CHỮ LỄ TRONG NHO GIÁO KHỔNG TỬ (NHO GIÁO TIỀN
TẦN) VÀ CHỮ LỄ TRONG NHO GIÁO ĐỔNG TRỌNG THƯ (HÁN NHO,….HỦ NHO…) MỘT BÊN PHỤC
VỤ XÃ HỘI, NHÂN SINH MỘT BÊN PHỤC VỤ VƯƠNG QUYỀN VÀ CAI TRỊ [Nho giáo trở thành
hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn
năm. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy
"pháp trị".]
ĐỔNG TRỌNG THƯ VỚI NHO GIÁO
(董仲舒)
I.- Sơ lược tiểu sử
Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên (thuộc
huyện Táo Cường tỉnh Hà Bắc hiện nay), sinh năm 179 TCN. Ông xuất thân trong
một gia đình đại địa chủ, thuở nhỏ đã khổ công học tập, nổi tiếng là "ba
năm không ngó tới điền viên" nhằm dốc lòng nghiên cứu “Công dương Xuân Thu
truyện”. Thời Hán Cảnh Đế (156 TCN - 141 TCN) đã nhậm chức Bác sĩ (quan chuyên
giảng dạy về kinh điển của Nho gia). Lúc Hán Vũ Đế (140 TCN -87 TCN) chọn người
hiền lương có học vấn, ông lần lượt vâng chiếu ba lần trả lời đối sách, dâng
vua bài Thiên nhân tam sách nổi tiếng. Vũ Đế đánh giá cao kiến nghị "bãi
bỏ bách gia, độc tôn Nho học", rất mau chóng tiếp nhận ý kiến này, lại bổ
nhiệm ông làm Tướng quốc cho Dịch vương ở Giang Đô. Ông trở thành chuyên gia tư
tưởng của Hán Vũ Đế (Han Wudi).
Trung
tâm tư tưởng là học thuyết Nho giáo, có pha lẫn với thuyết âm dương ngũ hành.
Xây dựng nên hệ thống thần học phong kiến, trong đó thần quyền, quân quyền, phụ
quyền, phu quyền liên kết chặt chẽ với nhau.Sau này do ca ngợi những biến cố
tai dị (sự trừng phạt của thiên nhiên đối với con người), khuyên giải Vũ Đế vì
đã giết hại đại thần thân cận, làm cho Vũ Đế phẫn nộ, ông bị cách chức và bị
nhốt vào ngục. Sau khi được thả ra, ông giữ chức Tướng quốc của Giao Tây vương.
Về già, ông xin cáo quan về nhà, không lưu tâm đến sản nghiệp, chỉ chăm lo viết
sách và lập “học thuyết”.
Ông mất
năm 104 TCN, thọ 75 tuổi. Tác phẩm gồm "Xuân thu phồn lộ", "Đổng
Tử văn tập", "Cử hiền lương đối sách".
II.- Học thuyết, trường phái
Từ Khổng
Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền
Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới
hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội
dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo.
Ở Nho
giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý
chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Đến đời
Hán, Hán Vũ Đế theo ba đề nghị của Đổng Trọng Thư là:
1.- Đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng.
2.- Xây
cất trường học, dạy nhiều học trò, dùng kẻ sĩ để dạy tập tục tốt đẹp cho nhân
dân.
3.- Đặt
nặng vấn đề thi cử để chọn nhân tài, các địa phương có thể đề cử hiền tài ra
giúp nước.
Hán Vũ Đế đã sử dụng học thuyết của
Đổng Trọng Thư, coi là hệ tư tưởng chính thống, là khuôn mẫu của đạo đức xã
hội. Đổng Trọng Thư, tự cho mình là người tiếp tục tư tưởng của phái Nho gia,
nhưng thực tế ông đã xuyên tạc, tiếp thu và khuếch trương những yếu tố duy tâm
trong triết học của của Khổng Tử, Mạnh Tử, của phái “Âm dương - Ngũ hành” và
các trường phái khác nhau để nhào nặn nên thứ học thuyết mới, một học thuyết
mang đậm màu sắc chính trị duy tâm thần bí và khắc nghiệt. Do sự biến dạng cơ
bản của nó nên sau này người ta gọi Nho gia do Đổng Trọng Thư khởi xướng lập
nên là Hán nho.
Từ đó, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Điểm khác
biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống
trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp
trị".
Về tư
tưởng triết học và chính trị: Hai mệnh đề quan trọng nhất trong học thuyết của
Đổng Trọng Thư là “Trời trao chính quyền” và “Trời và người có thể thông quan,
hiểu biết lẫn nhau” (thiên nhân tương dữ).
Ông ra
sức đẩy đến mặt cực đoan, mặt duy tâm trong tư tưởng “Mệnh trời” của Khổng Tử,
mọi hiện tượng tự nhiên xã hội và trật tự của nó đều được xuất phát và sắp đặt
theo ý “trời”, thân thể và ý thức của con người đều do thựơng đế ban cho. Ông
cho rằng mọi hoạt động tốt hay xấu của giai cấp thống trị ở dưới trần thế đều
gây nên những “cảm xúc” vui hay giận của trời, biểu hiện ra những hình thức
“ban ơn” hay “trừng phạt” của trời như được mùa, mưa thuận, gió hòa. . .
Đổng Trọng Thư cũng sử dụng học thuyết
“Âm dương - Ngũ hành” để xây dựng học thuyết duy tâm tôn giáo của mình, vận
dụng vào xã hội. Ông đề ra lý luận xã hội có tính chất thần học cho rằng: trật
tự và quy luật vận động của xã hội là do ý chí của Thượng đế xếp đặt và chi
phối, giai cấp thống trị phải nắm được quy luật ấy để mà cai trị, mọi người
phải biết mà tuân theo cho hợp với ý trời.
Ông đưa ra lý luận “dương thiện, âm
ác”, “dương tôn, âm ti” khẳng định giai cấp thống trị, người quân tử biểu hiện
thế lực “dương”, là sáng suốt, là người lãnh đạo... còn giai cấp bị trị, kẻ
tiểu nhân là biểu hiện của thế lực “âm” là ngu đần, bị động, phục vụ cho thế
lực “dương”; trật tự của tự nhiên “âm dương” không thể thay đổi được, do vậy
trật tự của xã hội hiện hành là hợp ý trời, là hợp lý vĩnh hằng.
Ông dùng cặp phạm trù “khí” “âm dương”
“ngũ hành” để giải thích quy luật vận động phát triển của thế giới và khẳng
định quy luật ấy do trời chi phối và chỉ có thiên tử “con trời-vua” được “Trời
trao cho chính quyền” mới nắm được “Thiên thống” để cai trị dân cho hợp ý trời.
Như vậy chúng ta thấy tư tưởng triết
học của Đổng Trọng Thư trong quan niệm về tự nhiên và chính trị xã hội là duy
tâm tôn giáo, mang màu sắc mục đích luận rõ nét, ông mưu toan kết hợp thần
quyền và vương quyền vào một cá nhân vua, người đứng đầu xã hội, được mệnh danh
là “Thiên tử”.
Về lý luận đạo đức xã hội: Đổng Trọng
Thư xây dựng một hệ thống các phạm trù “tam cương”, “ngũ luân”, “ngũ thường”
làm khuôn mẫu cho mọi hành vi cư xử, giao tiếp, giáo dục, tự trau dồi cá nhân
của mội giai tầng trong xã hội.
Thuyết “Tam cương” của ông cho rằng,
trong quan hệ giữa người với người trong xã hội có ba mối quan hệ là: vua - bề
tôi; cha – con; vợ - chồng. Sau mở rộng ra hai mối quan hệ nữa là: anh - em;
bạn bè thành “ngũ luân”. Thực ra đây là mối quan hệ đã được Khổng Tử, Mạnh Tử
đề cập đến rồi, như Đổng Trọng Thư đã tước đi một số yếu tố có tính nhân đạo,
tiến bộ mà đưa vào quan niệm một chiều khắt khe.
Đặc biệt là với “Tam cương” ông đưa ra
thứ quy tắc đạo đức phi lí, phi nhân bản: “vua xử tội chết thần phải chết nếu
không mắc tội bất trung, cha bảo con chết, con phải chết, nếu không là mắc tội
bất hiếu, chồng bảo vợ phải tuyệt đối tuân theo”. Ông đã dùng thuyết “âm dương”
nhưng bỏ mặt duy vật, nên ông cho rằng đó là
quy luật của tự nhiên và viện đến ý “trời”để biện minh cho học thuyết
đạo đức của mình: “Vua là tượng của “trời”, nên có đức che chở, hướng dẫn; bề
tôi là tượng của “đất”, nên có đức tính chuyên chở, tuân theo; chồng là khí
“dương” nên có đức sinh, dẫn đầu, vợ là thuộc khí “âm” nên có đức phụ trợ, tuân
theo; cha là thuộc “mùa xuân” nên có đức sinh, con là thuộc “mùa hạ” nên có đức
dưỡng, tuân theo” và tất cả là “do trời
định đoạt”.
Thuyết “Ngũ thường” (năm cái thường lý,
thường tình của con người) là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Về mặt tên gọi và nội
dung của nó là “chép lại” của Khổng Tử. Nhưng Đổng Trọng Thư đã giải thích và
vận dụng nó theo mục đích của mình. Ông cho rằng con người phải có đủ “Ngũ
luân” để thực hiện đạo “Tam cương”, và con người mới có đạo “Cương-Thường”.
Thực ra học thuyết về luân lý đạo đức
của Đổng Trọng Thư nhằm mục đích cao nhất là “trung quân”, trung thành tuyệt
đối với nhà vua. Bởi vì mối quan hệ vua-tôi là đứng đầu trong ba mối quan hệ
được coi là rường cột, cơ bản của con người, xã hội. Điều này cho thấy hoàn toàn trái ngược với Khổng Tử, Mạnh Tử.
Về bản
tính của con người: Đổng Trọng Thư chia con người thành ba loại:
- Loại
thứ nhất tình dục rất ít, không cần dạy dỗ cũng thành người tốt đó là “tính
thánh nhân”;
- Loại
thứ hai tình dục quá nhiều có dạy dỗ cũng khó mà được người tốt gọi là “tính
nhỏ mọn”;
- Loại
thứ ba là loại tuy có tình dục nhưng thể là tốt hoặc xấu gọi đó là “bậc trung”.
Ông lập
luận về bản tính của con người là cơ sở lý luận để củng cố đẳng cấp bất bình
đẳng trong xã hội phong kiến.
Như vậy, Nho giáo qua bàn tay “chế
biến” của Đổng Trọng Thư thời Hán so với Nho giáo thời Khổng Tử, thậm chí cả
thời Mạnh Tử là một bước thụt lùi nghiêm trọng.
Chính tính nghèo nàn, xơ cứng của nó đã đẻ ra
một truyền thống học hành thi cử theo kiểu sách vở “Từ chương huấn hổ” và để
lại tấm gương Hiếu - Trung mù quáng của các thế hệ nhà Nho sau này. Nó trở
thành công cụ thống trị tinh thần đắc lực của nhà nước trung ương tập quyền,
chuyên chế của các triều đại phong kiến tiếp sau.
III.- Kết luận:
Triết học Nho giáo của Đổng Trọng Thư
là lập trường triết học duy tâm-bảo thủ. Những cái mà ông đã làm là, hạ thấp
nhân trị, đề cao lễ trị. Vì nhân trị là cốt lõi của Khổng Tử nên ông không thể
loại bỏ hoàn toàn mà dùng nhân trị như một cái vỏ bao bọc lễ trị.
Ông
cũng đã loại bỏ tính dân chủ của Nho giáo nguyên thủy. Dân là chủ bị lờ đi mà
thay vào đó họ đề cao "trời", tạo ra thuyết "thiên mệnh".
Vua là
"thiên tử" (con trời), không nghe theo vua là phản lại trời.
"Ngũ luân" trong Nho giáo nguyên thủy được rút gọn thành "tam
cương": vua-tôi, cha-con, vợ-chồng. Đổng Trọng Thư đã chia tính người
thành ba cấp (trên, giữa và dưới); xây dựng nên hệ thống phong kiến duy tâm
thần học lớn nhất của Trung Quốc. Quan hệ "trung dung" trong ngũ luân
được chuyển thành quan hệ một chiều duy nhất được tóm gọn trong bốn chữ
"trung-hiếu-tiết nghĩa”. Cuối cùng
ông đã thực hành việc hạn chế vai trò của văn hóa sao cho có lợi cho chế độ
phong kiến.
Tóm lại,
Đổng Trọng Thư đã xây dựng nên hệ thống
thần học làm nền tảng cho chế độ phong kiến, trong đó thần quyền, quân quyền,
phụ quyền, phu quyền liên kết chặt chẽ với nhau. Lí thuyết cơ bản là
"thiên nhân cảm ứng", cho rằng Trời là "ông tổ của vạn
vật", là "vua của trăm vị thần”. Trời Người có quan hệ mật thiết với
nhau, con người đúng với danh nghĩa của nó, là phải toàn thiện, hoàn hảo như
Trời.
Nhưng, độc tôn Nho giáo dẫn tới làm
cho Nho gìáo thoái hóa, mất sức sống và sáng tạo, chỉ còn là một bậc thang của
danh và lợi mà thôi. Những nhà chính trị sau nầy cũng vận dụng tư tưởng của Đổng Trọng Thư mà “hạn
chế bớt một số mặt văn hóa, chỉ cho phổ biến cái nào có lợi cho giai cấp thống
trị” mà thôi. Chủ nghĩa duy tâm thần bí
“thiên tử, thiên mệnh” quá lỗi thời, không còn chỗ đứng trong xã hội
ngày nay.
Hai điều
chúng ta có thể áp dụng là, mở nhiều trường học, đào tạo nhiều nhân tài cho đất
nước; thực tâm đề cử, tiến cử người có đạo đức tốt, tài năng tốt ra tham chánh
giúp nước giúp dân.
Thêm
nữa, quan điểm con người là một “tiểu thiên địa” mà ông viết trong Xuân Thu
Phồn Lộ cũng có chỗ cho chúng ta suy nghĩ, vận dụng: “ … Vũ trụ mà không có
người thì vũ trụ không còn hoàn toàn, không thành được vũ trụ nữa. Bởi vì vũ
trụ là một đại hòa điệu của Tam tài: Thiên, Địa, Nhân, nếu mất một yếu tố thì
sự hòa điệu ấy không còn.
Cho nên:
Trời Đất Người là gốc của muôn vật: “Trời sanh ra, Đất nuôi dưỡng, Người làm
nên”.
NGUỒN BÀI ĐĂNG