây giờ đất nước đang cần

Làm cho rút ngắn về phần thời gian.

 

Phòng hành khách vẫn đang còn chật

Kho để hàng khá mất thời gian

Nhân viên phục vụ ân cần

Tàu đi, tàu đến, đa phần đúng hơn.

 

Sân Phú Bài, xây xong thời Pháp

Có đường băng để đáp máy bay

Hai cây số bảy chiều dài

Bốn năm mét rộng có hai hàng đèn.

 

Để bay đêm, rất cần chiếu sáng

Đài không lưu và cảng hàng không

Điều hành cẩn trọng không lưu

Là sân quốc tế trong vùng Á Đông.

 

Ngành du lịch cũng cần xem lại

Để làm sao mà cải tiến thêm

Vé tham quan phải rẻ tiền

Người dân bản địa khỏi tiền vào thăm.

 

Việc chèo kéo làm phiền du khách

Nhiều nơi bàn nói thách quá đà

Chỉ một mà nói ra ba

Làm ăn lừa đảo thành ra khách buồn.

 

Còn bán buôn hay là hàng quán

Muốn mua gì đều bán nghênh ngang

Đồng hồ, điện lạnh, nữ trang

Nhà sách, máy tính, tiệm vàng, nông cơ.

 

Bánh ga-tô, bánh bao, tạp hóa

Kẹo mè xửng bánh trái rất tươi

Thanh trà, mít ướt, dâu truồi

Tha hồ mà chọn chỉ vài chục thôi.

 

Quán bún bò, chè xôi đủ thứ

Ba mươi loại chè không đủ không mua

Khách hàng khó tính cũng ưa

Chè kê Nam Phổ, chè trưa, chè chiều.

 

Gánh bún riêu, chè bắp Cồn Hến

Để dành tiền còn đến Nam Giao

Bánh canh, bột lọc, xôi vò

Trở lui An Cựu múc tô cháo lòng.

 

Bán vệ đường thượng vàng hạ cám

Cám kiểu nào, có dám thì ăn

Dân ghiền ăn vặt chẳng cần

Thấy ngon là được, rần rần nhào vô.

 

Nếu muốn vô nhà hàng sang trọng

Ở nơi đó có lọng dẫn đường

Sa-lông, ghế gụ cảnh quan

Cực kì sang trọng, lễ tân đón chào.

 

Nếu thực đơn được khách đặt trước

Muốn dùng chi cũng được có ngay

Nem công chả phụng chình quay

Tiến vua: Anh vũ, cà dầy sông Son.

 

Tôm hùm cửa sông Nhật Lệ

Cá bống thệ ở phá Cầu Hai

Cà dìa có một không hai:

Phong Điền, Quảng Ngạn loại này vị thanh.

 

Cơm cung đình chỉ lòe thiên hạ

Cơm dân dã mới lạ mà ngon

Ăn xong cảm giác vẫn còn

Lưu hương, vị lạ vật ngon khó tìm.

 

Muốn đi tìm thì vào siêu thị

Muốn mua gì? Kim chỉ hay son?

Quầy này bày bán áo quần

Quầy kia thực phẩm chẳng cần đâu xa.

 

Trong siêu thị thịt thà rau cá

Mà bán buôn giá cả không cao

Cho nên khách đến ra vào

Mua theo giá cả khỏi hao khỏi phiền.

 

Có khu vực chỉ chuyên khách sạn

Nằm trung tâm buôn bán vui chơi

Mini khách sạn là nơi

Có nhiều du khách ở chơi vài ngày.

 

Huế từ ngày thay da, thịt đổi

Là tiền đề khai lối mở mang

Đền đài, lăng tẩm cảnh quang

Là khu du lịch, nhất vùng Á châu.

 

HẾT

 

In lần thứ I, số lượng 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,4 cm tại Công ty TNHH TM & DV BBG và In BBG Long Hưng Thịnh. Số 87 Đông Hồ, Phường 4, Quận 8, TP.HCM. Điện thoại: 0905007785 – 0909.584767. Giấy đăng kí: 480-2014/CXB/12-15/HNV. Số quyết định xuất bản của Giám đốc: 205/QĐ-NXBHNV kí ngày 18 tháng 3 năm 2014. In xong và nộp lưu chiểu tháng 5/2014. ISBN: 978/604/53/1287-2.