(Phiên bản có bổ sung từ lời bình cuốn phim
tài liệu khoa giáo: Phố nghề Hà Nội trong dòng chảy thời gian- Đài PT- TH Hà
Nội. Bài có tính chuyên khảo, khá là dài.)
ẢNH HƯỞNG TỪ SỰ DỊCH CHUYỂN VỀ ĐÔNG CỦA DÒNG CHẢY SÔNG HỒNG
Sự chuyển dịch dòng chảy dần sang
hướng Đông của dòng sông Hồng trong hàng chục thế kỷ, đó là một trong những yếu tố tự nhiên góp phần
làm chuyển dịch những phố nghề, phố hàng của đất kinh kỳ, kẻ chợ Thăng Long Hà
Nội trong nhiều thế kỷ.
Đơn cử như phố Hàng Chĩnh xưa nằm sát
bên bờ sông Hồng. Hằng ngày, chum chĩnh, be vại, ang nồi, siêu ấm đất nung từ
các làng nghề Hương Canh, Thổ Hà, Phù Lãng xuôi về tấp vào bốc hàng lên đó rất
thuận tiện. Nhưng khi dòng chảy sông Hồng dần sang hướng Đông, thì việc bốc dỡ
vận chuyện các hàng dễ vỡ ấy lên phố Hàng Chĩnh không còn thuận tiện như trước.
Các thuyền gốm sành lại phải ghé vào đoạn phố Hàng Mắm phía dưới, cách phố Hàng
Chĩnh độ dăm bẩy trăm thước đường để tập kết hàng. Thế là ngoài việc phố Hàng
Mắm xưa có rất nhiều cửa hàng buôn bán đủ các loại mắm từ các thuyền buôn xứ
Thanh Nghệ miền Trung đem ra, lại có thêm các cửa hàng bán đồ gốm đất nung thay
thế dần cho các cửa hàng trên phố Hàng Chĩnh. Bên cạnh bán chum chĩnh, người
phố Hàng Mắm còn bán thêm các loại tiểu sành. Vì thế phố Hàng Mắm có thêm nghề
làm bia đá, ảnh khắc đá phục vụ các gia đình lo việc tang lễ
Nhưng hồn cốt của phố Hàng Mắm vẫn là
các cửa hàng bán mắm.Chủ yếu là mắm tôm, mắm cá. Đó là nguồn chất đạm chủ yếu
trong các bữa ăn của người Việt truyền thống. Những năm thuộc thập niên 60 của
thế kỷ trước, khi tôi còn thơ bé, từ nhà ở đầu phố Nguyễn Hữu Huân (tức phố Bắc
Ninh rồi phố Phan Thanh Giản cũ) đi học tại trường Nguyễn Huệ trên phố Hàng
Tre, khi đi qua phố Hàng Mắm, vẫn phải chạy thực nhanh vì một đoạn phố vẫn sặc
mùi mắm. Rất sợ. Sau mới hết dần các
hàng bán buôn mắm từ khi nào chả rõ.
Tôi còn giữ tấm băng ghi hình tư liệu
về một bà nữ y tá tham gia đội quân Quyết tử Hà Nội thời 60 ngày đêm Toàn quốc
kháng chiến năm 1946. Đó là bà Nguyễn Thị Hạnh. Bà chính là con gái một gia
đình cự phú chuyên buôn bán mắm lâu đời nhà ở số 6 phố Hàng Mắm. Sau này bà lấy
chồng rồi sinh sống ở ngôi nhà cổ 53 phố Hàng Bạc ngày xưa cũng đã được sinh ra
trong một ngôi nhà thuộc phố Hàng Cót, cái thời mà phố vẫn còn đôi ba hàng buôn
bán cót. Họ thường trải những tấm cót đan từ nứa tước dài rộng khắp trên hè
phố. Bây giờ nhiều bạn trẻ nghe nói đến “cót”, còn chả hiểu “ cót” là gì nữa.
Xin thưa, đó là những tấm phên lớn đan từ nứa chẻ. Chúng rất dài rộng. Người
nhà nông mỗi mùa gặp thường mua cót về quây thành những chiếc thùng lớn cao
ngang đầu người để đựng thóc sau khi gặt đập phơi khô. Cót thường được dùng làm
phên che, hay trần nhà cho những ngôi nhà tạm của người nghèo. Sau này, cót
thường được dùng lót dưới các tấm bê tông đổ trần trong các ngôi nhà kiên cố.
Đôi khi nhà xây lâu ngày, một đôi tấm vữa trần rụng xuống, người ta nhìn lên
vẫn thấy các vết hằn chéo qua chéo lại in trên cốt bê tông, là dâu vết của những tấm cót lót trần cũ.Phố
Hàng Muối kế bên thì chả còn hàng muối nào đã lâu, như từng nghe chuyện bà
ngoại tôi kể thời trước. Phố Hàng Muối san sát các vựa muối. Muối chất cao quá
đầu người. Trời nồm đi dưới lòng phố cứ gọi là nhớp nháp kinh hoàng. Và phố Hàng Tre khi ấy cũng chả thấy còn hàng
bán tre nào nữa. Khi xưa thì trên phố toàn những là tre, nứa, bương, vầu ngổn
ngang từ các vùng rừng núi chuyển về cho
dân Kẻ Chợ xây nhà, dựng cửa. Phố Hà Nội ngày xưa đa phần là nhà tre lá, gỗ
lạt. Người ta còn dùng tre nứa đan bồ, đan cót trên các phố Hàng Bồ, Hàng Cót.
khi xưa. Nhà sử học Lê Văn Lan; (Van Lan Le)
https://www.facebook.com/vanlan.le.397?
Hay như khi xưa phố Hàng Bè
chính là nằm bên bờ sông Hồng, tầu thuyền, bè mảng tấp nập suốt đêm ngày. Sau
dòng chảy sông Hồng dịch xa, Phố Hàng Bè dần thành bờ bãi, tàu thuyền, bè mảng
không còn chỗ ghé lại , một đoạn phố Hàng Bè lại trở thành phố Hàng Cau khô là
nơi tập kết buôn bán cau khô. Sau này, theo thời gian, việc buôn bán cau
mai một, do phong tục ăn trầu ở Hà Nội và các vùng ven không còn thịnh hành như
trước. Ngày xưa, nhà văn Nhất Linh thuộc Tự Lực Văn Đoàn cũng sinh sống tại một
ngôi nhà trên phố Hàng Bè. Bà vợ nhà văn có một cửa hàng buôn bán cau khô rất
lớn. Sau năm 1954, gia đình nhà văn chuyển vào Sài Gòn sinh sống và bà vợ nhà
văn vẫn giữ nghề buôn bán cau khô tại một cửa hiệu bên cạnh chợ An Đông cho đến
tận sau ngày thống nhất đất nước năm 1975.
Việc lấp hồ Hàng Đào cũng đã làm hình
thành mấy dẫy phố mới nay gọi là Đinh Liệt, Gia Ngư.
Đặc biệt phố Cầu Gỗ được gọi theo tên
cây Cầu Gỗ nối 2 hồ Hoàn Kiếm và hồ Hàng
Đào
PHỐ NGHỀ HÀ NỘI DỊCH CHUYỂN TRONG THỜI PHONG KIẾN
Ca dao cổ có bài:
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giầy
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Than
Hàng muối, Hàng Mắm, Hàng Ngang, Hàng Đồng
Hàng Chĩnh, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bút, Hàng Tre
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
Quanh đi tới phố Hàng Da
Trải xem đường phố thật là vui thay
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lịch sử,
văn hoá, xã hội của Việt Nam thì những phố phường Hà Nội cổ là một thể cộng
đồng phức hợp cả về mặt chính trị tức là
mặt tổ chức hành chính, về mặt kinh tế, tức là các hoạt động nghề nghiệp, sản
xuất, buôn bán và về mặt văn hoá, nếp sống sinh hoạt ứng xử của cư dân. Đặc trưng lớn nhất của phố cổ Hà Nội chính là
những phố nghề.
Khái niệm về phường được coi là xuất
hiện trong lịch sử Việt Nam, ước đoán là vào thời Bắc thuộc. Vào năm 1223, vua
Trần đã theo lệ trước, chia Thăng Long ra làm 61 phường, vào thời Lê, kinh
thành đã định hình 36 phường. Mỗi phường chia làm hai bên tả, hữu, dọc theo một
trục đường chính. Vì thế, có vị khách phương Tây thời ấy làm 72 phường. Trong
sách Dư địa chí, Nguyễn Trãi thường nhắc đến tính chuyên nghề của các phường
này. Ông viết: “Phường Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, đồ đài, mâm võng, gấm trìu
và dù lọng. Phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Tả Nhất làm quạt, phường Đường
Nhân bán áo diệp y ”…
Sự xuất hiện và định hình các phường
phố chuyên nghề của kinh đô Thăng Long đã diễn ra dần dần theo thời gian, phụ
thuộc vào yêu cầu phát triển của đời sống, sản xuất, giao lưu, buôn bán và các
sinh hoạt văn hoá, tinh thần còn mang đậm chất làng quê Việt Nam.
Ở kinh thành, tầng lớp vua chúa, quan
lại và học trò, kẻ sĩ chiếm số lượng không lớn, còn lại đa số
nhân dân thuộc tầng lớp nông, công, thương. Trong đó, bộ phận thợ thủ
công, thương nhân chính là yếu tố chủ thể của cả đô thị Thăng Long, Hà Nội.
Bắt đầu từ đời Lý, sang đời Trần, đến
đời Lê rồi sang đến thế kỷ 17-18, vào đời Nguyễn thế kỷ 19, làn sóng di cư của
các hiệp hội thủ công từ các làng nghề chuyên nghiệp thuộc các vùng lân cận về
hành nghề tại Kẻ chợ đã ngày một tăng cao. Một học giả phương Tây tên là
Đăm-pi-ơ khi đến Kẻ Chợ vào năm 1886 đã viết: “Chúng ta có thể gặp ở đây người thuộc rất nhiều nghề, tỷ như thợ đóng
móng ngựa, thợ sơn, người đổi bạc thợ làm giấy, thợ tráng men, thợ đúc chuông
và những dạng thợ thủ công khác.
Nguồn gốc của những người thợ này một
phần là dân bản xứ lâu đời của một số làng chuyên ven đô và phần lớn là từ các
làng quê chuyên nghệ, nằm trong vùng đồng bằng trung du bắc bộ, bên cạnh các
triền sông: sông Hồng, sông Đáy, sông Thái Bình sông Cầu, rất thuận lợi cho
việc giao thông luân chuyển.
Phương thức di cư hành nghề phổ biền
là sau khi người làng học được kỹ thuật chuyên môn do vị tổ nghề trong làng để
lại, đến những dịp thuận tiện, họ hoặc là được vua chúa vời lên phục vụ cho nhu
cầu của hoàng cung. Hoặc là theo nhau kéo lên kinh đô mở cửa hàng, cửa hiệu.
Trước là bán buôn các mặt hàng truyền thống đem từ quê hương lên. Sau dần, họ
vừa buôn bán vừa tổ chức sản xuất tại chỗ cho thuận tiện. Từ đó hình thành các
phường phố chuyên nghề.
như nghề đúc đồng ở Ngũ Xá và buôn
bán hàng đồng ở phố Hàng Đồng dọc và ngang, là do người dân ở 5 làng nghề đúc đồng lâu đời của các
tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh tụ hội về. Trong đó, nổi tiếng là dân các làng Hè (Đông
Mai), Bưởi (Đại Bái), Nôm (Đề Cầu). Làng Rồng, làng Dí Thượng, làng Dí Hạ (Nguyệt Đức) có nguồn gốc ở xứ Kinh Bắc
và Sơn Nam. Nhà ngoại tôi vốn gốc gác xa
xưa ở làng nghề đúc đồng Dí Thượng, Nguyệt Đức, Thuận Thành, Bắc Ninh. Từ đầu
thế kỷ 20, họ tộc định cư hẳn trên bán đảo Ngũ Xã bằng chính nghề đúc đồng rồi
buôn bán đồ đồng. Sau ông bà ngoại tôi chuyển về cư ngụ tại phố Hàng Đồng và mở
thêm cả gian hàng đồ đồng trên chợ Đồng Xuân nữa. Sau này, chính quyền mới cấm hành nghề sản
xuất, buôn bán đồ đồng, mới đành thôi. Cậu mợ và các em tôi còn ở nhà 38 phố
Hàng Đồng cho mãi tới sau khi mợ tôi khuất núi vào những năm đầu thế kỷ 21 mới
chuyển đi;
Ca dao cổ còn miêu tả phố Hàng Đồng
xưa như sau:
Khoan khoan chân trở gót hài
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi
Hàng Đồng
Biết bao của báu lạ lùng
Kìa đồ bát bảo, lại lồng ấp hương
(Ảnh ST trong bài:1- Phố Hàng Đồng cổ- 2 Phố
Hàng Đồng cũ 3- Phố Hàng Đồng hiện tại)
Dân làng Quất Động và các làng xung
quanh thuộc huyện Thường Tín- Hà Tây đem nghề thêu ra sinh sống ở kinh thành,
lập nên phố Hàng Trống và các phố lân cận bên bờ hồ Gươm.
Không những đem theo nghề nghiệp cổ
truyền, họ còn đem theo luôn những tập quán sinh hoạt văn hoá tinh thần của quê
hương ra kinh thành. Đơn cử như tục thờ
vọng tổ nghề hay thành hoàng làng ở quê ngay tại kinh thành. Dân thợ thêu Quất
Động lập đền thờ ông tổ Lê Công Hành tại
ngõ Yên Thái, gọi là “Tú đình thị”- đình
thợ thêu. Dân nghề tiện Nhị Khê hành nghề ở phố Tố Tịch và lập đền thờ tổ nghề ở phố hàng Hành. Dân làng
Châu Khê đúc bạc lập đền thờ Kim Ngân ở phố Hàng Bạc, dân làng Chắm đóng giầy
lập đền thờ tổ nghề ở ngõ Hài Tượng,
Dân Ngũ Xã lập đền thờ tổ nghề đúc đồng ở bên hồ Trúc Bạch …
Mối quan hệ của dân cư trong mỗi
phường phố cổ của Hà Nội khá chặt chẽ. Trong đó có cả mối quan hệ huyết tộc,
đồng hương, đồng nghiệp, chủ thợ, bạn hàng. Sau khi lên kinh thành làm ăn phát
đạt, họ thường gửi tiền của về tậu vườn, tậu ruộng ở bản quán, đợi khi về giá
sẽ về quê hưởng thú điền viên, nhường cửa hiệu nhà xưởng trên phố cho các lớp
con cháu hậu sinh. Và cái vòng luân chuyển cứ thế tiếp diễn cho đến tận những
năm cuối thế kỷ 20. Sang đến thế kỷ 21 thì vẫn còn rơi rớt lại một đôi nhà.
Vào thời hậu Lê, một học giả phương Tây là
Baron khi nghiên cứu về Bắc kỳ cũng nhấn mạnh đến tính chất chuyên nghề của các
phường thủ công buôn bán và sự liên hệ của nó với các làng quê gốc. Ông viết:
“Tất cả các vật phẩm khác nhau bán trong thành phố này được dành riêng cho từng
phường, mới thi lại phụ thuộc vào hai hay nhiều làng. Và dân chúng làng xã này
được đặc quyền mở các cửa hiệu ở đó.”
Đến cuối thế Kỷ 19, một phóng viên
phương Tây đã miêu tả diện mạo của phố phường Hà Nội như sau: “Mỗi căn nhà là
một cửa hiệu. Những gian bày hàng đưa chiều sâu của cửa hiệu xuống tận lề
đường. Mỗi loại hàng hoá đều có phố riêng. ở phố Bát Sứ, tất cả đều đỏ. Rồi đến
Hàng Đồng lấp lánh ánh kim vàng chói.
Phố Hàng Thêu, phố Hàng Tranh. Tiếp theo là phố Hàng Trống, màu sắc tươi vui,
sặc sỡ.
Hà Nội 36 phố phường
Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen
Trong những phố buôn bán thủ công đó,
chen chúc những cửa hiệu theo kiểu nhà ở cửa hàng. Ngoài ra phải kể đến các cửa
hàng, cửa hiệu của người hoa, người ấn, người Pháp, người Bồ Đào Nha ngày càng
mọc nhiều hơn trong khu phố cổ và phố cũ
Hà Nội
Phố chợ- chợ phố- đó là một đặc điểm
quan trọng của phố phường Hà Nội xưa. Bởi thế, từ đời Lê, Kẻ Chợ đã trở thành
một tên gọi quen thuộc trong dân gian khi nói tới kinh đô nước Việt. Ca dao Hà
Nội thời Nguyễn có những câu:
Đua chen trong chốn thị trường
Hiệu buôn chủ khách, cửa hàng người Nam
Bầy ra đủ các thứ hàng
Hàng Tây, hàng Nhật, lại hàng Trung Hoa
PHỐ NGHỀ HÀ NỘI CHUYỂN DỊCH TRONG THẾ KỶ 19 VÀ 20
Nhà Nguyễn hình thành đã đặt kinh đô
tại Huế và chuyển đất kinh kỳ Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Việc xây dựng
lại Thành cổ Hà Nội với quy mô nhỏ hơn
Hoàng thành Thăng Long thời nhà Lê đã làm dư ra nhiều khoảng đất trống rộng lớn
ở phía Đông, phía Nam và phía Tây. Ở phía Đông, khu vực phố Cửa Đông, Đường
Thành và Phùng Hưng hiện thời và các phố
lân cận được gọi là đất Tân Khai . Và rất nhanh chóng, việc buôn bán, hành nghề
thủ công trong khu phố cổ, khu các phố
Hàng, đã lan tỏa nhanh chóng sang khu
đất Tân khai này, hình thành nên các phố Hàng Gà, Hàng Cót, Lò Rèn, Hàng Vải,
Hàng Mã. Đoạn cuối phố Hàng Mã khi xưa gọi là phố Hàng Đồng dọc, vì dân phố
Hàng Đồng dọc mở rộng kinh doanh đồ đồng sang phố Bát Sứ, thì sau đó chính
quyền mới đã cắt một đoạn phố Bát Sứ thành phố Hàng Đồng ngang, là phố hiện
tại . Rồi ghép phố Hàng Đồng dọc vào cùng phố Hàng Mã để thuận tiện việc quản
lý. Cũng lạ là sau đó, người buôn bán hàng đồng ở phố Hàng Đồng cũ( bị ghép đổi
vào phố Hàng Mã) cũng lại phiêu bạt đi đâu hết, hay di chuyển sang phố Hàng
Đồng hiện tại cũng nên;
Người Pháp khi quy hoạch, xây dựng,
phát triển đô thị Hà Nội đã thực hiện một cuộc cải biến khá lớn. Tuy nhiên hầu
như khu phố cổ vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Nhưng việc lấp một đoạn lớn
dòng sông Tô Lịch từ khu vực cửa sông , đoạn phố chợ Gạo, chạy qua các phố Hàng
Cá, Hàng Rươi, sang Hàng Lược, và đoạn hào thành cũ Hà Nội phía Bắc (nay là phố
Phan Đình Phùng) đã là một sự chấn động lớn. Trước đó, do có dòng Tô Lịch nối
từ sông Hồng vào, khu vực phố Hàng Cá, Hàng Rươi chính là một ngôi chợ buôn
bán thủy sản vô cùng sầm uất của dân Kẻ
Chợ. Và xung quanh đó là các phố nghề, phố Hàng chuyên dụng: Hàng Đường, Hàng
Đồng, Thuốc Bắc, Hàng Cân…
Như vậy, chợ hoa Cống Chéo, Hàng Lược
chỉ hình thành sau khi hoàn thiện việc lấp sông Tô Lịch. Trước đây chợ hoa cổ
của Hà Nội nằm ở khu vực Yên Quang, Yên Phụ , là cửa ngõ của các làng hoa cổ Hà
Nội ven hồ Tây. Ca dao cổ có câu:
Phiên rằm chợ chính Yên Quang
Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua
Mãi đến tận những năm cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20, làn sóng di cư của các thôn quê ra Hà Nội Vẫn còn tiếp diễn.
Song cho đến lúc này, đất cát trong các thành phố nội thị đã quá chật hẹp, dân
làm nghề không có điều kiện tụ hội một chỗ mà hành nghề như cha ông nên phải
phân tán ra nhiều địa điểm khác. Trường hợp
thợ rèn làng Canh Hoè Thị là một ví dụ- Ngoài địa điểm định cư ban đầu ở
phố Lò Rèn, nơi còn lưu đền thờ tổ nghề, nơi còn lưu đền thờ tổ nghề, họ đã tản
ra sinh sống, hành nghề ở Sinh Từ ( Nguyễn Khuyến) và một số cửa ô khác như Kim
Mã, Cầu Dền, với các cửa hàng đồ sắt vẫn còn tồn tại, phát triển cho tới giờ
đây. Dao kéo Sinh Tài một thời nổi tiếng nay vẫn còn cửa hàng nơi đầu phố Nguyễn
Khuyến. Dân nghề sắt các phố kể trên là đồng hương, họ hàng với nhau khá là
đông;
Song cũng cho tới giờ đây, do sự biến
động của thời cuộc cũng như biến động khác trong đời sống hàng ngày, phố phường
Hà Nội cũng đã có nhiều thay đổi. Một số tên phường phố xưa đã không còn, bây
giờ, thế hệ trẻ Hà Nội không hề biết đền
các phố như Hàng Lọng, Hàng Trứng, Hàng Đũa, Hàng Đàn, Hàng Thịt, Hàng Cau,
Hàng Chè …. như khi xưa chúng ta đã một
thời tồn tại. Hoặc không thể hiểu tại sao, các phố Hàng Tre, Hàng Mắm, Hàng
Bài, Hàng Quạt, Hàng Kèn, Hàng Vải, Hàng Gà không không còn bày bán
những mặt hàng như là tên của phố.
Phố hàng Dầu trở thành phố bán giầy
dép, phố Thợ Nhuộm trở thành phố bán quần áo…Trên bán đảo Ngũ Xã cũng không còn
bất cứ một lò đúc đồng nào . Tất cả đều đã dịch chuyển sang các vùng ngoại ô để
tránh làm ô nhiễm môi trường dân cư nội thị. Lớp trẻ trên phố theo các nghề làm
ăn khác cũng nhiều. Phát đạt nhất là nghề bán hàng ăn uống. Lý do cũng bởi vì
làng Ngũ Xã xưa khá giả, cỗ bàn nổi tiếng đặc sắc. Con cháu các gia đình kế
thừa truyền thống mà làm kế sinh nhai trong thời buổi mới;
Đương nhiên, không phải vì vậy mà các
phường nghề cổ truyền ở Hà Nội đã mất hết. Chỉ có một số nghề mà sản phẩm của
nó không còn thích hợp với nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người dân đô thị mới
không còn tồn tại nữa. Ví như phố Hàng Lọng, phố Hàng Nón, phố Hàng Hài…Một số
nghề khác thì chỉ chuyển dịch về mặt địa lý theo những yêu cầu của cuộc sống cư
dân và những điều kiện kinh tế xã hội mới. Phố Hàng Dầu khi xưa bán các loại
dầu ăn, dầu đốt, nay lại chuyển sang bán giày dép, thay cho vai trò của phố
Hàng Giầy rồi phố Hàng Điếu một thời. Giờ thì trên phố Hàng Điếu chả còn bán
điếu cày điếu bát hút thuốc của các cụ xưa. Sau một thời bán giày dép, phố Hàng
Điếu lại trở thành phố bán các loại quà đặc sản của Hà Nội như chè mứt, bánh
kẹo… Mà nổi tiếng nhất là nhà Ninh Hương ở số nhà 22 trên phố.
Đoạn phố cuối phố Hàng Vải khi xưa gọi là phố Hàng Cuốc, vì xưa chỗ ấy
toàn bán cán cuốc và lưỡi cuốc sau hợp nhất thành phố Hàng Vải và nay có thể
gọi là phố Hàng Tre chăng? Vì từ cán cuốc tre nay phát triển thêm các đồ tre
như cần câu, thang tre… Nói thế là nói cho vui đấy thôi. Thời gian sao có
thể đổi ngược.
Còn cả phố Hàng Vải ngày xưa còn bao
hàm cả phố Hàng Vải trắng (vải mộc), phố Hàng Vải thâm (tức vải đen) và phố
Hàng Mụn (tức là vải vụn, dùng làm mụn vá quần áo). Nay lớp trẻ làm sao biết
đến quần áo vá, thậm chí vá chằng vá đụp của người nghèo xưa kia;
Một đoạn phố Lò Rèn khi xưa gọi là
phố Hàng Bừa, vì là chỗ bán lưỡi bừa và bừa đất. Lứa trẻ Hà Nội giờ đây nhiều
người chả biết cái bừa là cái gì nữa cùng nên. Bừa là dụng cụ để làm tơi đất
sau khi người nông dân cày ruộng thành những luống đất to. Và cả cày và bừa đều
do trâu bò kéo và người nông dân điều
khiển lưỡi cày, lưỡi bừa theo sau con trâu con bò.
Trong thời kỳ hiện tại, Hà Nội đã
xuất hiện thêm nhiều phố nghề mới hầu
đáp ứng nhu cầu phát triển của cư dân Hà Nội. Phố hàng may mặc Khâm
Thiên, phố vật liệu xây dựng Cát Linh, phố đồ gỗ Đê La Thành, Phố ăn uống Tống
Duy Tân, Cấm Chỉ, phố đồ chơi Lương Văn Can. Ngay như phố Lương Văn Can trước
khi chuyển thành phố đồ chơi, đã được gọi là phố áo dài với hàng chục cửa hiệu
áo dài được mở bởi đa phần là người làng
nghề áo dài Trạch Xá, Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Tây cũ. Sau do nghề may đo áo dài
không phất bằng nghề buôn bán đồ chơi, nên nhiều cửa hàng lại chuyển đổi
dần … Chắc rồi sự dịch chuyển, biến đổi
và phát triển của các phố nghề Hà Nội vẫn đang còn diễn tiến không ngừng theo
thời gian và xu thế tiêu dùng của xã hội.
Tuy nhiên, thật may mắn cho Hà Nội là
cho đến ngày hôm nay vẫn còn lại một số phố phường với các nghề cổ truyền mang
dấu ấn đặc trưng theo tên gọi cũ. Đó là Hàng Bạc, Hàng Đồng, Hàng Thiếc, Lò
Rèn, Hàng Mã, Hàng Mành, Hàng Chiếu, Hàng Đường, cho dù là chính những đường
phố cổ hiếm hoi này cũng phải trải qua bao nhiêu biến đổi thăng trầm.
Trong tương lai, thành phố Hà Nội sẽ
còn mở rộng, phát triển và chắc chắn vẫn còn nhiều biến đổi. Song, vẫn luôn ước
sao chúng ta sẽ vẫn còn lưu giữ được những gian
bảo tàng phố cổ phường xưa vô cùng quý giá cho hậu thế mai sau.
Ghi chú: Trong bài có sử dụng tư liệu
của các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Hà Nội: Nguyễn Văn Uẩn, Nguyễn Vinh Phúc, Hoàng Đạo Thúy, Nguyễn Thừa Hỷ, Lê Văn
Lan... Tuy nhiên bài viết vẫn chưa thể
chuyên sâu. Rất xin được lượng thứ và bổ cứu;
Mới
Cũ
Cổ
Ảnh minh họa lấy trên mạng. Phố
Hàng Đồng qua 3 giai đoạn: Cổ- Cũ và Mới
Vũ Thị Tuyết Nhung 0913219447