Mèo (chính xác hơn là loài mèo nhà để phân biệt với các loài trong họ
Mèo khác) là động vật có vú, nhỏ nhắn và
chuyên ăn thịt, sống chung với loài người, được nuôi để săn vật gây hại hoặc
làm thú nuôi cùng với chó nhà. Mèo nhà đã sống gần gũi với loài người ít nhất
9.500 năm, và hiện nay chúng là con vật cưng phổ biến nhất trên thế giới.
Có rất nhiều các giống mèo khác nhau,
một số không có lông hoặc không có đuôi, và chúng có nhiều màu lông khác nhau.
Mèo là những con vật có kỹ năng của thú săn mồi và được biết đến với khả năng
săn bắt hàng nghìn loại sinh vật để làm thức ăn, ví dụ như chuột. Chúng đồng
thời là những sinh vật thông minh, và có thể được dạy hay tự học cách sử dụng
các công cụ đơn giản như mở tay nắm cửa hay giật nước trong nhà vệ sinh.
Mèo giao tiếp bằng cách kêu meo meo,
gừ-gừ, rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm
thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.
Giống như một số động vật đã thuần
hóa khác (như ngựa), mèo vẫn có thể sống tốt trong môi trường sống hoang dã như
mèo hoang. Trái với quan niệm thông thường của mọi người rằng mèo là loài động
vật cô độc, chúng thường tạo nên các đàn nhỏ trong môi trường sống hoang dã.
Sự kết hợp giữa con người và loài mèo
dẫn tới việc nó thường được khắc họa trong các truyền thuyết và thần thoại tại
nhiều nền văn hoá, gồm truyền thuyết và thần thoại Ai Cập cổ, Trung Quốc cổ, Na
Uy cổ, và vị Vua xứ Wales thời Trung Cổ Hywel Dda (người Tử tế) đã thông qua bộ
luật bảo vệ động vật đầu tiên trên thế giới bằng cách coi hành động giết hại
hay làm tổn hại tới mèo là vi phạm pháp luật, với những hình phạt nặng nề cho
những kẻ vi phạm. Tuy nhiên, mèo thỉnh thoảng bị coi là ma quỷ và có 9 mạng, ví
dụ như nó không mang lại may mắn hay thường đi liền với những mụ phù thủy trong
nhiều nền văn hoá thời Trung Cổ.
Cho đến gần đây, mèo được cho rằng đã
được thuần hóa trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, nơi chúng được thờ cúng. Một nghiên
cứu năm 2007 chỉ ra rằng tất cả mèo nhà có thể xuất phát từ Mèo hoang châu Phi
tự thuần hóa (Felis silvestris lybica) vào khoảng 8000 TCN, tại Cận Đông. Bằng
chứng gần đây chỉ ra sự thuần hóa mèo là thi thể một con mèo con được chôn với
chủ của nó cách đây 9.500 năm tại Síp.
Mèo là một trong mười hai con giáp
tại Việt Nam, thường gọi là "Mão" hay "Mẹo".
Phân loại khoa học
Tên khoa
học của mèo nhà được Carolus Linnaeus đặt là Felis catus trong cuốn Systema
Naturae xuất bản năm 1758 của ông. Ngoài ra, còn có một số tên khoa học khác
được đề xuất cho mèo nhà như Felis domesticus (được đề xuất bởi Johann
Christian Polycarp Erxleben trong cuốn Anfangsgründe der Naturlehre and Systema
regni animalis năm 1777), và các biến thể của nó như Felis catus domesticus và
Felis silvestris domesticus, nhưng chúng không phải là các tên khoa học được
chấp nhận theo Quy tắc đặt tên động vật quốc tế của Ủy ban Quốc tế về Danh mục
Động vật học (ICZN).
Năm
2003, Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học (ICZN) đã đưa ra quan điểm số
2027 (xuất bản trong Tập 60, Phần 1 của Tập san đặt tên động vật, ngày 31 tháng
3 năm 2003), theo đó ICZN "đã duy trì việc sử dụng 17 tên riêng của các
loài hoang dã, vốn xuất hiện sau hoặc đồng thời với tên của các loài đã được
thuần hoá". Quan điểm này vì thế đặt ra ngoại lệ cho Quy tắc đặt tên động
vật quốc tế, và xác nhận tên khoa học F. silvestris tiếp tục được sử dụng cho
mèo rừng châu Âu, và F. silvestris catus cho các phân loài đã thuần hóa của nó.
(F. catus vẫn sử dụng được nếu mèo nhà được coi là một loài riêng.)
Năm
2007, một số nghiên cứu về phát sinh chủng loại học đưa ra gợi ý rằng mèo nhà
nên được xem là một phụ loài của mèo rừng châu Âu (tên khoa học Felis
silvestris), và gợi ý tên khoa học mới cho mèo nhà là F. silvestris catus.
Năm
2017, Ủy ban phân loại mèo của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã
áp dụng khuyến nghị của Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học (ICZN) để phân
loại rằng mèo nhà là một loài mèo riêng biệt với tên khoa học là Felis catus.
Đặc điểm
Đặc điểm
thể chất
Thông
thường mèo nặng từ 2,5 đến 7kg (5,5–16 pound); tuy nhiên, một số giống như
Maine Coon có thể vượt quá 11,3kg (25 pound). Một số chú mèo từng đạt tới trọng
lượng 23kg (50 pound) vì được cho ăn quá nhiều. Điều này rất có hại cho sức
khỏe mèo - khiến chúng có thể bị tiểu đường, đặc biệt đối với mèo đực đã thiến
- có thể ngăn chặn tình trạng này thông qua biện pháp ăn kiêng và tập luyện
(chạy nhảy), đặc biệt đối với những chú mèo luôn ở trong nhà. Trái lại, cũng có
những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg - 4,0 pound).
Ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường
sống 14 tới 20 năm, dù chú mèo già nhất từng biết đã sống 35 năm. Mèo nhà
thường sống lâu hơn nếu ta không cho chúng ra ngoài (giảm nguy cơ bị thương
tích khi đánh nhau và tai nạn cũng như dễ mắc bệnh) và nếu chúng được triệt
sản. Những chú mèo đực được triệt sản tránh được ung thư tinh hoàn, mèo cái
được triệt sản không bị ung thư buồng trứng nhờ vậy giảm thiểu nguy cơ mắc các
bệnh ung thư. Mèo hoang trong môi trường đô thị hiện đại thường chỉ sống hai
tới ba năm hoặc ít hơn. Mèo hoang trong các nhóm có thể sống lâu hơn; tổ chức
British Cat Action Trust đã thông báo về trường hợp một con mèo hoang cái 19
tuổi. Chú mèo hoang sống lâu nhất là "Mark", do Hội từ thiện Bảo vệ
Mèo Anh nuôi, sống tới 26 tuổi.
Mèo là
những vận động viên điền kinh. Mèo chạy nước rút rất giỏi, chúng có thể đạt tới
tốc độ 30 dặm một giờ trên những khoảng cách ngắn. Mèo có thể nhảy cao tới đỉnh
rào hay một bức tường cao 7 ft từ tư thế đứng yên. Mèo nhà là một trong số ít
loài vật bốn chân không có các xương đòn cứng. Điều này cho phép mèo chui qua
lỗ hổng có kích thước bằng đầu chúng.
Tai
Với 32
cơ riêng biệt điều khiển hướng nghe của tai; mèo có thể vểnh mỗi tai theo một
hướng khác nhau. Nhờ tính năng động cao như vậy, mèo có thể quay người về một
hướng và vểnh tai theo hướng khác. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Không giống
như chó, các giống mèo có tai cụp rất hiếm. (Mèo giống Scottish Fold là một
loài đã biến đổi như vậy.) Khi giận dữ hay sợ hãi, mèo thường chĩa tai về phía
sau, đồng thời phát ra các âm thanh gầm gừ hay tiếng rít. Mèo cũng chĩa tai về
phía trước khi chúng chơi đùa, hay thỉnh thoảng khi chú ý tới một tiếng động
phát ra từ phía sau nó.
Hoạt động
Mèo giữ
năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi
chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12–16 giờ, mức
trung bình 13–14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường
chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào
buổi tối và chủ yếu ngủ vào sáng sớm, trưa và chiều. Tính khí mèo thay đổi tùy
theo giống, hoàn cảnh sống và giới tính, mèo cái thường quấn chủ hơn mèo đực.
Mèo lông ngắn thường gầy và ưa hoạt động, mèo lông dài thường to và lười nhác.
Nhiệt độ cơ thể mèo trong khoảng 38 tới
39 °C (101,4 tới 102,2 °F).[18] Một con mèo bị coi là sốt (cao) nếu có thân
nhiệt ở mức 39,5 °C (103,1 °F) hay cao hơn, hay giảm nhiệt nếu thấp hơn 37,5 °C
(99,5 °F). Để so sánh, thân nhiệt thông thường của cơ thể người xấp xỉ 37 °C
(98,6 °F). Một chú mèo nhà bình thường có nhịp tim khoảng 140 đến 220 nhịp một
phút, và nó phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng kích động hay không của mèo. Khi
mèo đang nghỉ ngơi, nhịp tim bình thường trong khoảng 150 - 180 nhịp một phút,
khoảng gấp đôi con người.
Chân
Giống
như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các
ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng
chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì giống như mọi giống thuộc loài mèo
khác, chúng ghi nhận trực tiếp; có nghĩa là chúng đặt bàn chân sau (hầu như)
trực tiếp lên dấu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại.
Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt gồ
ghề.
Giống như mọi thành viên khác của họ
mèo, loại trừ loài báo gêpa, mèo có vuốt thu lại được. Bình thường, ở vị trí
nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt
luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ
nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể
giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Chúng thường giương vuốt khi săn
mồi, tự vệ, hay leo trèo, nhào lộn, hay để tăng ma sát khi bước đi trên các bề
mặt trơn (khăn trải giường, thảm dày, vân vân). Các vuốt cong có thể bị mắc vào
thảm hay các tấm vải dày, khiến mèo bị thương nếu chúng không thể tự gỡ.
Trèo cao và ngã
Đa số
các giống mèo đều thích trèo cao hay ngồi ở các vị trí cao. Các nhà nghiên cứu
hành vi động vật đã đưa ra một số giải thích điều này, thông thường nhất là,
"độ cao khiến mèo có điểm quan sát tốt hơn. Từ vị trí đó, chúng có thể
giám sát vương quốc của mình và biết mọi hoạt động của con người cũng như các
con vật khác. Trong môi trường sống hoang dã, một vị trí trên cao cũng được
dùng làm nơi ẩn mình để săn mồi." Vì thế độ cao cũng có thể mang lại cho
mèo cảm giác an toàn và uy thế.
Tuy nhiên, sự ưa chuộng độ cao này có
thể là một cách thử nguy hiểm đối với quan niệm thông thường rằng một chú mèo
"luôn rơi chân xuống trước". Cơ quan bảo vệ động vật Hoa Kỳ đã cảnh
báo những người chủ nên canh chừng những vị trí nguy hiểm trong nhà họ để tránh
"hội chứng trèo cao", có thể khiến một chú mèo quá tự tin bị ngã từ
độ cao quá lớn.
Khi rơi, mèo có thể sử dụng cảm giác
thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích
hợp. Khả năng này được gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó luôn chỉnh lại
thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện
phản xạ này khi rơi. Vì thế, những cú ngã từ trên cao (nhiều tầng) ít gây nguy
hiểm hơn những cú ngã từ độ cao chỉ vài mét. Nhiều trường hợp đã được ghi nhận
cho thấy những chú mèo ngã từ độ cao lớn (5 đến 10 tầng) vẫn sống sót, bình yên
vô sự. Một số giống không có đuôi nên không có khả năng lấy lại thăng bằng này,
bởi vì mèo quật đuôi và dựa trên mômen động lượng để lấy thăng bằng chuẩn bị
tiếp đất.
Giác quan
Việc
đánh giá các giác quan của bất kỳ một loài vật nào cũng là điều khó khăn bởi vì
không bao giờ có sự giao tiếp trực tiếp (ví dụ, đọc to các chữ trên Bảng
Snellen) giữa đối tượng và người nghiên cứu.
Trong khi các giác quan như khứu giác
và thính giác của mèo không nhạy bén như của chuột, thì chúng lại vượt trên con
người ở nhiều điểm. Các đặc điểm đó cộng với những khả năng thị giác, vị giác,
và xúc giác khiến chúng trở thành một loại đặc biệt nhạy cảm trong giới động
vật có vú.
Thị giác - Mắt mèo.
Sự thay
đổi hình dạng mắt mèo giữa ngày và đêm
Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của
mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Mèo, cũng như
chó, có màng trạch để phản chiếu lại ánh sáng tới võng mạc. Khi đó, khả năng
nhìn của mèo được tăng lên khi ở trong bóng tối, tạo ra một màng lưới thị giác
sắc sảo. Nhưng vào ban ngày hoặc chỗ có nhiều ánh sáng, tròng đen của mèo khép
lại hẹp, làm số lượng ánh sáng chiếu vào ít đi, tránh bị lóa và cải thiện khả
năng quan sát. Màng trạch và một số bộ phận khác giúp mèo có 1 sự dò tìm tốt
hơn so với con người. Sự biến đổi màu sắc của mắt mèo trong các tấm ảnh gần
giống với sự tương tác giữa ánh sáng và màng trạch.
Thông thường mèo có thị trường khoảng
200°, so với 180° ở con người, với trường trùng lặp (ảnh trùng lặp của hình ảnh
thu được từ hai mắt) nhỏ hơn con người. Giống như đa số các loài vật ăn thịt
khác, mắt của chúng hướng về phía trước để có được hình ảnh có chiều sâu tuy
phải hy sinh độ rộng thị trường. Thị trường phụ thuộc rất nhiều vào vị trí mắt,
nhưng cũng có thể phụ thuộc ở cấu tạo mắt. Thay vì kiểu con ngươi tròn (optic
fovea) vốn giúp con người có được tầm nhìn tập trung tốt hơn, mắt mèo có một
dải thị giác. Mèo rõ ràng có thể phân biệt các màu sắc, đặc biệt ở cự ly gần,
nhưng không hoàn toàn rõ rệt.
Mèo có mi mắt thứ ba, đó là 1 màng
mỏng xuất hiện khi mắt mèo mở. Màng này thường đóng lại từ từ khi mèo bị bệnh,
nhưng chúng lại rất rõ ràng khi mèo buồn ngủ. Nếu một con mèo từ lúc mới sinh
đã có mí thứ 3 rõ ràng thì có nghĩa là nó phải đến gặp bác sĩ thú y.
Mắt mèo có rất nhiều màu nhưng phổ
biến là vàng, xanh lá và cam. Mắt xanh dương cũng xuất hiện ở giống mèo
Siamese, tuy nhiên cũng có ở những con mèo bị bạch tạng. Nếu một con mèo bạch
tạng có đôi mắt xanh dương thì thường sẽ bị điếc; tuy nhiên, mắt màu cam cũng
báo hiệu tai của nó có vấn đề. Mèo bạch tạng có 1 mắt xanh dương 1 mắt cam cũng
thường điếc như mèo có đôi mắt xanh.
Thính giác
Con người và mèo có tầm thính giác ở
mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao
lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Mèo có thể nghe ở mức cao hơn 2 quãng so với
con người, và một nửa quãng so với chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ
xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh.
Mèo có thể xác định vị trí một vật chính xác trong vòng 7.5 cm (3 inches) khi
nguồn phát âm ở khoảng cách khoảng 1 mét (điều này giúp chúng định vị con mồi,
v.v...).
Khứu giác
Khứu
giác của một con mèo nhà mạnh gấp 14 lần so với của con người.[cần dẫn nguồn]
Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do đó mèo có thể
ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được. Mèo còn có một cơ quan
đánh hơi ở vòm miệng gọi là vomeronasal, hay cơ quan Jacobson. Khi một con mèo
chun mõm, hạ thấp cằm, và nâng lưỡi lên một chút, đó là lúc nó đang sử dụng cơ
quan vomeronasal. Hành động này gọi là "gaping",
"sneezing", hay "flehming". Gaping tương đương với phản ứng
Flehmen ở các động vật khác như chó, ngựa và mèo lớn.
Xúc giác
Do mèo
thích leo trèo nên nó có khả năng bám rất tốt do chúng dùng móng để giữ. Mèo ít
khi bị té (Do mất thăng bằng) nhưng chúng biết kiểm soát độ thăng bằng và tiếp
đất bằng 2 chân trước. Mèo đi hoàn toàn không có tiếng động do phần lớp thịt
dày dưới chân nên mèo được mệnh danh là "Kẻ sát thủ thầm lặng" khi đi
săn mồi.
Vị giác
Chỉ có
mèo và thỏ là không thể cảm nhận được vị ngọt do thiếu gen cần thiết cho việc
này. Đặc biệt không được cho mèo ăn sôcôla do trong sôcôla có methylxanthine.
Trí nhớ
Một
nghiên cứu mới tìm thấy mèo chỉ có thể nhớ được những thông tin nhất định trong
vòng 10 phút. Nghiên cứu ban đầu nhằm so sánh trí nhớ hành động của mèo với trí
nhớ hình ảnh và tìm thấy mèo nhớ bằng cơ thể tốt hơn là bằng mắt, khi chúng gặp
một vật thể trên đường. Khi một con mèo bước qua một đồ chơi hoặc chiếc giày
đặt ở cửa trên đường tới đĩa thức ăn, nó phải phối hợp bước đi của cả chân sau
và chân trước.
Nhà nghiên cứu Keir Pearson tại Đại
học Alberta, Canada, nói: "Động vật, cũng như con người, ghi nhớ một cách
vô thức vị trí đồ vật theo sự tương xứng với cơ thể khi họ bước đi, sự ghi nhớ
này phụ thuộc phần lớn vào các tín hiệu liên quan tới sự chuyển động cơ
thể". Mặc dù các nhà nghiên cứu đã biết được điều này, họ vẫn băn khoăn
làm thế nào mà mèo nhớ chính xác phải nhấc chân sau lên và chân trước đã tránh
một vật cản.
Để
tìm hiểu sự phối hợp của mèo, các nhà nghiên cứu tìm hiểu chúng có thể nhớ việc
mình vừa bước qua một cản trở trong bao lâu. Họ khiến con mèo dừng lại khi chân
trước đã bước qua vật cản, nhưng chân sau chưa bước tới. Tiếp đến họ đánh lạc
hướng con mèo bằng đồ ăn và dịch chuyển chướng ngại vật để xem con vật phản ứng
thế nào. Mèo nhớ được mình vừa bước qua vật cản trở trong ít nhất 10 phút, nên
nhấc chân sau lên để tránh đồ vật, kể cả khi nó không còn ở đó.
Để so sánh trí nhớ hoạt động của mèo với
trí nhớ hình ảnh, họ lặp lại thí nghiệm nhưng lần này dừng con mèo ngay khi
chúng chuẩn bị nhấc chân trước qua vật cản. Kết quả cho thấy chỉ sau vài giây,
con mèo không thể nhớ những gì chúng đã nhìn thấy nhưng chưa kịp làm: khi vật
thể bị bỏ đi, con mèo quên mất là nó đã ở đó và tiếp tục đi. Nghiên cứu trên
ngựa và chó cũng cho kết quả tương tự. Trí nhớ này đóng vai trò trong khả năng
con người định vị vật thể trong bóng tối hoặc nhớ lại họ đã để xe ở chỗ nào
trong bãi đỗ xe vào buổi sáng. Bằng việc đi bộ từ chỗ để xe vào văn phòng, bạn
đã củng cố ký ức về vị trí của chiếc xe trong trí não và không phải mất nửa
tiếng để tìm nó.
Bộ xương
Bộ xương
của mèo hơi nhỏ và đầu xương không giống với xương người. Xương sống của mèo có
nhiều đốt hơn chúng ta để di chuyển dễ dàng và tránh được thương tổn. Xương
đuôi rất dài để giữ thăng bằng cho việc di chuyển. Toàn bộ (Tổng cộng 500 cơ
xương) gồm 7 đốt sống cổ, 13 đốt sống lưng, 7 đốt sống hông, 2 đốt sống vùng
khum và 14-28 đốt sống đuôi, mèo có thể cuộn tròn cơ thể hoặc "giảm sóc,
giảm nhẹ sang chấn" khi rơi từ độ cao nguy hiểm. Bộ răng và hàm của mèo
đầy mãnh lực cắn xé mồi. Khi bắt mồi, các móng vuốt giương ra khỏi đệm thịt để
cào xé mồi.
Thông tin
Săn mồi và tập tính ăn
Mèo là động vật ăn thịt nên đối tượng
để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc
nhái, cá... thậm chí là gián nhà. Vũ khí săn mồi của mèo là móng vuốt ở đầu
ngón chân, có chiều dài hơn 1 cm, hình cong bán nguyệt, đầu móng vuốt nhỏ và
nhọn. Móng vuốt của loài mèo là vũ khí khá lợi hại đối với đối tượng của nó
đang săn mồi.
Để săn mồi, khi gặp đối tượng hay con
vật nó cần bắt làm mồi, loài mèo thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5
đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không
nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi
đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng
bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước
và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và cào lấy con mồi. Loài mèo thường bắt lấy
mồi khá hiểm và độc đáo bằng cách duỗi móng ở hai bàn chân trước ra và túm lấy
vào gáy đối tượng. Đây là cách săn mồi khá ấn tượng và hiệu quả của loài mèo và
sau đó dùng miệng cắn lên đầu con mồi cho đến chết mới thả ra.
Ngày
nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn
của loài mèo là cơm. Thế nhưng dù là loài ăn thịt thú rừng cá là loại thức ăn
khoái khẩu nhất của họ hàng nhà mèo. Con người thường cho mèo ăn cá trộn với
cơm. Đây là thứ thức ăn mà mèo thích vì nó có mùi tanh của cá. Loài mèo nhà
cũng ăn thịt thú rừng nhưng thực tế cho thấy rằng nó thích ăn cá hơn nhiều. Mèo
thường đến bên bờ ao uống nước và bắt cá. Cá và chuột luôn là thức ăn được ưa
chuộng nhất của mèo.[cần dẫn nguồn]
Vệ sinh
Một con mèo ở Nara
Mèo được
biết đến nhờ sự sạch sẽ của nó. Loài mèo luôn biết tự bảo vệ cơ thể của nó
tránh những nơi ẩm ướt, nó là động vật không mấy mặn mà gì với tắm, thường nó
không thích lông trên cơ thể của nó bị ướt hay có những tác động của các vật
khác dính lên cơ thể của nó khi nó vô tình đi vào một lùm bụi cây qua một bờ ao
hay rúc vào nơi kín đáo. Tất cả những nơi đó có khả năng gây vết tích lên lông
của nó. Ngay cả con người vuốt tay lên người nó cũng có thể động lại mùi khác
lạ. Chính vì vậy, nó được mệnh danh là một trong các loài thú sạch sẽ nhất.
Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường
thè lưỡi ra và tiết nước bọt vào chân của nó và bôi lên mặt và toàn thân thể.
Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay
của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm vệ sinh cho cơ
thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành
động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó
không có vết bẩn nào cả. Loài mèo là thú vật luôn coi trọng vệ sinh cơ thể.
Môi trường
- Mèo
rừng (hoang dã): Môi trường sống của mèo hoang là ở những nơi rừng rậm, dễ dàng
leo trèo trên các thân cây, bắt mồi kiếm ăn, đặc biệt là kiếm ăn vào buổi tối,
đó cũng là lý do mèo hoang dã không sống ở những nơi có nhiều động vật quá nguy
hiểm.
- Mèo
nhà: trước đây mèo được nuôi để bắt chuột, xua đuổi những con côn trùng,...
nhưng dường như chúng ngày càng giảm khả năng đó, vì môi trường không còn quá
nhiều khắc nghiệt như trước, chúng giờ đây được nuôi với xu hướng làm cảnh
nhiều hơn.
Sinh sản và di truyền
Hai mèo
con chưa mở mắt
Mèo con
từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy,
nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián,
thạch sùng...Mèo thường sống đơn độc. Đến thời kỳ sinh sản mèo đực thường đi
tìm mèo cái. Trong thời gian này mèo cái có bộ lông mới bóng mượt, có mùi và
tiếng kêu đặc biệt để hấp dẫn mèo đực.
Số lượng quá đông
Theo
Hiệp hội bảo vệ động vật Mĩ, mỗi năm có 3 đến 4 triệu chó mèo ở Mỹ được giúp đỡ
để ra đi một cách nhẹ nhàng và số lượng còn nhiều hơn thế đang được nuôi nhốt
trong lồng ở các trung tâm cứu hộ bởi vì số thú vật được sinh ra tăng quá nhanh
so với số hộ gia đình. Việc triệt sản hay thiến vật nuôi có thể giúp làm giảm tình
trạng số lượng quá đông. Hiệp hội bảo vệ động vật địa phương, SPCA's và những
tổ chức bảo vệ động vật khác khuyến cáo cư dân nên triệt sản thú cưng của họ và
nên nhận nuôi thú từ các trung tâm cứu hộ thay vì mua thú cưng.
Các giống
Bài chi tiết: Giống mèo
Mèo hoang
Mèo
hoang là những con mèo đã được thuần hóa nhưng trở về đời sống hoang dã, không
quen thuộc với con người và tự do đi lang thang ở các khu vực đô thị hay nông
thôn, cần phân biệt với mèo rừng là loài mèo chưa được thuần hóa. Mèo hoang có
thể sống một mình, nhưng hầu hết được tìm thấy trong các nhóm lớn, trong đó
chiếm một lãnh thổ cụ thể và thường được kết hợp với một nguồn thực phẩm.
Lịch sử và thần thoại
Bài chi tiết: Mèo trong biểu tượng văn hóa
Các nhà khoa học thường cho rằng Ai
Cập cổ đại là nguồn gốc của việc thuần hóa mèo, dựa vào những bức họa vẽ mèo
nhà ở Ai Cập có niên đại khoảng 3600 năm. Tuy nhiên, năm 2004, một ngôi mộ
thuộc thời kỳ đồ đá mới được khai quật ở Shillourokambos, tại Síp, có chứa bộ
xương của một con người và một con mèo nằm ngay ngắn cạnh nhau. Người ta ước
chừng ngôi mộ này đã được 9500 tuổi, trở thành minh chứng có từ sớm nhất cho
việc quan hệ giữa người và mèo.[Con mèo trong mộ có kích thước lớn và gần giống
loại mèo rừng châu Phi (Felis silvestris lybica), hơn là mèo nhà hiện nay. Sự
khám phá này cùng với những nghiên cứu về di truyền cho thấy có thể mèo được
thuần hóa ở Trung Đông, vùng Trăng lưỡi liềm màu mỡ vào giai đoạn phát triển
nông nghiệp rồi sau đó những người này đã đem mèo đến Síp và Ai Cập.
Ở Ai Cập cổ đại, mèo là loài vật thần
thánh, với truyền thuyết về vị nữ thần Bast thường được miêu tả trong hình dạng
một con mèo, khi chiến tranh thì hóa thành một con sư tử cái. Người La Mã cổ
đại thường được cho là những người đã đưa loài mèo nhà từ Ai Cập đến châu Âu; ở
Roman Aquitaine, một văn bia thuộc khoảng thế kỷ thứ I hoặc II mô tả lại hình
ảnh một bé gái ôm mèo là một trong hai minh chứng sớm nhất về việc mèo xuất
hiện ở La Mã. Tuy nhiên, vì mèo đã hiện diện ở nước Anh vào cuối thời kỳ đồ
sắt, nên có thể mèo đã được nuôi ở châu Âu trước thời Đế chế La Mã. Mèo nhà đã
trở nên phổ biến khắp thế giới trong suốt Thời đại khám phá, vì chúng được đưa
lên những chiếc thuyền buồm để diệt chuột trong khoang thuyền và được xem là
loài mang lại may mắn.
Freyja và mèo của bà
Một số
tôn giáo cổ tin rằng mèo là những linh hồn cao quý, người bạn đồng hành, hay
người hướng dẫn cho con người, và rằng mèo rất thông thái nhưng do không biết
nói nên không thể gây ảnh hưởng đến những quyết định của con người. Tại Nhật
Bản, tượng mèo Maneki Neko là biểu tượng của sự phú quý, giàu có. Còn ở đạo Hồi
tuy không có động vật thần thánh nào, nhưng một vài quyển sách đã ghi lại rằng
thánh Muhammad có nuôi một con mèo cưng tên là Muezza. Thánh yêu mèo đến mức
"Người thà không mặc áo khoác còn hơn là làm phiền một con mèo đang ngủ
trên chiếc áo".
Freyja — nữ thần của tình yêu, sắc đẹp và sự
sinh sôi trong thần thoại Bắc Âu — được miêu tả là thường cưỡi trên một chiếc
xe kéo bởi mèo.
Bên cạnh
đó, nhiều nền văn hóa lại có cái nhìn tiêu cực về loài mèo. Điển hình là niềm
tin về việc một con mèo đen băng ngang đường người nào đang đi thì người đó sẽ
gặp xui xẻo, hoặc chuyện mèo là những phụ tá cho các mụ phù thủy, giúp các mụ
gia tăng công lực. Điều này dẫn đến việc lùng diệt mèo rộng khắp châu Âu trong
thời trung cổ. Chính việc tiêu diệt mèo đã làm tăng số lượng chuột, góp phần
gây ra Cái chết Đen lây lan bởi bọ chét trên người những con chuột bệnh. Việc
tàn sát mèo ở Ypres trong thời Trung Cổ nay được tưởng nhớ bằng lễ hội mèo
Kattenstoet tổ chức 3 năm một lần.
Ở Việt Nam cũng có nhiều người mê tín
rằng nếu mèo đen nhảy qua xác một người mới chết, người đó sẽ hóa thành quỷ nhập
tràng.
Dựa theo một bí ẩn trong nhiều nền văn
hóa, mèo là loài có nhiều mạng sống. Ở nhiều quốc gia, người ta thường cho rằng
mèo có chín mạng, còn tại một số khu vực nói tiếng Tây Ban Nha thì cho rằng mèo
có bảy mạng, riêng trong văn hóa Ả rập và Thổ Nhĩ Kỳ, mèo có sáu mạng. Bí ẩn
này xuất phát từ sự mềm dẻo và nhanh nhẹn của mèo khi thoát khỏi những tình
huống nguy hiểm đe dọa đến tính mạng. Đồng thời còn do mèo thường rơi xuống
chạm đất bằng chân, sử dụng phản xạ theo bản năng để điều chỉnh cơ thể nhằm hạn
chế chấn thương. Tuy vậy, mèo vẫn có thể bị thương hoặc chết khi rơi xuống từ
một độ cao nhất định./.
Sưu Tầm