Thép đã tôi thế đấy
Chương VI
Ngôi nhà
to cổ kính chỉ có một cửa sổ che màn the là thắp đèn sáng mà thôi. Ngoài sân,
con chó Tơ-rê- do bị xích sủa lên khàn khàn.
Đang
thiu thiu ngủ, Tô-nhi-a nghe mang máng có tiếng mợ nói nhỏ: "Chưa, em nó
chưa ngủ đâu, Li- da cứ vào đây".
Bạn đến,
chân bước nhẹ nhàng, trìu mến ôm choàng lấy Tô-nhi-a, xua tan hết vẻ ngái ngủ ở
cô.
Tô-nhi-a
cười mệt mỏi:
- Li-da
đến chơi hay quá, nhà mình hôm nay có vui lớn: cậu mình bị mệt hôm qua lên cơn
sốt nặng, hôm nay đã dứt cơn, suốt ngày ngủ yên. Còn mình và mợ mình thì cũng
nghỉ, vì suốt mấy đêm nay không chợp mắt. Li-da có tin gì kể đi?
Tô-nhi-a
kéo bạn lại ngồi cạnh trên đi-văng.
- Ồ, tin
thì rất nhiều, nhưng có một tin mà mình chỉ có thể kể riêng với Tô-nhi-a thôi.
- Li-da vừa nói vừa cười, mắt tinh nghịch liếc nhìn về phía mẹ Tô- nhi-a.
Mẹ
Tô-nhi-a cũng mỉm cười. Bà là một người đàn bà đoan trang, đi đứng nhanh nhẹn
như còn con gái, tuy năm nay đã ba mươi sáu tuổi; bà có cặp mắt màu tro thông
minh, khuôn mặt đầy nghị lực, không đẹp sắc sảo nhưng có duyên.
Nghe
Li-da nói, bà kéo ghế lại gần đi-văng, nói đùa: "Được, bác bằng lòng để
hai cô ngồi nói chuyện riêng với nhau. Song trước hết cháu hãy kể cho bác nghe
những tin tức ai cũng nghe được đã nào?"
- Tin
thứ nhất, Tô-nhi-a ạ, là chúng mình sẽ không đi học nữa. Hội đồng nhà trường đã
quyết định cấp bằng tất nghiệp cho học sinh lớp bảy. - Giọng Li-da kể càng phấn
khởi. - Mình mừng lắm. Mình đã ngấy cái món đại số và hình học lắm rồi ! Mà học
những cái ấy làm gì kia chứ? Bọn con trai thì đã đành, chúng nó có thể sẽ học
lên nữa, tuy chúng nó cũng chẳng biết sẽ học ở đâu và bao giờ. Chỗ nào cũng là
mặt trận đánh nhau. Sợ thật! Nhưng còn chúng mình, chúng mình rồi sẽ đi lấy
chồng cả. Mà đời làm vợ thì có cần gì đến đại số đâu? - Nói đến đây, Li-da cười
phá lên.
Mẹ
Tô-nhi-a ngồi với hai cô một lát, rồi trở về phòng mình.
Li-da
nhích lại gần Tô-nhi-a, lấy tay quàng cổ bạn, rỉ tai kể lại cuộc xô xát mà
Li-da đã được mục kích ở ngã tư ngoài phố.
-
Tô-nhi-a thử tưởng tượng mình đã ngạc nhiên chừng nào khi nhận ra người đánh
tháo cho tù là... Tô-nhi-a thử đoán xem ai?
Tô-nhi-a
nghe chuyện rất ham, thấy hỏi thì nhún vai tỏ vẻ không biết.
Li-da
buột miệng:
- Người
đó là Ca-rơ-sa-ghin.
Tô-nhi-a
nghe giật nảy mình, cúi xuống, đau đớn, như hỏi lại chính mình:
-
Ca-rơ-sa-ghin à?
Li-da
muốn thử xem Tô-nhi-a nghe tin có lao đao không, bây giờ đã biết rõ kết quả
rồi, thích chí liền kể sang chuyện bất hòa giữa cô và Vích-to.
Li-da
mải kể chẳng để ý gì đến vẻ mặt Tô-nhi-a lúc đó đã tái đi ngón tay thon thon
dứt dứt nếp áo cộc tay màu xanh. Li-da đâu có biết lúc này trái tim Tô-nhi-a se
lại bao nhiêu lo lắng. Li-da không tài nào hiểu được vì sao hàng lông mi rất
dày trên đôi mắt đẹp kia lại run rầy những lo âu.
Tô-nhi-a
chẳng nghe gì câu chuyện về thằng quan hai say rượu muốn tiễn Li-da về nhà để
giở trò nữa. Một ý nghĩ duy nhất giày vò Tô-nhi-a: "Vích-to biết tên người
đánh tháo là Pa-ven. Tại sao Li-da lại nói cho hắn biết?" Và bất giác
Tô-nhi-a buột mồm nói to câu đó làm cho Li-da không hiểu ra sao.
- Mình
nói cái gì?
- Sao
Li-da lại đem nói với Vích-to về chuyện "anh Pa-vơ-lu-sa", nghĩa là
về chuyện anh Pa-ven Ca-rơ- sa-ghin làm gì? Vích-to có thể sẽ tố cáo...
- Không
đâu! Mình tin là không, vì nghĩ cho cùng thì Vích-to tố cáo làm gì mới được?
Tô-nhi-a
ngồi phịch xuống, tay ôm riết lấy đầu gối.
- Li-da
ạ, Li-da không hiểu gì cả! Vích-to và Pa-ven thù ghét nhau. Ngoài ra lại còn
chuyện khác nữa... Li-da đã làm một việc rất sai là đã kể cho Vích-to biết tên
người đánh lính là Pa-vơ-lu-sa.
Đến bây
giờ Li-da mới nhận thấy nỗi hồi hộp lo âu của Tô-nhi-a, và tiếng gọi
"Pa-vơ-lu-sa" âu yếm mà Tô-nhi-a buột miệng thốt ra khiến Li-da bỗng
nhiên hiểu hết tất cả những chuyện mà lâu nay Li-da còn mang máng ngờ ngợ.
Li-da
cảm thấy mình có lỗi, nên im bặt, thái độ bối rối. Li-da nghĩ thầm: "Thế
là mình nghĩ không sai! Ngộ thật! Hóa ra Tô-nhi-a đã phải lòng rồi. Phải lòng
ai mới được chứ? Phải lòng một anh thợ tầm thường..."
Li-da
rất muốn hỏi chuyện này, song vì nể bạn lại thôi. Muốn tìm cách làm nhẹ lỗi
mình đối với bạn, cô nắm lấy tay Tô-nhi-a.
-
Tô-nhi-a ơi, Tô-nhi-a lo lắm phải không?
Tô-nhi-a
đang mải nghĩ đi đâu, đáp lại:
- Không,
có thể Vích-to tử tế hơn mình tưởng.
Mỗi bên
theo đuổi một ý nghĩ riêng, câu chuyện không ăn khớp với nhau. Giữa lúc đó thì
Đê-mi-a- nốp đến. Cậu ta là một thiếu niên nhút nhát, vụng về cùng học một lớp
với Tô-nhi-a và Li-da.
Tiễn các
bạn về rồi, Tô-nhi-a còn đứng một mình hồi lâu ngoài cổng. Dựa lưng vào hàng
rào, cô thừ người nhìn đường cái chạy thẳng vào phố như một dải lụa màu sẫm.
Gió là giống lang thang chơi vơi vô tận, gió nhẹ vật vờ, đến vờn trên má
Tô-nhi-a, gió mang hơi ướt mát lạnh và hương vị hoa cỏ mùa xuân. Xa xa, những
cửa sổ ở các căn nhà trong phố nhấp nháy như những con mắt đỏ đục ngầu giương lên
nhìn, báo hiệu điều gì chẳng lành. Dưới kia là phố xá đối với cô xa lạ. Dưới
phố ấy, dưới một mái nhà ở phố ấy, người bạn cứng đầu cứng cổ của cô vẫn còn
chưa hay tai nạn sắp giáng xuống đời anh. Và có thể, anh cũng đã quên cả
Tô-nhi-a rồi. Bao nhiêu ngày đã trôi qua từ lần gặp cuối cùng. Lần ấy, Pa-ven
xử sự không đúng, nhưng dù sao cũng là chuyện đã qua, Tô-nhi-a đã quên bẵng đi
rồi. Ngày mai, Tô-nhi-a sẽ gặp Pa-ven và tình bạn sẽ nối lại, tình bạn ấy thật
dạt dào êm ái. Tô-nhi-a tin lắm, tình bạn sẽ nối lại. Chỉ cầu cho đêm nay đừng
xảy ra chuyện gì tai hại. Nhưng sao đêm nay rờn rợn nơm nớp dường như bóng đêm
ẩn nấp, bóng đêm đang đứng rình... Trời lạnh.
Tô-nhi-a
nhìn lại con đường lần nữa, rồi bước vào nhà. Nằm cuộn trong chăn, cô ngủ thiếp
đi với ý nghĩ: chỉ cầu cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai hại!...
Sáng
tinh sương, cả nhà còn ngủ, Tô-nhi-a đã bừng tỉnh dậy. Cô mặc vội quần áo, rón
rén nhè nhẹ đi ra sân để khỏi làm thức giấc người nhà, rồi mở xích con chó lông
xù Tơ-rê-do dắt đi ra phố. Đến trước nhà Pa-ven, Tô-nhi-a dừng chân lại, do dự,
nhưng rồi đẩy cửa bước vào. Con chó chạy trước ngoe nguẩy đuôi...
Cũng vào
sáng nay, từ sớm A-rơ-chom ở dưới làng về đi xe ngựa cùng với bác chủ lò rèn
của anh. Tới cửa, anh xốc bao bột mì người ta trả công cho anh lên vai, rồi
bước vào sân. Bác chủ lò rèn mang những thứ còn lại trên xe, bước theo sau.
A-rơ-chom ném bao bột mì xuống bên cửa để ngỏ, cất tiếng gọi:
- Páp-ca
ơi!
Song,
không có tiếng đáp lại.
Người
thợ rèn thấy thế nói:
- Thì ta
cứ đem vào nhà, còn đứng đây chờ gì nữa!
Xếp mọi
thứ vào bếp đâu đấy, A-rơ-chom bước vào phòng và kinh ngạc đứng đờ người ra:
nhà cửa bị lục lọi đảo lộn lung tung, quần áo cũ vứt bừa ra sàn nhà.
A-rơ-chom
ngơ ngác không hiểu sự thể ra sao, càu nhàu quay lại nói với người thợ rèn:
- Trời
đất! Thế này nghĩa là thế nào?
Bác chủ
lò rèn cũng thêm vào:
- Thật
là loạn.
- Không
hiểu thằng bé rúc vào đâu? - A-rơ-chom bắt đầu phát cáu.
Nhưng
nhà cửa vắng tanh, chẳng có ai mà hỏi.
Bác chủ
lò rèn từ giã ra về.
A-rơ-chom
đi ra sân, tìm kiếm chung quanh.
"Thật
chẳng hiểu câu chuyện ra sao nữa! Cửa thì bỏ ngỏ, mà Páp-ca thì mất hút".
Có tiếng
chân đi đằng sau, A-rơ-chom quay lại.
Con chó
to, tai vểnh, đứng ngay trước mặt. Một cô con gái mà anh không quen từ hàng rào
đi vào nhà.
Cô ta
nhìn A-rơ-chom, giọng hỏi khẽ:
- Em cần
gặp anh Pa-ven.
- Tôi
cũng đang cần gặp nó đây. Trời biết được nó rúc vào đâu! Tôi vừa về, cửa bỏ ngỏ
mà chẳng thấy nó đâu. - Rồi A-rơ-chom hỏi cô ta: - Còn cô đến tìm Pa-ven phải
không?
Câu trả
lời lại là một câu hỏi:
- Anh có
phải là A-rơ-chom, anh ruột Pa-ven không ạ?
- Phải,
cô hỏi làm gì vậy?
Nhưng cô
gái không đáp lại, vẻ mặt lo âu ngước nhìn cánh cửa mở. "Sao mình không
đến từ tối hôm qua? Có lẽ thế rồi ư, có lẽ thế rồi ư?..." - Nghĩ thế, nỗi
lo nặng nề càng đè trĩu cõi lòng Tô-nhi-a hơn nữa.
A-rơ-chom
còn đang ngạc nhiên nhìn cô gái, thì cô ta lại hỏi:
- Anh về
đã thấy cửa để ngỏ, và Pa-ven không có nhà, phải không anh?
- Phải !
Nhưng tôi muốn biết cô đến tìm Pa-ven có việc gì?
Tô-nhi-a
bước lại gần, đưa mắt nhìn chung quanh, rồi nói với A-rơ-chom, giọng bồi hồi:
- Em
không biết chắc lắm. Song nếu Pa-ven không có nhà tức là đã bị bắt rồi.
A-rơ-chom
giật bắn mình, hốt hoảng:
- Bị bắt
vì sao cơ?
Tô-nhi-a
nói:
- Ta đi
vào trong nhà nói chuyện.
A-rơ-chom
im lặng, nghe Tô-nhi-a kể. Khi Tô-nhi- a đã kể tất cả những điều cô biết,
A-rơ-chom thất vọng. A-rơ-chom tức bực chửi đổng lên:
- À thật
là lũ khốn nạn ! Bọn chó chỉ chực có thế !. .. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao
trong nhà bị lục tung lên như thế. Ma quỷ đâu đã dẫn thằng bé vào câu chuyện
này... Bây giờ không biết tìm nó ở đâu cho thấy? Còn cô, cô là ai nhỉ?
- Em là
con gái ông kiểm lâm Tu-ma-nốp. Em có quen Pa-ven.
- À à -
A-rơ-chom kéo dài mãi tiếng "à". - Đây, tôi mang bột mì về cho nó ăn
thêm một chút, thế mà bây giờ thì như vậy đấy...
Hai
người lặng lẽ nhìn nhau.
Lúc chào
A-rơ-chom ra về, Tô-nhi-a dặn khẽ:
- Em về
đây. Có lẽ anh sẽ tìm thấy Pa-ven. Chiều nay em sẽ đến, anh cho em biết tin về
anh ấy.
A-rơ-chom
im lặng gật đầu.
*
Con
nhặng gầy còm thức giấc ngủ mùa đông bay vo ve ở góc cửa sổ. Một cô gái nông
dân chống tay vào đầu gối, ngồi ở mép chiếc ghế dài đệm đã mòn trơ, mắt cô thờ
thẫn nhìn xuống sàn nhà nhớp nháp.
Lão giám
binh ngậm bên mép một điếu thuốc lá đang nguệch ngoạc viết kín tờ giấy; dưới
hàng chữ "trung úy giám binh thành Sê-pê-tốp-ca" hắn hí hửng ký ngoằn
ngoèo, rồi đóng con dấu tên mình. Có tiếng lộp cộp ngoài cửa, hắn ngửng đầu
lên.
Xa-lô-mư-ga,
tay quấn băng, đứng trước mặt hắn.
Lão giám
binh cất tiếng chào:
- Cơn
gió lành nào đưa cậu đến đây thế?
- Cậu
bảo gió lành à? Một tên ở trung đoàn Bô- gun làm tay tớ gẫy lòi xương ra đây.
Có một
người đàn bà ngồi đấy, song Xa-lô-mư-ga chẳng giữ ý gì, văng tục ngay.
- Thế
cậu về đây chữa hay sao?
- Có
chữa ở bên kia thế giới. Khắp các mặt trận chúng nó uy hiếp quân mình, ngấy
đánh nhau quá rồi.
Lão giám
binh ngắt lời hắn, hất đầu ra hiệu chỉ người con gái.
- Thôi,
chốc nữa ta sẽ nói chuyện.
Xa-lô-mư-ga
ngồi phịch xuống ghế đầu và trật mũ ra, đính huy hiệu đinh ba sơn men: quốc
trưng của "U-cơ-ren dân quốc".
Hắn bắt
đầu nói nhỏ:
- Gô-lúp
phái mình về đây. Sắp có một sư đoàn bộ binh về đây trú quân. Có thể sinh ra
lắm chuyện, mình phải về trước thu xếp. Có thể là "đầu lĩnh trưởng"
sẽ thân hành đến đây, và cùng đi với "đầu lĩnh trưởng" còn có một tay
tai to mặt lớn nước ngoài nữa. Vì thế đừng có ai hở mồm gì về vụ "chất
tươi" hôm trước mà vạ đấy nhé! Còn cậu thì đang viết gì đấy?
Tên giám
binh nhếch miệng chuyển mẩu thuốc lá sang mép kia, đáp lại:
- Tớ vớ
được một thằng nhãi con chết rấp. Cậu nhớ thằng cha Giu-khơ-rai chứ, gã lính
thủy xúi thợ xe lửa chồm lên với chúng mình ấy mà? Cậu biết không, chúng mình
tóm được nó ở ngoài ga đấy.
- Thế
rồi thế nào? - Xa-lô-mư-ga nhích lại gần, chăm chú nghe.
- Thế
rồi thằng Ô-men-sên-cơ, trưởng đồn nhà ga, là một thằng ngu như bò, đưa thằng
cha Giu-khơ- rai sang đây mà chỉ cho một thằng lính giải đi. Vì thế cho nên cái
thằng nhãi con đang bị giam bây giờ nó mới đánh tháo được cho thằng kia giữa
ban ngày ban mặt. Chúng nó tước súng thằng lính của mình, đấm vỡ quai hàm rồi
biến. Thằng Giu-khơ-rai thì mất tích, còn thằng nhãi thì rơi vào tay mình. Hồ
sơ đây, đọc mà xem.
Tên giám
binh ấn cho Xa-lô-mư-ga một tập giấy.
Thằng
này lấy tay trái còn lành lần giở tập hồ sơ xem phớt qua. Xong rồi, hắn nhìn
chằm chặp tên giám binh:
- Thế
cậu chả moi được ở nó cái gì à?
Tên giám
binh bực mình kéo sụp chiếc mũ cát-két tới sát mắt.
- Mình
mất năm ngày trời vất vả với nó rồi đấy. Nó một mực: "Tôi không biết gì
hết. Tôi không đánh tháo cho ai cả". Thật giống giặc lỏi con. Thằng lính
áp giải thì nhận đúng mặt nó rồi, vừa nhìn thấy đã suýt nữa thì đè thằng nhãi
ra chịt lấy cổ. Phải giằng nó ra, vì thằng lính đâu bị Ô-men-sên-cơ cho ăn hai
mươi lăm roi về tội để tù xổng, nên hắn ấm ức cứ muốn nuốt chửng thằng nhãi.
Thôi giữ mãi của nợ ấy cũng chẳng được tích sự gì. Tớ định viết giấy sang bên
tham mưu để xin lệnh cho treo cổ.
Xa-lô-mư-ga
nhổ nước bọt khinh bỉ.
- Mày
lành quá. Phải tay tao thì nó đã phun ra rồi. Mày thật là đồ con nhà thầy tu,
hạng mày không biết cách lấy cung. Giám binh gì mà như là thầy dòng ấy! Mày đã
nện nó ra trò chưa đã?
Lão giám
binh phát cáu:
- Mày
nói thế mà cũng nói được. Bỏ cái lối nói mỉa ấy của mày đi. Tao làm giám binh ở
đây. Yêu cầu mày đừng chõ vào việc của tao.
Xa-lô-mư-ga
thấy tên giám binh sừng sộ thì cười lên ha hả:
- Hà hà!
Thôi xin ông thầy dòng non đừng bốc lên thế mà nổ con ngươi, lòi con mắt. Việc
của mày thôi mặc xác mày. Bây giờ mày nói cho tao biết đào đâu được hai chai
"cay" đây.
Tên giám
binh cũng cười làm lành:
- Cái
món ấy thì có thể được.
- Còn về
thằng nhãi này. - Xa-lô-mư-ga gí ngón tay vào tập giấy. - Cái thằng nhãi này,
nếu mày muốn cho nó tong đời thì chớ nói mười sáu tuổi, mà phải tăng lên mười
tám. Dễ thôi, vòng lại tí râu con số sáu là được không thì trên chẳng duyệt bản
án đâu.
*
Trong
nhà pha có ba người bị giam. Một ông cụ già râu ria xồm xoàm, mặc áo bông rách,
nằm nghiêng trên bục, hai cẳng gầy đét co quắp lại thảm hại trong chiếc quần
vải thô lụng thụng. Cụ bị giam vì tên lính ngụy đóng ở nhà cụ có con ngựa biến
đâu mất. Dưới đất, một mụ nạ dòng, mắt ti hí rất gian giảo, cằm nhọn hoắt, vốn
lầm nghề nấu rượu. Mụ bị kết tội ăn cắp đồng hồ và các thứ đồ quý khác. Ở một
góc dưới khung cửa sổ, Pa-ven ngả đầu trên mũ cát-két nát, nằm gần như bất
tỉnh.
Người ta
đẩy vào nhà giam một cô gái trùm khăn sặc sỡ kiểu nông dân, hai mắt to sợ sệt.
Cô đứng
một lúc, rồi lại ngồi bên mụ đàn bà nấu rượu. Mụ ta đưa mắt xét nét cô từng li
từng tí, rồi hỏi liến thoắng:
- Cô bé
kia cũng vào khám đấy à?
Không có
tiếng đáp lại. Mụ ta vẫn không chịu thôi:
- Sao bị
tóm thế? Có phải bị bắt vì nấu rượu lậu không?
Cô gái
nông dân đứng dậy, nhìn mụ già khó chịu ấy khẽ đáp lại:
- Không.
Tôi bị bắt vì anh tôi.
Mụ kia
cứ hỏi gặng:
- Thế
ông anh làm sao?
Ông cụ
già phải chen vào:
- Cái
nhà mụ kia, thói đâu cứ làm tội người ta như thế? Lòng người ta đang như tan
nát, mà mụ cứ lắm điều, hỏi ra rả.
Mụ kia
phát cáu, quay phắt lại phía bục:
- Ai
khiến ông lên mặt dạy đời thế hả ông lão kia? Tôi có nói với ông đâu mà ông
chen vào?
Ông lão
bực mình nhổ nước bọt.
- Lão cứ
nói đấy. Mụ phải để cho người ta yên chứ !
Trong
nhà giam lại im bặt. Cô gái nông dân cởi khăn quàng trải xuống đất nằm, lấy tay
gối má. Mụ hàng rượu lấy cơm ra ăn. Ông lão ngồi dậy, buông chân xuống đất và
thủng thẳng quấn một điếu thuốc hút. Khói thuốc khét lẹt tỏa khắp nhà giam.
Miệng
còn nhồm nhoàm nhai cơm bỏm ba bỏm bẻm, mụ kia càu nhàu:
- Cái
nhà ông lão kia, không để cho người ta ăn cơm yên nữa. Khét lên lèn lẹt. Hút gì
mà hút lắm thế. Y như cái ống khói !
Ông cụ
chẳng vừa, nói lại:
- Mụ sợ
gầy đi à? Chẳng mấy chốc rồi cửa kia mụ đi không lọt. Mụ gọi thằng bé kia vào
cho nó ăn với, còn hơn là tọng cả vào mồm một mình mình thế.
Mụ kia
bực mình cãi lại:
- Tôi
bảo nó ăn mà nó có ăn đâu. Còn ông, ông đừng có mở mồm là đụng đến tôi; tôi
không ăn của nhà ông đâu mà ông nói.
Người
con gái ngoảnh lại phía mụ nấu rượu, hất đầu ra hiệu về phía Pa-ven, hỏi mụ ta:
- Bà có
biết sao anh ấy bị bắt không bà?
Mụ kia
vớ được người hỏi chuyện, bắt lấy ngay, kể luôn:
- Người
tỉnh này đây. Con út mụ nấu bếp Ca-rơ- sa-ghin đấy mà.
Rồi mụ
ghé vào tai cô gái thì thào:
- Cậu ấy
đánh tháo cho một anh bôn-sê-vích. Anh này trước là lính thủy cũng ở tỉnh này,
trọ ở nhà mụ Dô-du-li-kha, ngay cạnh nhà tôi.
Cô gái
nông dân bỗng sực nhớ lại những lời lúc nãy của lão giám binh: "Tớ định
viết sang tham mưu để xin lệnh cho treo cổ...".
Từng
đoàn xe lửa tới tấp chạy đến mắc kẹt với nhau ở nhà ga. Các tiểu đoàn lính từ
trên tàu đổ xuống ồn ào, rối loạn. Chuyến tàu bọc sắt có bốn toa kiểu
"Da-pô-rô" từ từ bò trên đường sắt. Lính đẩy súng lớn từ trên những
toa không mui xuống, kéo ngựa từ trong các toa hàng ra. Bọn kỵ binh thắng ngựa
tót lên đi chèn qua đám bộ binh, ra sân ga đứng thành một đội kỵ mã.
Cai,
quản nhốn nháo gọi số hiệu đơn vị của chúng.
Nhà ga
ồn ào như một tổ ong. Đám đông lộn xộn những người cuống quít ầm ĩ, dần dần sắp
thành từng trung đội vuông vắn, rồi dòng người súng ống đó kéo ào ào vào thành
phố. Mãi đến tận tối, xe ngựa vẫn kêu lóc cóc trên đường, bộ phận hậu cần của
sư đoàn mới đến vẫn tiếp nhau tiến vào thành phố.
Và đi
đoạn hậu là đại đội tham mưu, một trăm hai mươi cái mõm gào lên:
Trên phố
này có tiếng gìẦm ầm náo động nổi lên?Đấy là đầu lĩnh Pêt-lu-raXuất hiện dưới
trời U-cơ-ren...
Pa-ven
nhóm lên nhìn qua cửa sổ. Trong nhá nhem cảnh chiều xuống sớm, anh nghe rõ
tiếng bánh xe lăn ầm ầm trên đường phố, tiếng chân rầm rập và tiếng hát nhao
nhao.
Phía sau
có tiếng người dịu dàng nói khẽ:
- Có lẽ
quân lính kéo vào thành.
Pa-ven
ngoảnh lại.
Người
nói là thiếu nữ bị dẫn vào tối qua.
Pa-ven
được nghe chuyện cô ta, mụ nấu rượu hỏi gặng mãi làm cô phải nói. Thiếu nữ ấy
quê ở một làng cách Sê-pê-tốp-ca bảy dặm. Anh cô - Gơ-rít-cô - vốn là một du
kích đỏ, trước kia làm chủ tịch ủy ban dân cày nghèo.
Khi quân
ta phải rút lui, Gơ-rít-cô cũng đeo ngay băng đạn súng máy vào người và theo
anh em đi. Gia đình anh giờ thì bị chúng nó khủng bố. Nhà chỉ có độc một con
ngựa cũng bị chúng dắt đi mất. ông bố bị bắt đem ra tỉnh, bị hành hạ trong xà
lim. Tên lý trưởng hội tề, một tay thuộc loại trước kia Gơ-rít-cô đã bắt vào
khuôn vào phép, bây giờ được dịp trả thù, chuyên môn cắt nhà anh phải cho hết
lũ lính này đến lũ lính khác đóng. Gia đình khốn khổ đến cùng cực. Tối hôm qua
tên giám binh đến làng vây ráp, tên lý trưởng dẫn nó đến nhà cô bé, cô lọt vào
mắt lão quan tư; sáng sớm nó cho đem cô lên tỉnh lấy cớ "để lấy khẩu
cung".
Pa-ven
thao thức không ngủ, lòng bồn chồn, mắt không sao nhắm được. Một ý nghĩ duy
nhất quay cuồng trong đầu: "Ngày mai rồi sẽ ra sao.. ".
Mình mẩy
bị đánh giờ vẫn còn đau ê ẩm. Tên lính giải Giu-khơ-rai thù anh, đánh anh dã
man như thú dữ.
Anh cố
lắng nghe tiếng rì rầm trò chuyện của hai người đàn bà bên cạnh cho khuây nỗi
lòng căm uất.
Cô gái
thấp giọng thì thào kể đến chuyện lão quan tư định giở trò. Lão quan tư đã sán
đến, nằn nì, dậm dọa. Bị cưỡng lại, hắn đùng đùng nổi giận, hùng hổ dọa:
"Mày không chịu, tao cứ nhốt vào hầm nhà pha thì mày đừng có hòng ra khỏi
nữa".
Bóng tối
tràn vào dần dần ngập hết gian phòng. Đêm đến, một đêm nghẹt thở, tâm tư thao
thức giày vò không biết ngày mai rồi sẽ ra sao. Sáu ngày ở đây đối với Pa-ven
tưởng chừng như đến hàng tháng rồi. Nằm sàn đất cứng như đá, người lại càng đau
nhừ. Trong phòng giam này chỉ còn có ba người: tên quan hai đã thả mụ hàng rượu
ra để về lấy chất cay mang hầu chúng. Ông cụ già nằm trên bục gỗ ngủ kỹ, ngáy
khỏe như ở nhà vậy. Y như một nhà hiền triết, cụ lúc nào cũng bình thản, đêm
nào cũng ngon giấc. Khơ- ri-chi-na - cô gái nông dân - và Pa-ven nằm dưới đất
gần như kề bên nhau. Chiều qua, Pa-ven nhìn qua cửa sổ thấy Xéc-gây đứng ỉu xìu
hồi lâu trước nhà pha, buồn rầu nhìn lên những cửa sổ trại giam.
"Xéc-gây
chắc biết mình bị nhốt ở đây".
Ba ngày
nay có người gửi vào cho Pa-ven mấy mẩu bánh mì đen. Ai gửi đến, chúng cũng
chẳng cho hay. Đã hai hôm nay, tên giám binh làm Pa-ven hoảng hốt vì những câu
tra hỏi xoi mói.
Tra thế
nghĩa là thế nào?
Pa-ven
chối hết không khai gì cả. Vì sao không khai? Bản thân anh cũng không biết. Anh
muốn can đảm, anh muốn mình cũng cứng cỏi như những anh hùng đọc thấy trong
sách. Nhưng đến khi chúng bắt anh, dẫn anh đi giữa đêm dày, lúc đi qua cái hình
thù lù lù của cối xay chạy bằng hơi nước, có tiếng một thằng lính áp giải nói:
"Bẩm trung úy đưa nó đi làm gì nữa, cứ cho một phát vào lưng là xong
chuyện". Lúc ấy Pa-ven mới cảm thấy rờn rợn. Phải, mới mười sáu tuổi đầu
mà đã phải chết thì khổ thật. Vì khi đã chết rồi thì dù sao cũng là mãi mãi
không sống nữa, không bao giờ sống nữa.
Khơ-ri-chi-na
cũng nghĩ ngợi. Cô hiểu số phận Pa- ven hơn cả Pa-ven kia. Anh ta chắc còn chưa
biết chuyện... chứ cô thì đã nghe chúng nói thế nào rồi.
Ban đêm,
Pa-ven không ngủ, cứ day dứt vật mình.
Khơ-ri-chi-na
cảm thấy thương anh, ôi, thương không biết bao nhiêu mà kể. Song Khơ-ri-chi-na
cũng có nỗi đau đớn của mình, cô không quên được những lời khủng khiếp của lão
giám binh:
"Liệu
hồn, mai rồi biết tay tao. Không bằng lòng tao, thì tao vứt xuống cho bọn vệ
sĩ. Lính Cô-dắc chúng nó không chê mày đâu. Tùy mày chọn đấy".
Lòng
Khơ-ri-chi-na nặng trình trịch. Chẳng còn có thể trông ai thương cho phận mình
nữa! Có tội tình gì cho cam. Có phải vì cô đâu mà anh Gơ-rít- cô đi theo du
kích đỏ? "Ôi? Sao sống ở thế gian này khổ đến thế này!"
Nỗi đau
đớn nhoi nhói ứ nghẹn lấy cổ. Thất vọng mênh mông, hãi hùng khủng khiếp, tất cả
như chẹt lấy lòng; Khơ-ri-chi-na nức nở khóc.
Tấm thân
non trẻ run lên, lo sợ và buồn vô hạn.
Có bóng
người động đậy ở góc tường:
- Em làm
sao thế?
Khơ-
ri-chi-na ngỏ với người bạn ít nói nỗi khổ cùng đường của mình, tiếng nói khẽ,
nhưng mang hơi thở nồng nàn. Pa-ven lặng nghe, bàn tay đặt lên đôi bàn tay
Khơ-ri-chi-na.
- Bọn
quỷ ấy chúng nó sẽ hành hạ em đến chết mất. - Cô gái nghĩ mà khiếp đảm, nuốt
nước mắt thì thào: - Em đến bị với chúng nó mất. Sức em không làm gì chúng nó
được.
Biết nói
gì với người con gái này? Biết nói gì được? Nói không ra lời! Cuộc đời bạn bị
dồn đến chỗ cùng đường, đến chỗ ngạt thở.
Hay ngày
mai dùng võ lực bênh bạn, không để chúng đem đi, đánh nhau với chúng nó. Chúng
nó sẽ đập chết Khơ-ri-chi-na, chém đứt cổ, và như thế là xong đời. Để an ủi
người bạn gái đang bị đau khổ giày vò này, Pa-ven chỉ biết lấy tay trìu mến
vuốt ve bàn tay bạn. Tiếng khóc nguôi dần.
Chốc
chốc, tiếng lính gác ngoài cửa quen miệng hỏi người qua lại: "Ai, đứng
lại!" Rồi lại vẫn là canh trường tịch mịch. Ông lão ngủ say như chết. Thời
gian vô hình trôi đi chậm chạp. Đôi cánh tay ôm lấy và kéo riết Pa-ven lại gần.
Pa-ven không hiểu ra sao.
Đôi môi
Khơ-ri-chi-na nóng hổi tha thiết thủ thỉ:
- Anh
ơi, anh yêu của em, đằng nào em cũng bị rồi, không thằng quan làm nhục em, thì
lũ lính cũng làm nhục em mất. Anh hãy nghe em, anh ơi! Em không muốn trinh bạch
của em vào tay đồ chó nhơ bẩn.
-
Khơ-ri-chi-na, em nói sao?
Song đôi
cánh tay mầm mẫm cứ riết lấy Pa-ven. Khó mà rời cặp môi mọng và nóng bỏng ấy.
Lời nói của cô gái giản dị và âu yếm. Pa-ven giờ mới hiểu điều mà bạn muốn cầu
xin mình.
Ý thức
về hiện tại thốt nhiên mờ đi những hình ảnh ghê rợn: khóa sắt của buồng giam,
thằng lính gác có ria đỏ hoe, lão quan tư, những trận đòn dã man, bảy đêm thao
thức ngột ngạt, tất cả chìm đắm vào dĩ vãng. Giây phút này chỉ còn đôi môi nóng
bỏng và khuôn mặt ướt đầm nước mắt của Khơ-ri-chi-na.
Bỗng
nhiên Pa-ven sực nhớ đến Tô-nhi-a.
Anh quên
nàng làm sao được? Đối với lòng anh, đôi mắt ấy đẹp xiết bao và yêu dấu xiết
bao!
Pa-ven
còn đủ sức dứt ra. Anh đứng lên, choáng váng, lảo đảo như người say rượu, hai
bàn tay níu lấy song sắt cửa sổ. Tay Khơ-ri-chi-na sờ soạng với lấy anh:
- Anh
ơi, thế nào hở anh ơi?
Tiếng
gọi mang bao nhiêu đắm đuối ! Pa-ven cúi xuống, nắm rất chặt đôi bàn tay của
Khơ-ri-chi-na:
- Anh
không thể nào làm thế được, Khơ-ri-chi-na ạ. Anh hiểu em rất tốt.
Pa-ven
còn nói nữa, nhưng chính anh cũng không hiểu mình nói gì. Để phá tan cái im
lặng đang đè trĩu xuống đó, Pa-ven đứng hẳn dậy, bước lại chỗ ông lão nằm, ngồi
xuống mép bục lay ông dậy:
- Cụ có
thuốc cho cháu xin điếu.
Trong
góc kia, cô gái gục mặt vào khăn trùm đầu, khóc nức nở. Sớm hôm sau, lão giám
binh và lính đến bắt Khơ- ri-chi-na đem đi. Đôi mắt to của người con gái ngẩng nhìn
Pa-ven vĩnh biệt. Trong đôi mắt đó gửi lại cả niềm trách móc. Khi Khơ-ri-chi-na
bị giải đi khỏi, cửa đóng lại, lòng Pa-ven càng thấy nặng nề, bóng tối càng
thấy dầy đặc hơn.
Suốt
ngày hôm ấy, ông lão không tài nào gợi được Pa-ven nói một tiếng. Bọn lính đổi
gác. Tối đến, chúng dẫn thêm một người bị bắt nữa vào. Pa-ven nhận ngay ra
Đô-lin-nhích, người thợ mộc ở nhà máy đường. Pa-ven đã gặp anh dạo tháng Hai
năm 1917, lúc làn sóng cách mạng xô đến tận Sê-pê-tốp-ca này. Hồi ấy, trong bao
cuộc biểu tình mít tinh ầm ĩ, Pa-ven nghe thấy chỉ có một người bôn-sê-vích
nói. Người bôn-sê- vích ấy chính là anh Đô-lin-nhích này đây. Anh đã leo lên
hàng rào bên đường, đứng ra kêu gọi binh lính. Pa-ven vẫn còn in sâu trong trí
nhớ lời kết luận của anh ta hôm ấy: "Các bạn binh lính ! Các bạn hãy cùng
đi với những người bôn-sê-vích: họ không bao giở phản lại quyền lợi các
bạn!"
Và từ
dạo đó đến bây giờ, Pa-ven mới gặp lại người thợ mộc ấy. Người anh trông vạm
vỡ, mập mạp, mặc chiếc áo sơ-mi vàng bạc màu, ngoài khoác áo vét-tông đã cũ.
Thoạt vào anh đưa mắt chăm chú nhìn quanh phòng giam một lượt.
Ông cụ
già suốt ngày ngồi im không có ai nói chuyện, chắc khổ tâm lắm, nên giờ có
người bạn mới để tâm sự ông cụ có vẻ thú. Đô-lin-nhích ngồi vào bục với cụ vừa
quấn thuốc hút vừa hỏi cặn kẽ mọi chuyện.
Rồi anh
ngồi lại gần Pa-ven.
- Còn
chú có chuyện gì kể anh nghe với không? Làm sao chú lại bị rơi vào đây?
Nghe
Pa-ven trả lời nhát gừng, Đô-lin-nhích biết Pa-ven chưa dám tin mình nên ít nói
thế. Nhưng khi đã hiểu Pa-ven bị buộc tội gì rồi, đôi mắt thông minh của người
thợ mộc ngạc nhiên chăm chăm nhìn Pa- ven. Anh ngồi sát cạnh Pa-ven:
- Vậy ra
chú đã đánh tháo cho Giu-khơ-rai phải không? À, ra thế đấy. Anh cũng không biết
là chúng tóm được chú.
Pa-ven
sửng sốt, chống tay nhổm dậy:
-
Giu-khơ-rai? Giu-khơ-rai nào? Tôi không biết gì hết. Tự nhiên vô cớ cứ gán tội
vào cho người ta...
Nhưng
Đô-lin-nhích mỉm cười, nhích lại gần, nói nhỏ:
- Thôi
chú, với anh chú đừng chối mãi thế. Anh còn biết hơn chú nữa cơ.
Và
Đô-lin-nhích nói khẽ hơn để cụ già khỏi nghe thấy :
- Chính
anh đưa Giu-khơ-rai đi trốn. Anh ấy giờ thì chắc chu lắm rồi. Giu-khơ-rai đã kể
hết chuyện em cho anh nghe.
Suy nghĩ
một lát, Đô-lin-nhích nói thêm:
- Còn
chú thì chú cứng đấy. Song cứ xét việc chú còn đây thì tài liệu của nó về chú
chẳng có quái gì đâu. Có thể nói là cũng chẳng có gì đáng ngại lắm.
Người
thợ mộc nói xong, cởi áo vét-tông rải xuống sàn, ngồi lên, dựa lưng vào tường
và lại cuốn điếu thuốc nữa.
Những
lời vừa rồi của Đô-lin-nhích làm cho Pa- ven đã hiểu: Đô-lin-nhích là người của
ta, rõ lắm. Ừ, nếu anh ấy đã đưa Giu-khơ-rai đi trốn thì tức là....
Đến chập
tối thì Pa-ven được biết là Đô-lin-nhích bị bắt vì tội tuyên truyền địch vận.
Chúng tóm được quả tang anh đang phát truyền đơn của ủy ban cách mạng toàn tỉnh
kêu gọi binh lính ngụy đầu hàng và chạy sang hàng ngũ quân đỏ.
Đô-lin-nhích
vốn là người thận trọng, nên chỉ kể cho Pa-ven một số chuyện thôi. Anh nghĩ
thầm: "Ai mà biết trước được. Nếu cậu bé bị chúng lấy sắt thông nòng súng
mà nện cho thì... Cậu ta hãy còn non lắm".
Tối
khuya, hai người sủa soạn đi ngủ, Đô-lin-nhích mới tỏ nỗi lo lắng của mình
trong một câu chuyện ngắn gọn:
- Pa-ven
ạ, tình cảnh chúng mình có thể nói là bi đát lắm đấy, mắc cẳng rồi. Đành phải
đợi xem thế nào thôi.
Ngày hôm
sau, lại thêm người bị bắt nữa vào: bác thợ cạo Den-xe có hai tai như tai voi,
cổ ngẳng, cả tỉnh ai cũng biết mặt. Bác ta hoa tay múa chân nóng nảy kể bô bô
với Đô-lin-nhích:
- Đây
chuyện thế này đây. Lão Phúc, lão Bơ-lup- tanh, lão Tơ-rắc-ten-be định mang lễ
vật đến chào mừng đầu lĩnh trưởng. Tôi bảo họ: các ông muốn dâng lễ vật cho
người ta thì các ông cứ việc mang. Còn như đưa kiến nghị thì ai thay mặt cả đám
dân Do-thái này mà ký vào? Nói các ngài tha lỗi: có đứa đếch nào ký. Bọn họ ký
vì họ tính chuyện có lợi cho họ. Phúc có cửa hàng. Tơ-rắc-ten-be có máy xay.
Còn tôi thì có gì? Những người nghèo đói khác có gì? Bọn khố rách áo ôm chúng
tôi chẳng có cóc khô gì cả. Nhưng, khốn nỗi, tôi chỉ được có cái lưỡi dài mà
thôi. Chẳng là ngày hôm nay có một ông đội vào hàng tôi cạo mặt. Ông ta thuộc
đạo quân mới kéo vào đây. Tôi hỏi ông ta: "Thưa ông bảo giùm cháu, đầu
lĩnh trưởng liệu có biết dân Do-thái ở đây bị càn không ạ? Ngài có tiếp một
đoàn đại biểu Do thái lên kêu với ngài không, ông nhỉ?" Từ thuở cha sinh
mẹ đẻ, cái lưỡi tôi đã làm hại tôi bao lần rồi. Bà con thử đoán xem? Tôi cạo
cho ông ta, bôi kem xoa phấn đẹp đẽ, tươm tất, dùng toàn thứ thượng hảo hạng.
Thế rồi ông ta trả công tôi như thế nào? Ông ta đứng dậy, đáng lẽ trả tiền công
cho tôi thì trái lại, ông ta bắt ngay tôi về tội "tuyên truyền chống chính
phủ". Và Den-xe nắm tay đấm ngực thình thịch: "Tuyên truyền cái gì
chứ? Nào tôi có nói cái gì? Tôi chỉ hỏi một câu thường thôi... Thế mà người ta
lại tống tôi vào nhà giam..."
Den-xe
tức tối, nắm lấy khuy áo Đô-lin-nhích vặn vặn, lúc thì kéo tay này, lúc kéo tay
kia của Đô- lin-nhích.
Đô-lin-nhích
không nhịn được cười trước cơn nóng nảy của Den-xe. Khi bác thợ cạo dứt lời,
anh nghiêm nét mặt:
- Bác
Den-xe này, bác cũng là người hiểu biết đấy, thế mà có lúc bác lại dại dột đến
thế được. Bác tưởng đã là lúc mở mồm nói cho sướng lưỡi hay sao. Tôi không có
khuyên bác tự dẫn xác vào đây đâu nhớ.
Den-xe
nhìn Đô-lin-nhích hiểu ý và phẩy tay thất vọng. Giữa lúc ấy cửa mở; người ta ẩy
mụ đàn bà nấu rượu vào. Mụ đang chửi thậm tệ thằng lính Cô-dắc giải mụ:
- Trời
đánh thánh vật cả lũ chúng mày với thằng quan nhà chúng mày nữa. Rượu của tao,
nó nốc cho cạn, rồi cháy xác nó ra!
Tên lính
gác đóng cửa lại, tiếng then cài lách cách.
Mụ hàng
rượu ngồi xuống bục. Ông lão nói đùa ngay:
- Sao,
mụ lắm điều kia lại vào đấy à? Mời mụ ngồi chơi, làm khách của bà con chúng tôi
vậy.
Mụ ta
nguýt ông già, vớ lấy gói quần áo, rồi ngồi phệt xuống sàn bên cạnh
Đô-lin-nhích.
Chúng
lại nhốt mụ, sau khi đã tước của mụ mấy chai "cay".
Bỗng
dưng có tiếng động ở ngoài cửa bốt gác; rồi có tiếng ai ra lệnh hách dịch.
Những người bị giam đều quay đầu ngó ra cửa.
*
Ở quảng
trường, gần cái nhà thờ nhỏ, cao lêu nghêu, có tháp chuông rất cổ, đang diễn ra
một trò lạ thường chưa từng có ở thành phố này: bọn ngụy diễu binh. Những đơn
vị của sư đoàn bộ binh, súng ống nai nịt từ đầu đến chân, đứng thành đội hình
chữ nhật, đều răm rắp trên ba mặt quảng trường.
Ở đằng
trước, ba trung đoàn bộ binh đứng theo đội hình ô vuông kéo dài từ cổng nhà thờ
đến suốt dọc hàng giậu trường học.
Một đám
người họp thành một khối màu xám bẩn, đội mũ sắt trông như quả dưa hấu bổ đôi
úp sụp lấy đầu, đứng sắp hàng thẳng, súng cầm tay dựng bên hông, băng đạn cuốn
đầy người. Đấy là sư đoàn thiện chiến nhất của nền "Đốc chính". Chúng
ăn mặc chững vì lấy ở những kho quần áo của quân đội Nga hoàng cũ. Số quân này
hơn một nửa là con nhà cu-lắc, những quân thù ghét chính quyền Xô-viết ra mặt.
Quân
phản động Nga trắng ném sư đoàn này vào thị trấn Sê-pê-tốp-ca để bảo vệ đầu mối
đường xe lửa có tính chất chiến lược trọng yếu bậc nhất này.
Từ
Sê-pê-tốp-ca có đường sắt đi năm ngả. Đối với Pết-lu-ra, mất Sê-pê-tốp-ca tức
là mất tất cả. Chính thể "Đốc chính" của chúng thế là chỉ còn mảnh
đất tí xíu này. Thủ đô của "Đốc chính" bây giờ phải đóng ở thị trấn
Vi-nhít-xa nhỏ bé.
Tên
"đầu lĩnh trưởng" đã định thân hành đến duyệt các đơn vị. Quân lính
sẵn sàng đón hắn.
Ở hàng
cuối, xếp cho khuất mắt vào tận xó quảng trường là trung đoàn lính mới động
viên. Đám thanh niên ấy chân không giầy, quần áo tạp nham đủ kiểu, đủ màu;
những chàng dân quê ấy bị bọn ngụy sục vào tận làng kéo khỏi ổ nằm hay tóm ngay
giữa đường trong những đêm càn bắt lính, chẳng có bụng dạ nào đi đánh nhau cả.
Họ nói với nhau:
- Ai dại
gì!
Bọn sĩ
quan của Pết-lu-ra chỉ đạt được kết quả là áp giải họ vào thành phố, chia ra
thành các đại đội và tiểu đoàn, rồi ấn súng vào tay họ.
Nhưng
ngay ngày hôm sau một phần ba số đó đã biến mất, số còn lại mỗi ngày một ít đi.
Phát
ngay giày cho lớp thanh niên đó thì quá ư là dại, vả lại giày của bọn ngụy có
nhiều lắm đâu, nên chúng liền ra lệnh đi lên tập trung phải mang kèm theo cả
giầy. Kết quả rất ngộ nghĩnh. Vì những người bị bắt làm lính ấy đào đâu ra
giày, ngay mảnh giẻ rách buộc lạt, buộc dây thép đủ dính được lấy chân cũng
chẳng có nữa là.
Chúng
đành dẫn họ đi chân đất ra tham gia cuộc duyệt binh còn hơn.
Sau bộ
binh là đến trung đoàn kỵ binh của Gô- lúp. Bọn này đứng án ngữ giữ đám đông
dân phố đang tò mò. Ai cũng muốn xem duyệt binh thế nào. "Đầu lĩnh trưởng"
sắp đến nơi rồi. Thành phố này mấy khi có duyệt binh như thế. Cho nên dân phố
không ai muốn bỏ qua trò vui không mất tiền này.
Trên
những bậc thềm nhà thờ, bọn võ quan, bọn chức tước, hai con gái lão giáo
trưởng, một mớ các viên giáo học U-cơ-ren, một nhóm Cô-dắc "tự do",
viên thị trưởng người hơi gù lưng, - tóm lại là đám thượng lưu của "xã
hội" ở đây. Trong số đó có tên tổng thanh tra bộ binh, mặc quân phục.
Chính hắn ta chỉ huy cuộc duyệt binh hôm nay.
Trong
nhà thờ, lão cố Vát-xi-li, mặc áo chầu, chuẩn bị làm lễ.
Người ta
chuẩn bị đón tiếp Pết-lu-ra long trọng lắm. Có mang cả cờ vàng xanh da trời đến
nữa. Lính mới hôm nay phải tuyên thệ trước mặt "đầu lĩnh trưởng".
Tên chỉ
huy sư đoàn ngồi trên chiếc xe "Pho" tàng, róc sơn, lòi sắt, chạy về
phía nhà ga đón Pết-lu-ra.
Lão tổng
thanh tra bộ binh ra hiệu gọi gã quan năm Séc-nhắc mảnh khảnh, có tí râu mép
vểnh lên rất điệu:
- Anh
lấy một người đi theo. Chạy về đoàn bộ và hậu cần kiểm tra lại. Bố trí cho sạch
mắt, cho tươm tất đâu vào đấy. Nếu ở đấy có bọn tù thì sàng lọc lại xem. Bọn
lem nhem thì tống cổ ra nhớ.
Séc-nhắc
rập chân đứng nghiêm chào, rồi cùng một tên quan ba phi ngựa về đoàn bộ.
Tên
thanh tra quay lại vồn vã hỏi đứa con gái lớn lão cố đạo:
- Còn
cơm nước thế nào, cô? Chu tất rồi chứ?
- Ngài
không lo, có quan giám binh thân đến trông nom rồi ạ. - Con này đáp lời, hai
mắt thèm thuồng đắm đuối nhìn tên thanh tra đẹp trai kia.
Bỗng tất
cả náo động lên: một tên kỵ binh cúi rạp trên bờm ngựa, phi tới. Hắn vẫy tay và
kêu lên:
- Đến
rồi !
Tên
thanh tra liền hô:
- Đứng
vào hàng!
Bọn cai
đội chạy về chỗ.
Khi
chiếc xe ô-tô "Pho" thở hổn hà hổn hển đỗ bên thềm nhà thờ, nhạc cử
bài: Xứ U-cơ-ren vẫn sống mãi.
"Đầu
lĩnh trưởng" Pết-lu-ra theo sau tên sư đoàn trưởng; nặng nề bước ra khỏi
xe. Y người tầm thước, đầu bướu cắm chắc trên cái cổ đỏ gay, mặc áo Cô-dắc xanh
bằng dạ tốt; lưng thắt dây da vàng, giắt khẩu Bơ-rao-ninh nhỏ xíu bên hông đựng
trong túi bằng da hươu lộn. Đầu y đội mũ lưỡi trai kiểu "Kê-
ren-ski": có mang huy hiệu cái đinh ba sơn men. Trông hình dạng Xi-môn
Pết-lu-ra chẳng có tướng nhà binh tí nào.
Vẻ bực
tức, y nghe tên thanh tra báo cáo rất ngắn.
Sau đó
tên thị trưởng đọc chúc từ.
Pết-lu-ra
lơ đãng nghe; qua đầu tên thị trưởng, y nhìn xuống các trung đoàn quân trước
mặt sắp thẳng hàng.
Y gật
đầu ra hiệu cho tên thanh tra:
- Cho
bắt đầu duyệt binh.
Y leo
lên một cái bục nhỏ gần cột cờ hò hét với lính mươi phút. Y nói không hùng lắm,
không có hứng, vì đi đường mệt. Y nói xong thì rắp theo lệnh chỉ huy, quân lính
reo lên: "Vinh quang! Vinh quang!". Y bước xuống và lấy khăn lau trán
rồi cùng với tên thanh tra và tên sư đoàn trưởng duyệt các đơn vị.
Khi đi
qua những hàng lính mới động viên, y nheo mắt khinh bỉ, cắn môi tỏ vẻ bực mình.
Duyệt
binh gần xong, thì đoàn lính mới động viên từng trung đội một, hàng ngũ loạc
choạc, đi gần tới cột cờ chỗ lão cố Vát-xi-li tay cầm sách bổn đứng làm phép,
bọn lính hôn sách bổn, rồi hôn vào một góc lá cờ. Đang lúc làm lễ thì xảy ra
một chuyện bất ngờ.
Một đoàn
đại biểu không biết ở đâu mọc ra, len lỏi vào quảng trường, lù lù tới tận chỗ
Pết-lu-ra. Đi đầu là lão Bơ-lúp-tanh, lái gỗ giàu sụ, lễ mễ bê lễ vật. Theo sau
là lão chủ hiệu tạp hóa Phúc và ba tên lái buôn to khác.
Bơ-lúp-tanh
khúm núm cúi rạp lưng dâng lễ vật cho Pết-lu-ra:
- Toàn
dân Do-thái chúng tôi kính cẩn chào mừng ngài Quốc trưởng, đội ơn cao dày của
ngài và tỏ lòng sùng bái ngài. Kính mong ngài chấp nhận cho tờ chúc từ của
chúng tôi.
Tên đội
đứng bên nhận lễ vật, Pết-lu-ra liếc qua tờ chúc từ, rồi lẩm bẩm:
- Được
Vừa lúc
ấy thì lão Phúc len lên ngay:
- Bẩm
tướng công, chúng con cắn cỏ lạy ngài thi ân cho chúng con được làm ăn buôn bán
và che chở cho chúng con là người Do-thái khỏi bị những cuộc càn Do-thái - Lão
Phúc khó khăn mãi mới dám nói đến tiếng "càn Do-thái" này.
Pết-lu-ra,
mặt hầm hầm, cau mày khó chịu.
- Quân
đội ta không có càn Do-thái, các người phải biết thế mới được.
Lão Phúc
buông thõng tay, tiu nghỉu.
Pết-lu-ra
nhún vai bực tức, cáu cái đoàn đại biểu rất chướng này. Y quay phắt lại. Đứng
sau y, Gô-lúp đang mím môi cắn râu mép đen sì.
- Đại
tá, dân kêu về lính của ông. Ông phải xét xem vì sao dân kêu, và thi hành những
biện pháp cần thiết. - Rồi hắn quay lại tên thanh tra ra lệnh: - Bắt đầu cho
diễu binh.
Đoàn đại
biểu vô phúc có ngờ đâu lại chạm trán Gô-lúp ở đây, bèn vội vàng tìm cách lủi
đi.
Lúc bấy
giờ, mọi người đi xem đều chú ý vào bọn lính đang sửa soạn diễu binh. Tiếng chỉ
huy thét lên cộc lốc.
Gô-lúp
vẻ mặt bề ngoài cố trấn tĩnh, đón đầu Bơ- lúp-tanh, nói nhỏ nhưng dằn từng
tiếng:
- Xéo
ngay đi chỗ khác, đồ ngoại đạo. Xéo ngay không ông cho băm thịt chúng mày làm
ba-tê bây giờ.
Nhạc cử
một bản hành khúc, và những đơn vị đầu tiên và đầu diễu. Khi đi ngang qua chỗ
Pết-lu-ra đứng, chúng hô lên hai tiếng "Vinh quang!" như cái máy, rồi
quay rẽ sang các phố bên. Đi đầu các đại đội là bọn cai đội mặc quần áo ka-ki
mới, bước ung dung như đi dạo phố, tay ve vẩy chiếc gậy chỉ huy. Đây là lần đầu
tiên bọn cai đội cầm gậy, cũng như bọn lính bồng súng, được học lối diễu binh
như thế.
Cái đuôi
sau rốt là lính mới động viên, đi loạc choạc, không biết bước theo lối nhà
binh, vừa đi vừa xô đẩy nhau.
Tiếng
chân đất lê trên đường nghe lào xào. Cai đội chạy ngược chạy xuôi để giữ hàng
lối, nhưng không tài nào giữ được.
Khi đại
đội hai đi qua, một gã đi rìa bên phải, mặc áo sơ-mi vải thô, mải há hốc mồm
nhìn "đầu lĩnh trưởng", vấp phải ổ gà, ngã sóng soài ra mặt đường.
Súng của gã quệt vào đá kêu đến keng một cái. Gã lóp ngóp chực bò dậy, nhưng bị
dòng người đi sau hỗn loạn kéo tràn qua đạp gã ta lại ngã giúi ngay xuống nữa.
Người
đứng xem thấy thế cười bò ra. Cả trung đội của gã ta rối tung. Đám lính còn lại
đi sau tán loạn. Gã thanh niên rủi ro kia nhặt súng đứng dậy chạy vội theo đội
mình.
Pết-lu-ra
thấy cảnh tượng chán chường ấy, quay mặt đi không buồn nhìn nữa. Y không chờ
cho hàng quân đi diễu hết bỏ đi ra xe ô-tô. Tên thanh tra chạy theo sau khúm
núm hỏi:
- Đức
đầu lĩnh trưởng, ngài không ở lại xơi cơm ạ?
Pết-lu-ra
thốt ra tiếng gọn lỏn:
- Không.
Trong số
những người trèo lên hàng giậu sắt cao nhà thờ đứng xem diễu binh có Xéc-gây,
Va-li-a và Cơ-lim-ca.
Xéc-gây
tay bíu chắc lấy cột giậu, đôi mắt hằn học nhìn bọn đứng ở dưới thềm.
-
Va-li-a ơi, ta đi về thôi! Hạ màn đến nơi rồi.
Xéc-gây
tay buông song sắt tụt xuống, giọng khiêu khích, nói rất to. Những người đứng
xem nghe câu nói, kinh ngạc ngoái cổ lại nhìn.
Xéc-gây
thản nhiên, không để ý đến ai, cứ đi thẳng ra cửa. Em gái anh và Cơ-lim-ca đi
theo sau.
*
Quan năm
Séc-nhắc và một quan ba đi theo phi ngựa đến đồn giám binh, nhảy phắt xuống.
Chúng đưa ngựa cho tên lính hầu, rồi hộc tốc đi vào trại vệ sĩ. Séc-nhắc giọng
hách dịch hỏi tên lính gác:
- Đồn
trưởng đâu?
Tên lính
ấp úng:
- Con
không biết, ông đồn đi đâu rồi ấy ạ.
Séc-nhắc
đưa mắt nhìn một vòng gian phòng gác lộn xộn, bẩn thỉu, nhìn những giường, chăn
đệm xộc xệch, trên có mấy tên lính Cô-dắc phất phơ nằm chỏng gọng. Có cấp trên
vào mà bọn chúng cũng không thèm đứng dậy nữa.
Séc-nhắc
thét lên:
- Sao
bẩn như chuồng bò thế này? - Hắn la bọn lính đang nằm: - Bọn bay nằm đấy làm gì
như đàn lợn xề mới đẻ xong thế?
Một tên
lính Cô-dắc ngồi nhổm dậy, ợ một cái như người ăn quá no, rồi lè nhè bực tức:
- Làm gì
mà thét lên thế? Chúng tôi cũng có mồm biết thét được cả.
Séc-nhắc
chồm lên:
- A, mày
láo, mày có biết mày nói với ai không? Đồ ngu như bò! Tao là đại tá Séc-nhắc
đây. Hiểu chưa? Đồ chó chết ! Đứng dậy ngay lập tức không có roi này ông quất
ngay vào lưng bây giờ. - Séc-nhắc nóng tiết lồng lộn lên. - ông hẹn cho chúng
mày một phút, chúng mày phải tức khắc vứt ngay những thứ bẩn thỉu này đi, dọn
lại giường, rồi ngồi lại cho ra người một tí. Bộ đội gì mà như thế. Chẳng phải
lính Cô- dắc nữa, mà thật là một lũ cướp đường.
Séc-nhắc
tức giận tới cao độ; đụng phải chậu rác giữa đường, hắn bực quá lấy chân đá
ngay.
Tên quan
ba cũng phụ họa theo, chửi rủa lung tung, quất roi vun vút vào không khí, đuổi
những tên lính đang nằm bò dậy.
- Đức
"đầu lĩnh trưởng" đang duyệt binh. Ngài có thể ghé vào đây. Quân bay
hoạt lên xem nào, mau lên!
Bọn lính
nhận ra câu chuyện trở nên quan trọng, không phải trò đùa, có thể ăn đòn thật
vì uy danh Séc-nhắc thì ai mà không biết nữa. Chúng chạy đi dọn dẹp nhốn nháo
lên như người phải bỏng.
Công
việc bắt đầu chạy hăng.
Tên quan
ba đề nghị với Séc-nhắc:
- Bây
giờ ta đi xem lại bọn tù. Chẳng hiểu chúng nhốt những ai ở đây! Nhỡ ra đức
"đầu lĩnh trưởng" ngài ngó vào, thì lại có chuyện mất.
Séc-nhắc
hỏi tên gác:
- Đứa
nào cầm chìa khóa? Mở ngay nhà pha xem nào!
Tên quản
cơ chạy vội lại, mở cửa.
Lão quan
năm vẫn quát ầm ầm:
- Đồn
trưởng sao đi đâu mất mặt! Cứ để ta chờ mãi hắn hay sao?
Rồi
Séc-nhắc ra lệnh:
- Đi tìm
đồn trưởng gọi về đây cho ta. Tập hợp đội vệ sĩ ra sân, sắp thẳng hàng
lại...Tại sao súng không có lưỡi lê?
Tên quản
phân trần:
- Bẩm
quan, chúng con mới đổi đến hôm qua.
Nói rồi,
hắn chạy ra cửa, đi tìm đồn trưởng.
Tên quan
ba lấy chân ẩy cửa nhà pha. Một vài người ngồi ở sàn đứng nhổm dậy, những người
khác vẫn nằm.
Séc-nhắc
ra lệnh:
- Mở cửa
ra, ở đây tối quá.
Hắn nhìn
kỹ từng mặt người bị giam.
- Làm
sao mà bị giam?
Hắn quắc
mắt hỏi ông cụ già đang ngồi trên bục.
Cụ này
đứng dậy, xốc lại cái quần, giọng lắp bắp sợ sệt trả lời ấp úng:
- Bẩm
ngài, lão không biết. Lão thấy dẫn đến đây thì ở đây. Ở nhà lão mất con ngựa,
lão có tội gì đâu.
Tên quan
ba ngắt lời:
- Mất
con ngựa của ai?
- Ngựa
của quân đội ạ. Các ông quyền đóng ở nhà lão bán nó đi lấy tiền uống rượu và
bây giờ lại đổ tội cho lão.
Séc-nhắc
liếc mắt rất nhanh, nhìn ông già từ đầu đến chân và nhún vai bực mình:
- Nhặt
quần áo, rồi xéo. - Séc-nhắc quát lên thế, rồi quay lại mụ nấu rượu.
Ông lão
vẫn chưa tin là chúng tha mình, quay lại phía tên quan ba, chớp chớp cặp mắt lờ
đờ hỏi lại:
- Thưa,
thế lão được về ạ?
Tên quan
ba gật đầu:
- Ừ,
bước đi ngay cho rảnh.
Ông lão
vội vớ lấy cái túi treo ở bục, rồi lách ra cửa lủi mất.
Séc-nhắc
đã hỏi đến mụ nấu rượu:
- Còn mụ
kia, sao mụ bị giam ở đây?
Mụ hàng
rượu nhai nghiến ngấu cho hết miếng ba-tê, rồi nói huyên thuyên:
- Bẩm
quan lớn, thật oan con. Con ở góa. - Các ông ấy đến nhà con uống rượu, rồi bắt
giam con.
Séc-nhắc
hỏi:
- Tao nghe
ra là mụ bán rượu chứ gì?
Mụ ta
lấy làm phật ý, kêu ca:
- Sao
gọi là bán được ạ? Như ông đồn trưởng đây lấy của con bốn chai, mà không trả xu
nào cả. Các ông ấy thế cả, uống rồi quịt. Thế còn gọi là buôn bán sao được nữa
ạ.
- Thôi!
Ta hiểu rồi? Mụ cút đi đâu thì cút, nhanh lên.
Mụ ta
không để lũ quan ngụy phải nhắc lại lệnh của chúng lần thứ hai nữa, vớ lấy cái
thúng, cúi lạy cảm ơn rối rít, rồi đi giật lùi ra cửa.
- Đa tạ
các quan. Xin trời phật phù hộ các ngài được mạnh khỏe.
Đô-lin-nhích
tròn xoe mắt nhìn tấn hài kịch đó.
Không ai
trong những người tù ở đây còn hiểu như thế là thế nào. Chỉ rõ một điều: chắc
bọn mới đến là chỉ huy cao cấp gì đây nên mới có quyền thả tù như vậy.
Séc-nhắc
hỏi đến Đô-lin-nhích:
- Còn
tên kia, tại sao mày bị bắt?
Tên quan
ba thét lên:
- Đứng
dậy! Trước mặt đại tá phải đứng dậy!
Đô-lin-nhích
nặng nề, chậm chạp đứng dậy.
Séc-nhắc
hỏi lại:
- Tao
hỏi mày tại sao bị bắt?
Đô-lin-nhích
nhìn bộ râu mép vểnh của tên quan năm đến mấy giây, nhìn cái mặt cạo nhẫn của
hắn, rồi nhìn cái mũ lưỡi trai mới kiểu "Kê-ren-ki" có đính huy hiệu
sơn men. Bỗng nhiên một ý nghĩ táo bạo thoáng qua trong óc: "May ra có thể
ăn tiền đấy?" Và anh nói ra ý nghĩ vừa vụt đến trong đầu:
- Tôi bị
bắt vì tội đi chơi sau tám giờ tối.
Toàn
thân căng thẳng đến đau đớn, anh chờ đợi.
- Thế
đêm hôm đi làm gì?
- Bẩm
lúc ấy chưa khuya, mới có mười một giờ thôi ạ.
Miệng
nói mà bụng vẫn không tin là thoát được.
Nhưng
đầu gối anh run lên khi nghe tiếng quát cộc lốc:
- Cút!
Anh quên
khuấy cả chiếc áo vét-tông, cứ thế đi ra cửa.
Lão quan
ba đã hỏi sang người khác.
Pa-ven
là người cuối cùng. Anh đang ngồi trên sàn, rất đỗi bàng hoàng không hiểu
chuyện ra làm sao nữa, cũng không đủ thời giờ để ngẫm nghĩ tại sao chúng lại
tha cả Đô-lin-nhích ra được. Không thể nào mà hiểu được. Chúng thả tất cả hay
sao. Nhưng sao lại thả Đô-lin-nhích?... Đô-lin-nhích bảo với chúng là bị bắt vì
đi chơi khuya... Pa-ven vụt hiểu ra.
Tên quan
năm hỏi đến lượt bác thợ cạo Den-xe gầy nhom. Vẫn một câu hỏi đi hỏi lại đó:
- Còn
mày, sao bị bắt?
Den-xe
mặt tái mét, hồi hộp, hăng máu trả lời:
- Các
ông ấy bảo con tuyên truyền, con không hiểu con tuyên truyền cái gì cả.
Séc-nhắc
vểnh tai lên nghe:
- Cái
gì? Cái gì? Tuyên truyền à? Mày tuyên truyền cái gì?
Den-xe
khoa tay không hiểu ý ra sao:
- Con có
biết đâu, con chỉ nói người ta lấy chữ ký vào bản đơn kêu của dân Do-thái đưa
lên đức "đầu lĩnh trưởng".
Tên quan
ba và Séc-nhắc nhích lại gần Den-xe:
- Đơn
kêu gì?
- Dạ đơn
xin cấm càn Do-thái. Ngài cũng biết ở đây vừa có một cuộc càn ghê người. Dân
chúng khiếp đảm.
Séc-nhắc
ngắt lời:
- Ta
hiểu rồi. Được muốn có đơn kêu chúng tao sẽ thảo đơn kêu cho mày, đồ Do-thái
mạt kiếp.
Rồi
Séc-nhắc quay lại bảo tên quan ba:
- Giữ
quân này cho ta cẩn thận, đem dẫn xa đi, đưa nó về ban tham mưu; ta sẽ nói
chuyện thẳng với nó để xem chính đứa nào đầu têu cái việc đơn kêu này.
Den-xe
chực nhoi lên cãi, song roi ngựa của tên quan ba đã quất vào lưng:
- Câm
mồm, thằng chó chết.
Bác thợ
cạo đau nhăn mặt lại, lùi về góc phòng; môi run lên cố nén tiếng khóc nấc ứ lên
cổ.
Khi cảnh
cuối đó diễn ra thì Pa-ven đã đứng dậy.
Trong
nhà giam chỉ còn mình anh và Den-xe.
Séc-nhắc
đã đứng trước Pa-ven, giương hai mắt đen hau háu nhìn anh từ đầu đến chân:
- Thằng
này, chuyện gì thế?
Tiếng
Pa-ven đáp nhanh:
- Con
cắt một miếng yên ngựa để làm đế giày.
Tên quan
năm không hiểu hỏi lại:
- Yên
ngựa nào?
- Có hai
ông lính Cô-dắc đóng ở nhà con, con chót dại cắt chiếc yên ngựa cũ để làm đế
giày, cho nên các ông lính Cô-dắc bắt con đem đến đây. - Và hăng lên, với hy
vọng ngây ngất được trả lại tự do, Pa-ven nói thêm: - Nếu con biết là không
được lấy thì...
Lão quan
năm nhìn Pa-ven, bĩu môi khinh bỉ:
- Không
hiểu lão đồn trưởng giám binh làm cái ngỗng gì? Thật trời mà hiểu được ra làm
sao! Bắt giam được những của quý thật? - Rồi hắn quay ra cửa, hét Pa-ven: -
Thôi cho mày về nhà và nói với bố mày cho mấy cái phát vào mông đít. Ranh con,
xéo!
Pa-ven
còn ngỡ là tai mình nghe nhầm và con tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, anh
nhặt cái áo vét tông của Đô-lin-nhích bỏ rơi trên sàn, rồi chạy ra cửa. Anh qua
phòng gác và theo sau Séc-nhắc đang đi ra, anh vụt qua sân, rồi chạy qua cổng
sắt và ra đường cái.
Trong
nhà giam chỉ còn lại bác thợ cạo Den-xe đen đủi. Đau buồn tê tái, bác đưa mắt
nhìn chung quanh.
Theo bản
năng, bác đi mấy bước ra cửa, nhưng một tên lính gác đã vào khép cửa, khóa trái
lại và ngồi trên chiếc ghế đẩu chắn ngay đó.
Đứng
trên thềm nhà giam, Séc-nhắc rất lấy làm hài lòng, nói với tên quan ba:
- Thật
may mà chúng mình ngó đến đây. Mày xem chúng nhét vào đây đủ cóc nhái bỏ đi.
Mình phải cho tên đồn trưởng giám binh ngồi tù ít nhất là hai tuần mới được.
Thôi, ta đi chứ!
Tên quản
đã tập hợp sẵn lính của nó sắp hàng ở cả ngoài sân. Thấy tên quan năm, hắn chạy
lại báo cáo:
- Bẩm
quan đại tá, doanh trại xếp dọn đã xong đâu vào đấy rồi ạ!
Séc-nhắc
cho chân vào bàn đạp, nhảy phắt lên yên ngựa. Còn tên quan ba thì vẫn loay hoay
với con ngựa bất kham của nó. Séc-nhắc vừa lần dây cương, vừa bảo tên đội:
- Mày
bảo với đồn trưởng giám binh là tao đã thả hết cả lũ chó chết mà hắn thu nhặt
bấy lâu nay. Mày nói thêm với hắn là tao sẽ cho hắn ngồi tù hai tuần vì tội để
bẩn thỉu ở đây. Còn thằng đang bị nhốt kia thì điệu ngay lập tức sang tham mưu.
Chúng bay thì chuẩn bị cho sẵn sàng!
Tên đội
đáp lại, tay đưa lên ngang vành mũ:
- Xin
tuân lệnh quan đại tá.
Tên quan
năm thúc ngựa cùng với tên quan ba phi lại quảng trường, nhưng diễu binh ở đó
đã xong từ lâu rồi.
*
Chạy qua
được bảy nhà thì Pa-ven dừng lại. Không còn sức mà chạy tiếp nữa.
Những
ngày đói khát bị giam trong phòng ngột ngạt làm Pa-ven kiệt sức. Về nhà thì
không được. Đến nhà Bơ-ru-giắc thì nhỡ ra có ai biết là có thể làm liên lụy,
tan cửa nát nhà bạn. Vậy thì đi đâu bây giờ?
Anh
không biết làm thế nào, cứ chạy, những vườn rau và sân sau các nhà đã lùi lại
sau anh. Mãi đến khi chạm người vào hàng rào nhà ai đó, Pa-ven mới sực tỉnh.
Pa-ven
đứng sững lại sửng sốt: sau hàng rào cao mà mình đang đứng tựa lưng đây lại
chính là vườn nhà ông chánh kiểm lâm. Hóa ra đôi chân mỏi dừ của mình lại đưa
mình đến đây. Mình đã định bụng đến đây hay sao ấy nhỉ? Không.
Nhưng
tại sao mình lại đứng ngay trước biệt thự này mà không dừng chân đứng lại ở chỗ
khác?
Anh
không tài nào trả lời được câu hỏi đó. Phải kiếm chỗ nào nghỉ chân cái đã, rồi
còn nghĩ cách đi xa nữa. Trong vườn này có một vòm cây rất kín, nấp vào đấy
chẳng ai thấy được đâu.
Pa-ven
nhảy lên, bám lấy mép một thanh gỗ, trèo lên hàng rào rồi tụt sang bên kia. Anh
đưa mắt nhìn mái nhà thấp thoáng sau rặng cây rồi đi thẳng đến vòm cây. Nhưng
chỗ vòm cây trống trải quá. Dạo hè còn có nho dại phủ kín, giờ thì cây cối trơ
trụi.
Anh định
quay ra, nhưng muộn quá rồi: tiếng chó sủa dữ dội ở sau lưng. Một con chó to từ
trong nhà đang chạy hồng hộc theo lối đi đầy lá, xồ ra cắn anh, sủa oang cả
vườn lên.
Pa-ven
đứng thế thủ.
Nó nhảy
xổ vào nhưng bị Pa-ven lấy chân đá. Con chó lồng lên chực nhảy vào lần nữa.
Thật cũng chẳng biết rồi sẽ ra sao, nếu lúc đó không có tiếng ai quá quen thuộc
lanh lảnh la lên:
-
Tơ-rê-do, chạy lại đây nào!
Tô-nhi-a
chạy ra, cầm lấy vòng xích cổ lôi con chó Tơ-rê-do lại, rồi nói với bóng người
đang đứng bên hàng rào:
- Anh
làm thế nào mà vào đây được? Con chó này hay cắn lắm đấy. May mà tôi...
Tô-nhi-a
chưa nói hết câu đã im bặt, mắt mở to nhìn. Anh chàng trẻ tuổi không rõ làm sao
vào đây được này giống Pa-ven quá!
Bóng kia
động đậy, khẽ hỏi lại:
- Em...
cô không nhận ra tôi sao?
Tô-nhi-a
reo lên một tiếng và bổ lại chỗ Pa-ven:
- Anh
Pa-vơ-lu-sa, anh đấy ư?
Con chó
Tơ-rê-do nghe tiếng chủ kêu tưởng là ra hiệu cho cắn, bèn nhảy xổ lên.
- Không
được cắn, đi!
Tơ-rê-do
bị Tô-nhi-a đá cho mấy cái, hục hặc cúp đuôi chạy vào trong nhà.
Tô-nhi-a
nắm lấy tay Pa-ven hỏi:
- Anh
được tha hay sao?
- Thế em
cũng biết chuyện à?
Tô-nhi-a
không nén được nỗi hồi hộp, cảm động, trả lời câu một:
- Em
biết hết, Li-da kể cho em nghe. Nhưng anh làm thế nào ra được? Người ta tha anh
hay sao?
Pa-ven
trả lời, giọng mệt mỏi:
- Chúng
tha nhầm, em ạ. Anh trốn khỏi nhà pha. Chắc bây giờ chúng đang truy nã. Anh
cũng không định đến đây. Tình cờ trông thấy vòm cây kia anh tính vào ẩn để nghỉ
một lát. - Rồi như để xin lỗi, Pa-
ven nói thêm:
- Anh
mệt lắm !
Tô-nhi-a
nhìn anh một lúc lâu, chan chứa tình thương, trìu mến mặn nồng, vừa lo lắng,
vừa vui sướng... Tô-nhi-a siết chặt tay Pa-ven:
- Anh Pa-ven,
anh Pa-ven yêu quý, anh Pa-ven thân thiết bé bỏng của em, em yêu anh...anh có
hiểu em không? Anh rất bướng của em. Tại sao tối hôm nọ anh lại đùng đùng bỏ
về? Giờ anh phải vào nhà em. Em giữ anh lại, không cho anh đi nữa đâu. Anh ở
nhà em yên ổn. Anh ở đây đến bao giờ yên thì thôi.
Pa-ven
lắc đầu:
- Nhỡ
chúng tìm thấy anh ở nhà em thì làm thế nào? Anh không thể vào nhà em được.
Tay
Tô-nhi-a càng siết chặt, mi dài rung rung, mắt sáng lên.
- Anh
không vào thì chẳng bao giờ anh còn gặp được em nữa. Với lại, anh A-rơ-chom
không có nhà, anh ấy đã bị chúng áp giải đi lái xe rồi. Các anh công nhân xe
lửa đều bị chúng bắt đi làm cả. Anh tính đi đâu bây giờ mới được?
Pa-ven
hiểu thấu lòng Tô-nhi-a lo lắng, nhưng mối lo sợ có thể gieo tai vạ cho người
con gái mà anh yêu dấu khiến anh ngần ngại. Bao nhiêu thử thách đã làm anh kiệt
sức mệt lả, bụng đói như cào làm Pa- ven không cưỡng lại được nữa: anh nghe
theo.
Trong
khi Pa-ven ngả lưng ở ghế dài buồng Tô-nhi- a, thì Tô-nhi-a xuống nói chuyện
với mẹ ở dưới bếp:
- Mợ ơi,
trên buồng con có anh Pa-ven Ca-rơ-sa- ghin là học trò con, mợ nhớ ra chứ? Con
không dám giấu mợ điều gì. Anh ấy bị bắt vì đánh tháo cho một người lính thủy
bôn-sê-vích. Anh ấy vừa trốn ra được, nhưng không có nơi nào ẩn cả.- Giọng
Tô-nhi-a bắt đầu run: - Mợ ơi, con xin phép mợ đồng ý để anh ấy ở nhờ nhà ta,
con van mợ!
Đôi mắt
Tô-nhi-a van lơn nhìn mẹ.
Bà mẹ
thì nhìn mắt con như dò xét.
- Được
mợ cũng chẳng cấm con. Song con cho cậu ta ở vào đâu mới được?
Tô-nhi-a
đỏ mặt, bối rối, hồi hộp trả lời:
- Để anh
ấy ở trong buồng con, nghỉ trên ghế dài. Song mợ đừng nói gì với cậu vội, mợ
nhớ.
Mẹ nhìn
thẳng vào mắt con:
- Con
bấy lâu nay khóc mãi, thế ra là vì nó đấy?
- Vâng
ạ.
- Nhưng
nó mới ít tuổi đầu!
Tô-nhi-a
nóng ruột, mân mê rứt tay áo sơ-mi đang mặc.
- Vâng,
song nếu anh ấy không trốn được thì cũng bị đem bắn như người lớn vậy.
Pa-ven ở
trong nhà làm bà mẹ không được yên tâm. Bà lo lắng về chuyện Pa-ven bị bắt, mà
Tô-nhi-a thì rõ ràng là cảm mến cậu bé đó rồi và bà cũng lo lắng vì bà hoàn
toàn không biết gì về Pa-ven hết.
Còn
Tô-nhi-a thì bận tíu tít:
- Phải
cho anh ấy tắm, mợ ạ. Bây giờ con lo cho anh ấy tắm ngay. Anh ấy bẩn như người
thợ mới ở lò ra... Đã lâu lắm rồi, anh ấy có được tắm rửa gì đâu.
Tô-nhi-a
vội vã chạy đi đun nước, sắp quần áo và để khỏi phải nói nhiều với Pa-ven, cô
đùng đùng dắt tay anh, dẫn vào buồng tắm.
- Anh
phải thay hết quần áo đi. Quần áo anh phải giặt mới được. Anh lấy quần áo kia
mà thay.
Và
Tô-nhi-a chỉ cái áo lính thủy cổ trắng kẻ dọc, cái quần ống rộng thùng thình đã
gấp cẩn thận để trên ghế.
Pa-ven
đưa mắt ngạc nhiên nhìn chung quanh.
Tô-nhi-a
mỉm cười:
- Đây là
quần áo giả trai ngày hội trá hình của em, chắc anh mặc vừa. Thôi em để anh tắm
nhớ. Em xuống dọn cơm anh ăn.
Nói rồi
đóng sập cửa. Pa-ven chỉ còn biết làm theo lời Tô-nhi-a cởi quần áo ra và nhảy
vào chậu tắm.
Một giờ
sau, bà mẹ, Tô-nhi-a và Pa-ven ngồi ăn cơm dưới bếp. Đói quá, Pa-ven ăn hết đĩa
thứ ba mà không để ý. Mới đầu có mặt bà mẹ Tô-nhi-a, Pa-ven cũng ngượng, nhưng
sau thấy bà niềm nở, anh đâm dạn ra.
Cơm
xong, cả ba người sang buồng Tô-nhi-a. Mẹ Tô-nhi-a hỏi han Pa-ven, anh kể cho
bà nghe những bước gian truân của mình. Nghe xong, mẹ Tô-nhi-a hỏi:
- Thế em
định thế nào bây giờ?
Pa-ven
suy nghĩ:
- Con
định gặp anh A-rơ-chom con, rồi đi khỏi đây.
- Đi
đâu?
- Con
định đi U-mân hay đi Ki-ép. Con chưa biết đi đâu Nhưng chắc chắn là phải đi
khỏi đây mới được.
Pa-ven
không tài nào ngờ được số phận mình có thể thay đổi nhanh như thế. Sáng còn bị
nhốt ở nhà giam, bây giờ đã ở bên Tô-nhi-a rồi, mặc quần áo mới tinh và cái
chính là đã được tự do.
Cuộc đời
đôi khi xoay hẳn chiều lại như thế đấy: lúc thì bóng tối mù mịt trùm kín cuộc
đời, lúc thì ánh sáng mặt trời lại tươi vui cười với bạn. Nếu không có mối lo
bị bắt lại thì lúc này Pa-ven cảm thấy đúng là sung sướng hoàn toàn rồi.
Nhưng
chính ngay giữa lúc này, lúc anh đang ở cái nhà rộng rãi và yên tĩnh này, thì
chúng có thể bắt lại anh ngay ở đây.
Phải
liệu đi, đến đâu cũng được, đừng ở lại đây nữa. Nhưng nào bụng có muốn rời nơi
này đâu! Thật là oái oăm ! Lúc đọc truyện vị anh hùng Ga-ri-ban- đi thì mê
thật! Cứ mơ ước được như Ga-ri-ban-đi. Tuy biết đời ông ta gian khổ lắm, bị
đuổi khắp thế giới, nhưng vẫn thèm cuộc đời đó. Thế mà nếm mùi tra tấn ghê
khiếp mới được bảy ngày mà đã thấy dài đằng đẵng như đến cả năm trường rồi.
Xem thế
thì ra mình chẳng có tướng anh hùng.
Tô-nhi-a
ngả đầu về phía Pa-ven hỏi:
- Anh
đang nghĩ gì thế, anh?
Pa-ven
có cảm tưởng như đôi mắt của người yêu xanh thăm thẳm vô cùng tận.
-
Tô-nhi-a ơi, em có muốn anh kể về Khơ-ri-chi-na cho em nghe không?
Tô-nhi-a
đon đả:
- Anh kể
đi.
- Và từ
hôm ấy, Khơ-ri-chi-na không trở lại nữa.
Đoạn
cuối của câu chuyện, Pa-ven khó khăn mãi mới kể nốt được.
Trong
phòng tịch mịch, chỉ có tiếng đồng hồ kêu tích tắc đều đều... Tô-nhi-a cúi đầu,
cắn chặt môi, cố giữ khỏi bật tiếng khóc.
Pa-ven
nhìn người yêu, giọng quả quyết:
- Anh
phải đi ngay hôm nay.
- Không,
không, hôm nay anh không đi đâu cả.
Những
ngón tay thon thon ấm áp của Tô-nhi-a khẽ lần mái tóc cứng của Pa-ven giật tóc
anh trìu mến.
-
Tô-nhi-a ạ, em phải giúp anh. Cần ra sở đầu máy xe lửa hỏi thăm tin tức anh
A-rơ-chom và đưa mảnh giấy anh viết cho Xéc-gây. Anh có khẩu súng ngắn giấu
trên tổ quạ. Anh không thể đến lấy được, nên muốn nhờ Xéc-gây đến lấy hộ. Em có
giúp được anh không?
Tô-nhi-a
đứng dậy:
- Được
anh ạ. Em sẽ đi tìm Li-da, cùng với cô ta vào sở đầu máy. Thế anh viết cho
Xéc-gây đi, em sẽ đưa đến. Anh ấy ở đâu? Nếu anh ấy muốn đến gặp anh thì nói là
anh ở đâu được?
Suy nghĩ
một lát, Pa-ven đáp:
- Cứ bảo
anh ấy chiều nay mang khẩu súng đến vườn nhà.
Đến
khuya, Tô-nhi-a mới về, Pa-ven đã ngủ say. Tay
ai vuốt trán làm Pa-ven thức dậy. Tô-nhi-a cười vui sướng:
- Anh
A-rơ-chom sắp đến ngay bây giờ. Anh ấy mới đi về. Có ông cụ đẻ ra Li-da bảo đảm,
nên anh ấy được phép ra ngoài một tiếng. Đầu máy anh ấy lái còn đỗ trong sở. Em
không thể nói được là anh ở đây chỉ bảo anh ấy đến đây, em có việc quan trọng
lắm cần nhắn anh ấy. Kia kìa, anh ấy đã đến rồi!
Tô-nhi-a
chạy ra cổng. A-rơ-chom thấy Pa-ven còn ngỡ là mắt mình trông nhầm, đứng sững
lại ngay trước cửa. A-rơ-chom vào rồi. Tô-nhi-a khép cửa lại để cậu mình bị đau
thương hàn nằm ở bên phòng giấy khỏi nghe tiếng.
Tay A-rơ-chom
ôm chặt lấy Pa-ven, ghì em vào lòng, làm khớp xương Pa-ven kêu răng rắc:
- Em
Páp-ca của anh!
*
Thế là
quyết định rồi: mai Pa-ven đi. A-rơ-chom thu xếp cho em ngồi vào đầu máy do bác
Bơ-ru-giắc lái đi Ca-da-chin.
A-rơ-chom
thường ngày tính khô khan, đã phải nôn nao trong lòng vì lo lắng cho em, không
biết số phận em ra sao. Bây giờ thì lòng anh dạt dào vui sướng không sao kể
xiết.
- Vậy cứ
thế em nhé. Năm giờ sáng mai, anh đón em ở nhà kho vật liệu. Lúc chất củi lên
tàu thì em trèo lên ngồi luôn. Anh muốn nói chuyện nữa với em, song đến giờ
phải về rồi. Mai anh lại ra tiễn em đi. Bây giờ các anh bị động viên, đang có
biên chế thành tiểu đoàn lính thợ xe lửa, làm việc có lính mang súng đi kèm y
như dưới thời giặc Đức vậy.
Anh từ
giã em ra về.
Bóng tối
trùm xuống rất nhanh. Xéc-gây sẽ đến đây bằng lối cổng vào vườn. Pa-ven đi đi
lại lại trong phòng tối đợi Xéc-gây đến. Tô-nhi-a và mẹ còn ngồi ở đầu giường
cậu Tô-nhi-a.
Pa-ven
và Xéc-gây gặp nhau trong tối: hai bạn siết chặt tay nhau. Cả Va-li-a cũng đến.
Ba người nói chuyện nhỏ:
- Mình
không mang khẩu súng đến cho cậu được. Sân nhà cậu giờ đầy lính ngụy đóng. Xe
ngổn ngang. Chúng đốt lửa giữa sân. Thật chẳng làm thế nào leo lên cây có tổ
quạ được cả. Không may thế đấy.
Pa-ven
nói để bạn yên lòng:
- Thôi
cóc cần súng nữa. Có lẽ thế càng hay. Đi đường có súng, nó tóm được thì lại mất
đầu. Song khi nào lấy được thì cậu phải cố lấy đi nhé. Thế nào cũng lấy đi đấy.
Va-li-a
nhích lại gần:
- Bao
giờ anh đi?
- Mai,
Va-li-a ạ, vào lúc mờ sáng.
- Nhưng
anh làm thế nào trốn ra được, nói cho em nghe với.
Pa-ven
thì thầm kể lại qua loa chuyện vừa xảy ra.
Ba người
trẻ tuổi chia tay nhau thân thiết quá. Xéc-gây không đùa như mọi khi nữa, lòng
bồi hồi cảm động. Giọng Va-li-a nghẹn ngào mãi mới thốt ra:
- Thôi,
anh đi khỏe mạnh, anh Pa-ven nhớ. Đừng quên chúng em đấy!
Bóng hai
người bạn đi ra chìm ngay vào đêm tối.
Trong
nhà lặng lẽ. Chỉ có tiếng đồng hồ buông tiếng tích tắc đều đều không mệt mỏi.
Pa-ven cũng như Tô-nhi-a chẳng ai nghĩ gì đến đi ngủ cả: chỉ còn sáu tiếng nữa
thôi, hai người đã phải xa nhau, và có thể sẽ không bao giờ được thấy lại mặt
nhau nữa. Thời giờ ngắn ngủi thế này, kể lể với nhau làm sao hết được trăm ngàn
ý nghĩ và lời nói mà mỗi người mang nặng trong lòng.
Tuổi
thiếu niên! Tuổi thiếu niên tươi đẹp biết bao, khi bạn còn chưa biết gì đến
khát vọng, mà bạn chỉ mới cảm thấy mơ hồ trong những tiếng đập gấp gấp của trái
tim; khi bàn tay của bạn run rẩy, sờ sợ, rụt nhanh lại, vì vô tình chạm vào
ngực người bạn gái, khi tình bạn của tuổi niên thiếu còn ngăn được lòng bạn
không để đi đến bước cuối của tình cảm. Còn gì trên đời có thể ngọt ngào hơn
hai cánh tay người yêu đang quàng lên cổ bạn và cái hôn của ai nồng cháy, như
có luồng điện phát ra.
Đây là
cái hôn thứ hai từ khi đôi trẻ thân nhau. Ngoài mẹ ra, Pa-ven có được ai âu yếm
bao giờ. Trái lại anh bị đòn, bị đánh nhiều. Và vì thế, anh càng cảm thấy hết
sức thấm thía sự âu yếm của Tô-nhi-a.
Suốt cả
cuộc đời vất vả cay nghiệt, Pa-ven có bao giờ biết trên đời có niềm vui sướng
ấy. Người con gái này đây là hạnh phúc lớn trên đường đời anh đi. Anh ngửi mái
tóc thơm và tưởng chừng như nhìn thấy mắt người yêu.
- Anh
yêu em lắm, Tô-nhi-a ạ. Anh không thể nói hết lòng anh với em được. Anh không
biết nói thế nào.
Bao
nhiêu ý nghĩ quên hết... Tấm thân mềm mại này chiều anh ngoan ngoãn biết bao
nhiêu. Song tình bạn của tuổi thiếu niên vẫn là trên hết!
- Em
Tô-nhi-a, bao giờ yên hàn rồi, anh sẽ làm thợ điện. Nếu bấy giờ em vẫn không
chê anh, nếu thật em yêu anh, chứ không phải chỉ thích cho vui thì anh sẽ là
người chồng tốt của em. Anh sẽ không bao giờ đánh em. Nếu anh mà làm em khổ thì
anh sẽ không sống làm gì.
Và sợ ôm
nhau mà ngủ quên đi trong lòng nhau, đôi trẻ rời nhau, để mẹ khỏi nghĩ đến điều
gì không tốt. Đôi bạn còn hứa với nhau sẽ không bao giờ quên nhau, rồi mới đi
ngủ. Lúc ấy đã quá nửa đêm.
Sáng
sớm, mẹ Tô-nhi-a đánh thức Pa-ven dậy. Anh nhảy thoắt xuống đất.
Giữa lúc
Pa-ven vào phòng tắm lấy áo cũ của mình thay, đi giày và khoác chiếc áo
vét-tông của Đô-lin- nhích ra ngoài, thì bà mẹ đánh thức Tô-nhi-a dậy.
Hai
người vội vã ra đi trong sương mai ẩm ướt; họ đi về phía nhà ga, vòng vào kho
củi. A-rơ-chom đang sốt ruột đợi hai người bên toa than chở đầy củi.
Khói phì
lên phủ mờ cả đầu máy lớn. Đầu máy thong thả lại gần.
Bác
Bơ-ru-giắc từ trong ca-bin nhìn qua cửa sổ.
Phút
biệt ly ngắn ngủi. Pa-ven bíu chắc lấy tay vịn thang xe, trèo bậc sắt lên tàu.
Lên rồi, anh quay nhìn lại. Hai bóng thân yêu đứng ở lối chắn ngang đường tàu:
thân hình cao lớn của A-rơ-chom và bên cạnh là Tô-nhi-a thon thon, nhỏ bé.
Gió mạnh
như giận dữ thổi phần phật vào cổ áo và làm bay ngược mớ tóc bồng màu hạt dẻ
của Tô- nhi-a. Tô-nhi-a vẫy tay, không nén được thổn thức. A-rơ-chom liếc nhìn
cô bé, thở dài:
"Nhất
định hai đứa bé phải lòng nhau rồi. À, tay Pa-ven này, thế mà bảo nó còn bé
bỏng".
Khi con
tàu đã khuất vào đường ngoặt, A-rơ-chom quay lại phía Tô-nhi-a:
- Từ
nay, chúng ta là chỗ thân tình cả.
Và bàn
tay bé nhỏ của Tô-nhi-a lọt thỏm trong bàn tay to tướng của A-rơ-chom.
Từ xa
vọng lại tiếng ầm ầm của con tàu chạy gấp lên.
Thép đã tôi thế đấy
Chương VII
Đã một
tuần nay, thành phố bị giao thông hào và dây thép gai đánh đai lấy chung quanh
chi chít như mạng nhện, thức cũng như ngủ đều sống dưới tiếng nổ rền của trọng
pháo và tiếng giòn giã của những loạt súng trường. Chỉ đến đêm khuya lắm, tiếng
súng mới im. Nhưng chốc chốc lại có vài loạt súng vì hoảng mà bắn xé phá tan
yên tĩnh: đấy là các vị trí tiền tiêu bắn dò nhau. Tờ mờ sáng, người ta loay
hoay bên những khẩu đại pháo bố trí ở nhà ga. Khẩu súng há cái mõm đen ra khạc
đạn giận dữ và ghê sợ. Người ta lại hối hả tọng vào những cái mõm ấy những khẩu
phần chì mới. Người lính pháo thủ giật dây; mặt đất rung chuyển. Cách xa thành
phố ba dặm, mé trên một làng do Hồng quân chiếm lĩnh, đạn trái phá bay vèo rú
lên trên không, làm át hết mọi thứ tiếng, rồi rơi xuống bắn tung những mảnh đất
vụn lên trời.
Pháo
binh đỏ đặt trong sân một tu viện Ba Lan lâu đời xây trên ngọn đồi cao ở giữa
làng.
Đồng chí
ủy viên quân sự của khẩu đội tên là Da- mô-chin đang ngủ gật, đầu dựa vào càng
súng, thức choàng dậy, nịt lại dây da mang khẩu Mô-de cho thêm chặt, lắng nghe
tiếng đạn bay, chờ tiếng nổ. Giọng đồng chí sang sảng vang cả sân:
- Các
đồng chí ơi, dậy đi thôi! Mai ta sẽ ngủ nốt.
Các
chiến sĩ ngủ bên những khẩu pháo cũng vùng dậy lẹ như người chỉ huy của mình.
Chỉ có Xi-đô-súc là chậm, miễn cưỡng nhấc cái đầu còn ngái ngủ.
- Bọn
chúng nó đểu thật. Chưa sáng đã sủa lên rồi. Quân súc sinh !
Da-mô-chin
cả cười:
- Nói
làm gì chúng nó, Xi-đô-súc. Quân chúng nó là những phần tử chưa giác ngộ. Chúng
nó có nể gì giấc ngủ của cậu.
Xi
đô-súc càu nhàu ngồi dậy.
Vài phút
sau pháo ta đã giã khỏe nổ đùng đùng trên sân tu viện và bắn phá ầm ầm vào
thành phố Sê-pê-tốp-ca.
Trên
ngọn ống khói nhà máy đường, một tên sĩ quan Pết-lu-ra và tên lính điện thoại
leo lên theo bậc thang sắt bắc bên trong ống khói nhà máy, ngồi trên sàn gỗ
bằng mảnh ván xếp lại.
Ngồi
trên sàn cao, chúng nhìn rõ chung quanh, cả thành phố như nằm trong lòng bàn
tay chúng. Từ trên ngọn ống khói cao ấy, chúng chỉ huy cho pháo bắn. Chúng thấy
rõ từng bước tiến lui của quân đỏ đang vây thành. Ngày hôm ấy, bên hàng quân đỏ
hết sức rộn rịp. Trong ống nhòm nhãn hiệu "Dét-xơ" thấy rõ những đơn
vị của họ hành binh. Trên đường sắt đến ga Pô-đôn, đoàn xe lửa bọc sắt từ từ
tiến lên, vừa đi vừa nã pháo không ngớt. Sau đoàn tàu là những hàng bộ binh.
Quân đỏ mở nhiều đợt xung phong. Song quân nguy bố trí bám chắc lấy ngoại vi
thành phố. Các giao thông hào bốc cháy như hỏa ngục. Tiếng nổ điên cuồng vang
âm không trung, nghe cứ to mãi, và những lúc tấn công thì hóa thành một chuỗi
tiếng gầm rền rú lên liên tiếp. Và bên tuyến bôn-sê-vích bị đạn trút xuống như
mưa lũ. Không thể trấn được sức phản công căng thẳng quá sức chịu đựng của con
người ấy, bên ta phải rút lui để lại trên chiến trường những xác không động
đậy.
Ngày hôm
ấy, những đợt tấn công vào thành phố mỗi lúc một quyết liệt, một dày. Lúc nào
không trung cũng inh lên những loạt súng đại bác, bần bật chuyển động. Đứng từ
ngọn ống khói nhà máy có thể nhìn toàn thể các mặt trận, bọn quan trắc ngụy
thấy rõ những mũi quân bôn-sê-vích có lúc lảo đảo, nép rạp xuống đất, vấp ngã,
song lại vùng dậy tiến lên không gì cưỡng nổi. Bên đỏ gần chiếm được toàn bộ
nhà ga. Ngụy quân tung ra trận tất cả sức dự trữ, nhưng không thể nào lấp được
chỗ thủng ở mặt trận nhà ga. Những hàng quân đỏ lòng đầy quyết tâm mãnh liệt ào
ào tiến vào các phố quanh nhà ga. Trung đoàn ngụy thứ ba có nhiệm vụ giữ nhà ga
đã bị đột kích ác liệt bật ra khỏi những vị trí cuối cùng, bị dồn ra khỏi những
vườn rau, khóm cây mà chúng bố trí, bị chia cắt tứ tung, vội rút chạy về phía
trung tâm thành phố. Hồng quân không để cho quân địch kịp hoàn hồn, không để
cho chúng có thời giờ nghỉ chân, cứ xông lên dùng lưỡi lê quét hết mọi sức
kháng cự và tràn vào các phố như ngọn triều băng băng.
Không
còn sức mạnh nào trên đời có thể giữ Xéc- gây ở lại dưới hầm nhà được nữa. Anh
đang cùng cả nhà và hàng xóm ẩn dưới ấy, những chuyện xảy ra trên đường phố
thúc giục anh chạy lên, ngồi yên không tài nào chịu được. Mặc mẹ quát theo,
Xéc-gây đã nhảy ra khỏi cái hang mát lạnh ấy. Một chiếc xe bọc sắt Xa-gai-đa-sơ-ny
ầm ầm chạy qua mặt nhà, nhả đạn ra tứ phía mở đường cho quân ngụy Pết-lu-ra
đang hoảng vía bỏ chạy tán loạn. Một tên ngụy chạy trốn vào sân nhà Xéc-gây,
vội vã cuống quýt trút hết bao đạn, mũ sắt và khẩu súng, rồi nhảy qua tường lẩn
vào đám vườn rau. Xéc-gây đánh bạo nhìn ra đường. Quân Pết-lu-ra có chiếc xe
bọc sắt yểm hộ chạy trốn theo con đường về phía ga Tây-nam. Đường vào phố vắng
ngắt. Bỗng có một vệ quân đỏ nhảy ra đường cái nằm rạp xuống đất bắn. Theo sau
anh là người thứ hai rồi người thứ ba... Xéc-gây nhìn thấy họ rõ lắm: họ khom
mình vừa chạy vừa bắn. Một vệ quân đỏ, người Trung Quốc, nghe đại bác nổ vẫn cứ
đuổi địch không thèm nằm xuống. Anh ta nước da xạm màu sương gió, hai mắt sáng
rực, phong phanh manh áo cụt tay, thắt lưng đeo băng đạn súng máy, hai tay lăm
lăm lựu đạn. Chạy như bay tiến trước tất cả mọi người là một đội viên trẻ măng
vác súng liên thanh. Đấy là mũi thứ nhất của quân đỏ đột nhập vào thị xã. Lòng
Xéc-gây rộn lên vui sướng. Anh nhảy bổ ra đường, lớn tiếng hô lên:
- Hoan
hô các đồng chí!
Người vệ
quân Trung Quốc bất ngờ đâm sầm phải cậu thiếu niên ấy, tí nữa xô ngã. Anh đã
chực hăng máu giận xô lại nện cậu bé, song thấy vẻ mặt hớn hở của Xéc-gây thì
lại thôi ngay; giọng thở hổn hển, anh quát hỏi:
-
Pết-lu-ra? Nó chạy đâu?
Song
Xéc-gây còn mải chạy đi chỗ khác, không nghe thấy anh hỏi. Xéc-gây nhảy vào sân
nhà, vớ lấy khẩu súng và bao đạn mà tên nguy trút lại, khoác vào người, rồi hối
hả chạy theo đoàn vệ quân đỏ. Mãi đến khi Hồng quân chiếm lĩnh xong nhà ga
Tây-nam, người ta mới nhận ra Xéc-gây. Sau khi đã chiếm được mấy chuyến xe chở
đạn dược và trang bị, đã đuổi địch chạy vào rừng, quân đỏ dừng lại để nghỉ ngơi
và chỉnh đốn lại đội ngũ. Anh đội viên trẻ giữ súng máy lại gần Xéc-gây ngạc
nhiên hỏi:
- Đồng
chí ở đâu đấy?
- Em
người địa phương, ở thành phố này. Em đợi các đồng chí mãi.
Anh em
Hồng quân xúm quanh lấy Xéc-gây. Anh Trung Quốc mỉm cười hí hửng:
- Tồng
chí này tôi biết. Tôi gặp tồng chí ấy hô: "Hoan hô các tồng chí".
Tồng chí ấy là người anh em ta, một người bôn-sê-vích, tồng chí ấy thanh niên,
tốt lắm.
Và anh
ta vui sướng vỗ vào vai Xéc-gây. Lòng Xéc- gây rạo rực sung sướng. Hồng quân đã
ngay từ đầu nhận Xéc-gây như nhận một người thân. Anh cùng với các anh Hồng
quân giương lưỡi lê trần, xung phong chiếm lấy nhà ga.
( Trong
cuộc nội chiến ở Nga có nhiều đồng chí quốc tế (trong đó có Trung Quốc) tham
gia Hồng quân chiến đấu bên cạnh công nhân và nông dân Xô-viết).
Hàng phố
rộn lên. Dân phố, ẩn lâu đã mệt, tức tốc ra khỏi các hầm nhà, xúm đến đầu đường
xem Hồng quân đang tiến vào. Mẹ Xéc-gây và Va-li-a nhìn thấy Xéc-gây: đang đi
trong hàng ngũ Hồng quân, đầu không mũ, vai vác súng, ngang lưng đeo bao đạn.
Bà mẹ
tức giận giơ tay lên trời la lối.
Thằng
Xéc-gây con bà mà dính vào chuyện đánh nhau! Không thể nào như thế được. Thử
nghĩ xem: ban ngày ban mặt, trước mắt tất cả hàng phố mà vai nó vác súng đi
theo người ta diễu binh. Rồi sau này sẽ ra sao, sau này xảy ra chuyện gì thì
làm thế nào? Những ý nghĩ đó làm bà điên người, không nén được nữa, bà quát lên:
-
Xéc-gây, có xéo ngay về nhà không! Về ngay lập tức! Mày đứng lại tao bảo, thằng
khốn kiếp kia. Ti toe đi bộ đội! Về nhà rồi bà dạy cho mày đi đánh nhau!
Và bà
chạy theo con định lôi lại.
Nhưng
Xéc-gây, chính Xéc-gây mà bà thường củng đầu béo tai, Xéc-gây gườm gườm nhìn
bà. Anh bị mắng thẹn đỏ mặt, nhục quá, ngắt lời mẹ:
- Mẹ la
cũng chẳng được! Con không về đâu.
Và vẫn
rảo bước đi lên.
Bà mẹ
giận sôi người tru tréo:
- Quân
này láo thật. Nó dám mở mồm nói với mẹ nó thế đấy. Được, đã thế mày đừng có bò
về nhà bà nữa nhé!
Xéc-gây
không ngoảnh mặt lại:
- Con
chẳng về nữa đâu.
Bà đứng
sững ở bên đường, ngơ ngác. Những chiến sĩ da rám nắng và người bám đầy bụi
đường diễu qua trước mặt bà. Có tiếng ai chắc nịch nói đùa:
- Má
đừng khóc, má ạ. Chúng con sẽ bầu cậu ấy làm chính ủy.
Cả trung
đội ồ lên cười vui vẻ. Hàng trước của đại đội cất lên giọng đồng ca mạnh mẽ:
Các đồng
chí ơi!Ta đi đều bước.Ra trận tiền, dũng cảm đi lên!Dấn thân mình mở đường tiên
trước.Tới tự do đang chờ ta...
Những
hàng khác hát theo rắn rỏi và giọng Xéc- gây lanh lảnh vang lên trong tiếng hát
chung ấy. Xéc-gây đã tìm được một gia đình mới của mình. Đại đội có thêm một
lưỡi lê, lưỡi lê của Xéc-gây.
Trên
cổng biệt thự nhà Lê-sinh-ski treo một tấm bìa trắng, có đề chữ: "Ủy ban cách
mạng". Bên cạnh là một bức tranh áp-phích đỏ rực: hình một chiến sĩ Hồng
quân trỏ tay và nhìn thẳng vào người qua lại, dưới có hàng chữ: "Anh đã
gia nhập Hồng quân chưa?".
Đêm qua
các cán bộ ban chính trị của sư đoàn đã đem dán những bức áp-phích đó, những
tuyên truyền viên không nói. Ngay cạnh là lời kêu gọi đầu tiên của ủy ban cách
mạng gửi toàn thể nhân dân lao động thành Sê-pê-tốp-ca.
"Các
đồng chí,
Bộ đội
vô sản đã giải phóng thành phố. Chính quyền Xô-viết đã được lập lại Chúng tôi
kêu gọi đồng bào trấn tĩnh.
Lũ khát
máu bài Do-thái đã bị đánh đuổi. Song muốn cho chúng không bao giờ trở lại nữa,
để tiêu diệt hoàn toàn bọn chúng, hãy tham gia đội ngũ Hồng quân. Hãy đem hết
sức ủng hộ chính quyền của nhân dân lao động. Từ nay việc quân chính trong
thành phố do Tư lệnh trưởng đơn vị bảo vệ thành phố chỉ huy. Việc dân chính do
ủy ban cách mạng lãnh đạo.
Chủ tịch
ủy ban cách mạng
ĐÔ-LIN-NHÍCH"
Trong
biệt thự nhà Lê-sinh-ski xuất hiện những người mới đến. Tiếng "đồng
chí" mới hôm qua ai nói đến là mất mạng, hôm nay đi chỗ nào cũng nghe
thấy. Nghe tiếng "đồng chí" ấy, lòng mới rộn ràng xúc động làm sao.
Đô-lin-nhích
thì không còn biết giấc ngủ, biết nghỉ ngơi là gì.
Người
thợ mộc ấy đang tổ chức chính quyền cách mạng.
Trên
cánh cửa một phòng nhỏ của tòa biệt thự, dán một mảnh giấy đề bằng bút chì:
"Đảng ủy". Nơi đây, đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va đang làm việc. I-gơ-
na-chi-ê-va là một cán bộ phụ nữ bình tĩnh, vững vàng. Ban chính trị sư đoàn
giao cho đồng chí và đồng chí Đô-lin-nhích nhiệm vụ tổ chức chính quyền Xô-viết
Mới qua
một ngày đã có đủ những người giúp việc ngồi trong các phòng giấy; tiếng máy
chữ lách cách; hội đồng cung cấp lương thực đã được thành lập. Phụ trách hội
đồng này là Pư-gi-ki, tính nóng nảy sôi nổi. Anh đã làm thợ máy phụ ở xưởng
đường. Với đức tính kiên quyết hiếm có, ngay từ những ngày đầu thiết lập chính
quyền Xô-viết, anh công nhân người Ba Lan ấy đã đả ngay bọn công chức cao cấp
xưởng đường, một lũ giấu mặt ngầm nuôi thù sâu đối với những người bôn-sê-vích.
Trong
hội nghị xí nghiệp, anh đấm mạnh tay xuống bàn, nói với anh em thợ, những lời
thô cộc bằng tiếng Ba Lan, rắn chắc và không khoan nhượng:
- Có
điều chắc chắn là cuộc đời trước đây đã tiệt hẳn rồi. Cha chúng ta, cả chúng ta
nữa, đã suốt đời hùng hục làm thuê cho thằng bá tước Pô-tô-ski. Thế là đủ lắm
rồi. Chúng ta đã xây những tòa lâu đài cho nó, thế mà bá tước "chí tôn chí
kính" chỉ cho chúng ta vừa vặn đủ để khỏi chết đói nhăn răng, đủ sống nai
lưng mà đi làm khổ sai cho chúng nó.
Biết bao
nhiêu năm trời rồi, tất cả lũ bá tước Pô- tô-ski và cả bọn hoàng thân
Xan-gút-cô phè phỡn sống bám trên lưng chúng ta rồi? Ở đây, trong chúng ta
không có khối những thợ Ba Lan bị thằng Pô-tô-ski bóc lột, róc xương, bòn tủy
cũng như bao nhiêu anh em thợ Nga và U-cơ-ren khác đấy ư? Vậy mà có bọn tay sai
của lũ quý tộc tung ra trong công nhân những tin đồn xảo quyệt. Chúng nó bảo
chính quyền Xô- viết sẽ bóp chặt tất cả mọi người.
Đấy là
luận điệu vu khống đểu cáng nhất, các đồng chí ạ. Chưa bao giờ anh em thợ thuộc
mọi thành phần dân tộc được hưởng nhiều quyền tự do như ngày nay. Tất cả vô sản
là anh em. Nhưng còn đối với bọn chủ, bọn quý tộc, đối với tụi chúng nó thì ta
sẽ bóp chặt chúng lại, các đồng chí có thể tin nhất định là như thế.
Tay anh lại
vung lên, rồi lại đập mạnh xuống cạnh bàn:
- Kẻ nào
bắt chúng ta phải làm đổ máu những người anh em của chúng ta? Bọn vua quan, từ
bao nhiêu thế kỷ nay, đem nông dân Ba Lan đánh dân Thổ Nhĩ Kỳ và bao giờ cũng
đem một dân tộc này xông vào đánh giết cướp phá một dân tộc khác. Biết bao nhiêu
mạng người bị tàn sát, biết bao tai họa trút xuống đầu nhân dân. Kẻ nào cần
chuyện giết người như vậy? Có phải chúng ta không? Nhưng rồi chúng ta sẽ làm
cho không còn những chuyện như thế nữa. Bọn hút máu loài người đã hết thời rồi.
Người bôn-sê-vích đã tung ra khắp thế giới những câu nói làm bọn tư sản khiếp
sợ: "Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại!" Có thế chúng ta mới cứu
đời chúng ta được. Có thế ta mới hy vọng được có ngày mai sung sướng, khi tất
cả thợ thuyền đã đoàn kết bốn bể một nhà. Các đồng chí, hãy gia nhập Đảng cộng
sản!
Cũng sẽ
có một nước Cộng hòa Ba Lan, nhưng là một nước Cộng hòa Xô-viết. Một nước Cộng
hòa không có lũ Pô-tô-ski, lũ chúng nó thì chúng ta sẽ tiêu diệt đến tận gốc
rễ. Trong nước Ba Lan Xô-viết đó, tự chúng ta sẽ làm chủ. Có ai là không biết
bạn nghề của chúng ta là Bơ-rô-ních? Anh ấy giờ được chỉ định làm ủy viên nhân
dân phụ trách xí nghiệp chúng ta. Bài hát chính thức của chúng ta nói sao?
"Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa. Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay
mình". Thật như thế đấy. Các đồng chí, đối với chúng ta sẽ là những ngày
vui như hội. Nhưng, các đồng chí đừng có nghe lời của lũ rắn độc giấu đầu! Nếu
lòng tin cậy của giai cấp công nhân ta có thể giúp chúng ta làm được thì chúng
ta sẽ làm cho các dân tộc trên thế giới đoàn kết thân yêu lẫn nhau.
Những
lời nói mới lạ đó, anh đã nói ra từ đáy lòng giản dị của người công nhân.
Khi anh
nói xong, từ trên diễn đàn bước xuống, đám thanh niên hết sức cảm tình nhiệt
liệt hoan hô anh, biểu đồng tình với anh.
Nhưng
những người lớn tuổi chưa dám công khai tán thành. "Biết đâu đấy? Nhỡ mai
bôn-sê-vích lại rút lui, thì rồi lại phải vạ miệng. Nếu không bị treo cổ thì
chắc ít ra cũng bị đuổi khỏi nhà máy".
Ủy viên
nhân dân phụ trách giáo dục là ông giáo Sê-nô-pư-ski, người gầy, mảnh khảnh, bé
loắt choắt. Hiện nay trong số các giáo viên địa phương chỉ mới có Sê-nô-pư-ski
là người hết lòng với bôn-sê-vích mà thôi.
Đại đội
"công tác đặc biệt" đóng đối diện trụ sở ủy ban cách mạng, làm trách
nhiệm bảo vệ ủy ban. Chiều đến, một khẩu súng máy Mắc-xim, với băng đạn lòng
thòng như con rắn, đặt chồm chỗm ngay trước cửa, sẵn sàng đối phó với mọi
chuyện bất trắc. Bên cạnh khẩu súng máy, hai chiến sĩ đứng gác cầm súng trường.
Nữ đồng
chí I-gơ-na-chi-ê-va đến trụ sở ủy ban thì để ý ngay đến người vệ quân đỏ trẻ
măng trong số hai người đó.
- Đồng
chí bao nhiêu tuổi?
- Tôi
mười sáu rồi.
- Đồng
chí người địa phương?
Anh lính
trẻ mỉm cười:
- Vâng,
tôi vào bộ đội mới hôm kia, giữa lúc ta đang đánh vào thành phố.
I-gơ-na-chi-ê-va
nhìn kỹ người chiến sĩ trẻ:
- Ông cụ
đẻ ra đồng chí làm gì?
- Thợ
máy phụ.
Giữa lúc
ấy, Đô-lin-nhích cùng với một quân nhân nào nữa bước vào biệt thự. Nữ đồng chí
I-gơ-na-chi- ê-va quay lại nói với Đô-lin-nhích:
- Anh
này, tôi đã tìm được người cán bộ tổ chức cho khu đoàn thanh niên cộng sản rồi
đó. Đồng chí này là người địa phương.
Đô-lin-nhích
đưa mắt nhìn Xéc-gây:
- À, té
ra con bác Bơ-ru-giắc! Còn đợi gì nữa, em đi tổ chức bọn trẻ lại.
Xéc-gây
ngạc nhiên, nhìn các đồng chí lãnh đạo:
- Thế
còn đại đội tôi?
Đô-lin-nhích
đã chạy lên bậc thềm còn ngoái lại:
- Việc
đó đã có bọn mình thu xếp.
Chiều
hôm sau, Đoàn ủy địa phương của Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren được thành
lập.
Cuộc đời
mới ập đến bất ngờ. Xéc-gây bị cuốn vào cơn gió lốc của phong trào, say sưa
hiến tất cả cho phong trào. Anh chẳng nghĩ gì đến gia đình, tuy nhà ở ngay gần
đây thôi.
Xéc gây
đã thành một người bôn-sê-vích. Có đến mười lần anh rút trong túi ra xem mảng
bìa trắng có ghi dòng chữ Đảng cộng sản bôn-sê-vích U-cơ-ren chứng nhận anh là
đoàn viên thanh niên cộng sản và bí thư cấp ủy. Ai mà có ý không tin điều đó
thì cứ nhìn thắt lưng Xéc-gây khắc biết, thắt lưng đeo bao súng may tạm bằng
vải bạt trong có khẩu súng ngắn Man-li-khe rất oai, món quà của Pa-ven thân
thiết gửi lại. Đó là một thứ giấy chứng minh không gì giàu sức thuyết phục hơn.
Chà, cậu Pa-ven lại không có ở đây mới tiếc làm sao!
Suốt cả
ngày, Xéc-gây chạy công tác của ủy ban cách mạng giao cho. Giờ thì nữ đồng chí
I-gơ-na-chi- ê-va đang đợi anh. Hai người sẽ đi lên ga, vào ban chính trị sư
đoàn, lấy tài liệu tuyên truyền và sách báo cho ủy ban cách mạng. Xéc-gây chạy
bổ ra đường. Đồng chí cán bộ ban chính trị ngồi xe hơi đợi hai người ngay ngoài
cửa ủy ban.
Đường
lên ga khá xa. Ban tham mưu và ban chính trị của sư đoàn U-cơ-ren Xô-viết thứ
nhất đóng ngay trên các toa xe lửa nhà ga. Tranh thủ lúc đi đường,
I-gơ-na-chi-ê-va hỏi Xéc-gây:
- Hôm
nay về ngành của chú, chú đã làm được gì rồi. Đã gây được cơ sở chưa? Chú phải
tuyên truyền vào các bạn bè của chú, những con em công nhân ấy. Không chậm trễ
được, phải tổ chức ngay nhóm thanh niên cộng sản. Ngay ngày mai chúng ta sẽ
thảo và cho in lời kêu gọi của Đoàn thanh niên cộng sản. Sau đó tập hợp thanh
niên mít-tinh ở rạp hát. Lát nữa đến ban chính trị, chị sẽ giới thiều với chú cô
Ri-ta Uất-chi-nô-vích. Nếu chị không lầm thì cô ta phụ trách công tác thanh
niên thì phải.
Ri-ta là
một thiếu nữ mười tám tuổi, tóc nâu cắt ngắn, mặc chiếc áo va-rơ ka-ki mới,
ngang lưng có thắt dây da nhỏ bản. Gặp Xéc-gây, Ri-ta đã nói cho anh nghe rất
nhiều điều mới và hứa giúp Xéc-gây trong công tác. Khi Xéc-gây ra về, Ri-ta đã
đưa cho anh một bó tài liệu dày, và đặc biệt là có giao tận tay anh một cuốn
sách nhỏ: cương lĩnh và điều lệ của Đoàn thanh niên cộng sản.
Mãi tới
khuya, nữ đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va và Xéc- gây mới về đến ủy ban cách mạng. Về
đến nơi thì Va-li-a đang đứng đợi ở vườn, trông thấy anh là gay gắt trách ngay:
- Gớm,
anh không biết xấu. Thế nào, anh định từ bỏ hẳn nhà hay sao? Tại anh cho nên mẹ
khóc mấy ngày, thầy giận lắm. Nếu cứ để thế mãi thì không tốt đâu.
- Không
hề gì đâu, Va-li-a ạ. Anh thật tình hết sức bận, không có thời giờ về nhà, anh
nói thật đấy. Hôm nay nữa anh cũng không về nhà đâu. Nhưng Va-li-a ơi, anh cần
nhờ em việc này. Em đi vào đây. Anh phải nói với em mới được.
Va-li-a
khó mà nhận ra đấy là anh mình nữa. Xéc gây thay đổi hẳn, hình như có ai bắt
điện vào người anh.
Xéc gây
kéo em ngồi xuống ghế đâu đấy, rồi đi thẳng ngay vào câu chuyện.
- Chuyện
thế này đây. Em phải vào Đoàn. Em không hiểu à? Vào Liên đoàn thanh niên cộng
sản. Đoàn do anh làm chủ tịch. Em không tin à? Đây đọc đi!
Va-li-a
đọc chứng minh thư và sửng sốt nhìn anh:
- Em vào
Đoàn thì làm gì được?
Xéc-gây
dang rộng cánh tay:
- Làm gì
à? Em tưởng không có việc cho em làm à? Đây này, bà cụ non ạ, mấy đêm nay là
anh không ngủ. Phải ra sức tuyên truyền. Nữ đồng chí I-gơ-na- chi-ê-va bảo là
sẽ tập hợp tất cả thanh niên ở nhà hát để giải thích cho họ biết về chính quyền
Xô-viết. Đồng chí ấy lại bảo anh phải đọc diễn văn. Anh thì anh nghĩ rằng nữ đồng
chí ấy đã lầm, vì anh chẳng biết đọc diễn văn ra sao, giao cho anh thì đến hỏng
mất... Sao, em nghĩ về Đoàn thế nào?
- Em
không biết thế nào. Nếu vào thì mẹ lại càng giận hơn nữa thôi.
-
Va-li-a ạ, em đừng có nghe mẹ. Mẹ không hiểu tí gì đâu. Mẹ chỉ nghĩ có một
điều: giữ rịt con cái ở bên mình. Kể thì không phải là mẹ không ưa chính quyền
Xô-viết. Trái lại, mẹ còn cảm tình nữa là đằng khác. Song mẹ chỉ muốn cho con
cái nhà khác đánh nhau ngoài mặt trận, chứ không phải là con mình. Như thế có
đúng không? Em có nhớ anh Giu-khơ-rai nói gì với chúng ta không? Em thử xem Pa-ven, Pa-
ven có nghe mẹ cậu ấy đâu. Bây giờ chúng ta có quyền sống cho ra sống. Va-li-a
ạ, em không thể từ chối việc vào Đoàn được. Kể hai anh em mình mà cùng công tác
thì tốt biết chừng nào. Em hoạt động trong đám con gái, còn anh công tác bọn
con trai. Còn thằng quỷ Cơ-lim-ca tóc đỏ, anh sẽ kết nạp nó ngay hôm nay. Em
quyết định đi nào. Sao... em vào hay không? Đây quyển sách này sẽ giải thích
tất cả cho em mọi điều.
Xéc-gây
móc túi lấy cuốn sách đưa cho em. Va-li- a nhìn anh không rời mắt, thấp giọng
hỏi anh:
- Nhưng
nhỡ bọn Pết-lu-ra nó trở lại thì sẽ ra sao hở anh?
Lần đầu
tiên Xéc-gây nghĩ đến điều có thể xảy ra đó.
- Nó trở
lại ấy à, anh thì thế nào cũng đi với anh em rồi. Nhưng còn em thì thế nào nhỉ?
Mẹ chắc sẽ khổ lắm. - Nói đến đây Xéc-gây lặng người đi, im bặt.
- Anh cứ
ghi tên em vào, anh Xéc-gây ạ, nhưng giữ kín đừng cho mẹ biết, cũng đừng cho ai
biết cả. Chỉ riêng anh và em biết thôi. Em sẽ giúp anh mọi việc nhưng đừng cho ai
biết cả thì lợi hơn.
- Em nói
phải đấy, Va-li-a ạ.
Giữa lúc
đó, I-gơ-na-chi-ê-va bước vào phòng.
- Đồng
chí I-gơ-na-chi-ê-va, đây là Va-li-a, em gái tôi. Tôi đã nói chuyện với Va-li-a
về lý tưởng của ta. Va-li-a hoàn toàn đủ tiêu chuẩn vào Đoàn, đồng chí ạ. Nhưng
chỉ phải cái là mẹ chúng tôi khó tính. Đồng chí xem có thể kết nạp Va-li-a mà
giữ kín không cho ai biết được không? Vì giá thử ta có phải rút lui, tôi thì dễ
lắm, tôi thì thế nào cũng vác súng đi rồi, nhưng còn Va-li-a, nó thương mẹ
không nỡ rời đi được.
Nữ đồng
chí I-gơ-na-chi-ê-va ngồi ở cạnh bàn, lắng tai nghe Xéc-gây, rồi nói:
- Kết
nạp như thế cũng được. Mà lại càng tốt nữa.
*
Rạp hát
đầy chật đám thanh niên ồn ào. Họ thấy có áp-phích dán báo có mít tinh thì kéo
nhau đến đây. Đội nhạc của công nhân máy đường đến giúp vui. Công chúng hôm nay
gần như gồm rặt học trò ly-xê cả trai lẫn gái, và học sinh trường tiểu học.
Họ kéo
nhau đến đây vì mít-tinh thì ít, mà vì nghe nói có biểu diễn văn nghệ thì
nhiều.
Màn kéo
lên. Đồng chí Ra-din bí thư quận đoàn, người nhỏ, gầy, mũi nhọn nhọn vừa mới ở
quận về bước ra sân khấu. Đồng chí nói được thính giả chăm chú nghe, nói về
cuộc đấu tranh đang tràn lan khắp nước và kêu gọi thanh niên đoàn kết chung
quanh Đảng cộng sản. Đồng chí nói như một tay hùng biện thật, song bài nói lủng
củng nhiều danh từ phức tạp như "mác-xít chính phái", "xã hội vị
chủng" v.v..., những chữ ấy tất nhiên người nghe không hiểu nghĩa là gì
cả.
Đồng chí
nói xong được vỗ tay ran tán thưởng. Đồng chí nhường lời cho Xéc-gây, rồi đi về
ngay.
Cái việc
mà Xéc-gây rất ngại đã đến. Bài nói chưa chuẩn bị xong. "Nói gì? Nói về
cái gì?". Xéc-gây cố nghĩ ra lời mà nói, song chẳng ra được câu gì hết,
đầu óc đảo lộn rối bời.
Chị
I-gơ-na-chi-ê-va ngồi ở bàn chủ tịch khẽ nhắc Xéc-gây: "Nói về tổ chức chi
đoàn".
Xéc-gây
liền nói ngay vào các vấn đề công tác thực tế.
- Tất cả
các đồng chí đã nghe rõ rồi. Bây giờ chúng ta cần thành lập chi đoàn. Vậy ai
tán thành đề nghị của tôi?
Cả phòng
trở nên im lặng.
Ri-ta đỡ
lời cho Xéc-gây, Ri-ta bắt đầu nói về tổ chức thanh niên ở Mát-xcơ-va. Còn
Xéc-gây thì ngượng nghịu đứng tránh ra bên.
Thái độ
của người nghe có vẻ thờ ơ đối với việc tổ chức chi đoàn làm cho Xéc-gây thêm
bối rối. Anh hằn học nhìn cử tọa. Ri-ta nói, thính giả cũng không chú ý nghe. Thằng
Da-li-va-nốp thì nhìn Ri-ta có vẻ khinh ra mặt, hắn ghé tai thì thầm cái gì với
con bé Li-da. Bọn học trò con gái lớp trên ở ly-xê, mũi bé bằng tí đánh phấn,
thì ngồi ở mấy hàng ghế đầu, liếc ngang, liếc dọc, những cái liếc giết người.
Bọn nó nói chuyện thì thào với nhau không dứt. Ở một góc rạp, gần chân thang
bước lên sân khấu là nhóm thanh niên Hồng quân nhà mình, và giữa đám anh em ấy,
Xéc-gây nhận ra anh chàng đội viên súng máy quen biết. Anh ta ngồi gần mép sân
khấu, đang bực dọc lắm, đầy căm tức nhìn con Li-da và con An-na diện ngất trời.
Cả hai đứa đang ngang nhiên tán chuyện với kép chẳng biết ngượng là gì.
Cảm thấy
mình nói không ai nghe, Ri-ta liền kết luận nhanh bài nói và nhường lời cho chị
I-gơ-na- chi-ê-va. Tiếng nói ôn tồn của chị làm phòng họp yên lặng chăm chú.
Chị nói:
- Các
đồng chí thanh niên, các đồng chí mỗi người hãy suy nghĩ kỹ những điều nghe
được tối nay. Tôi tin chắc rằng trong số các đồng chí sẽ có những người đến với
cách mạng để làm những chiến sĩ tích cực, chứ không phải là những khán giả xem
chơi. Đoàn thanh niên sẵn sàng mở cửa đón các đồng chí, tùy các đồng chí quyết
định lấy. Để các đồng chí tự mình phát biểu ý kiến của mình thì hơn. Xin mời
những ai muốn phát biểu lên phát biểu ý kiến.
Phòng
họp lại im lặng. Ở tít hàng ghế cuối phòng, có tiếng vang lên:
- Tôi
xin nói!
Một
thanh niên mắt hơi lác, trông như con gấu con, bước lên diễn đàn. Thanh niên ấy
là Mi-sa Lép-súc.
- Đồng
chí vừa rồi đã nói thế thì tôi xin có ý kiến. Nếu cần ủng hộ những người
bôn-sê-vích thì tôi không bao giờ từ chối. Đồng chí Xéc-gây đã biết tôi đấy,
tôi xin ghi tên vào Đoàn thanh niên cộng sản.
Xéc-gây
mỉm cười, mặt mày tươi rạng.
Anh nhảy
ra đứng giữa sân khấu:
- Tôi
biết đồng chí này. Mi-sa là một thanh niên của ta. Cha anh là thợ bẻ ghi, bị xe
lửa kẹp chết, vì thế cho nên anh không được đi học. Các đồng chí xem đấy anh
hiểu ngay nhiệm vụ phải làm, tuy chẳng có học qua ly-xê nào cả.
Cử tọa
la ó nhao nhao lên. Một cậu học trò tóc uốn quăn xin phát biểu: trò ấy tên là
Ô-cu-sếp, con lão dược sĩ. Ô-cu-sếp xốc áo đứng dậy nói:
- Xin
lỗi các đồng chí, chứ tôi không hiểu người ta muốn đòi chúng tôi làm gì. Muốn
chúng tôi làm chính trị ư? Vậy thì bao giờ chúng tôi mới được học? Chúng tôi
phải học cho xong ly-xê. Vâng, nếu các đồng chí mời chúng tôi vào hội thể thao
hay cùng nữa vào câu lạc bộ để đọc sách báo thì chúng tôi không có chối từ.
Song đi làm chính trị để rồi nhỡ ra thời thế thay đổi bị treo cổ ư? Xin lỗi các
đồng chí thôi. Tôi dám chắc rằng chẳng có ai đồng ý đi làm chuyện đó cả đâu.
Tiếng
cười rộ khắp gian phòng. Ô-cu-sếp bước xuống và ngồi lại chỗ. Anh bộ đội giữ
súng máy hùng hổ kéo chụp mũ cát-két xuống trán, nhảy lên chỗ diễn đàn tức giận
quắc mắt nhìn khắp lượt các dãy ghế, rồi thét lên:
- Chúng
mày cười à, hở đồ khốn nạn?
Đôi mắt
rừng rực cháy như hai cục than hồng, anh vừa nói vừa thở, giọng nói và toàn
thân run lên tức giận:
- Tên
tôi là Giác-ky I-văng. Tôi không biết cha mà cũng không biết mẹ tôi là ai. Tôi
là một đứa trẻ mồ côi, sống cầu bơ cầu bất, ngày lang thang hè phố, đêm lăn ra
ngủ ở bờ giậu bờ rào. Đói khát không có chỗ nương thân. Đời khổ sở như chó, chứ
không như hạng chúng mày toàn là con cái những nhà giàu sụ. Ngày nay chính
quyền Xô-viết đến rồi. Các anh Hồng quân thu nạp tôi vào một trung đội đã nuôi
tôi, cho ăn, cho mặc, cho giày đi, dạy cho tôi học, và chủ yếu là đã làm cho
tôi giác ngộ. Nhờ đó mà tôi thành một người bôn-sê-vích và tôi nguyện làm một
người bôn- sê-vích cho đến chết. Tôi, tôi biết lắm, vì sao phải chiến đấu. Vì
chúng tôi, vì những người cùng khổ, vì chính quyền công nhân. Chúng mày ngồi
đấy mà nhạo báng, mà cười hí như một đàn ngựa, chúng mày không biết là ngay sát
thành phố này, hai trăm đồng chí đã ngã, đã vĩnh viễn hy sinh... - Nói đến đây,
giọng Giác-ky rung lên như một dây đàn kéo căng. - Những đồng chí đó đã không
hề do dự, đã hiến cả đời mình cho hạnh phúc của chúng ta, cho sự nghiệp của
chúng ta... Và trên khắp đất nước, biết bao nhiêu đồng chí nữa đã hy sinh trên
các mặt trận. Thế mà giữa lúc đó, bọn chúng mày còn ngồi yên, đỏng đảnh, ngoảnh
mặt đi...
Rồi
Giác-ky, quay mặt về phía chủ tịch đoàn, giơ tay chỉ đám cử tọa:
- Các
đồng chí lại đi kêu gọi những quân ấy ư? Đồ chúng nó mà lại hiểu được hay sao?
Không! Một đứa thừa ăn với một người chết đói không đi đôi với nhau được. Mấy
trăm mặt mà chỉ có một tiếng đáp lại chúng ta thôi. Bởi vì đấy chính là tiếng
nói của một cậu bé mồ côi cùng khổ. - Anh quay lại phía cử tọa hét lên giận dữ.
- Còn hạng chúng mày thì chúng tao không cần đến mặt chúng mày. Chúng tao không
phải cầu xin chúng mày ủng hộ! Đồ chúng mày chỉ làm vướng cẳng chúng tao thôi.
Hơi thở hầm
hập, Giác-ky kết luận:
- Những
quân này, chỉ đem lia quách một băng đi cho rảnh !
Anh từ
diễn đàn chạy xuống chẳng thèm nhìn ai, bước thẳng ra ngoài cửa.
Chủ tịch
đoàn không một ai ở lại dự dạ hội. Trên đường về ủy ban cách mạng, Xéc-gây nói,
giọng chán nản:
- Thật
là nhỡ tàu. Giác-ky nó nói thế mà đúng. Chẳng được tích sự gì, cái đám học sinh
ấy. Lũ chúng nó, thật ghét mặt.
I-gơ-na-chi-ê-va
ngắt lời:
- Điều
đó không lấy gì làm lạ: hầu hết không phải là thanh niên vô sản. Phần lớn hoặc
là đám thanh niên tiểu tư sản hoặc là lớp trí thức thành thị, lũ thanh niên
nhởn nhơ. Phải tiến hành công tác ở trong quần chúng thanh niên công nhân. Dựa
vào đám thanh niên máy cưa và máy đường. Song, cuộc mít-tinh không vô ích đâu:
trong anh chị em học sinh có những phần tử tốt đấy.
Ri-ta
cũng đồng ý với I-gơ-na-chi-ê-va:
-
Xéc-gây ạ, nhiệm vụ chúng ta là không ngừng tuyên truyền in sâu vào óc mỗi
người những tư tưởng và những khẩu hiệu của chúng ta. Mỗi việc xảy ra, Đảng
phải giải thích bình luận cho quần chúng cần lao hiểu. Chúng ta sẽ tổ chức một
loạt những cuộc mít-tinh, những cuộc hội nghị, những cuộc đại hội. Ban chính
trị đang mở hội nhà hát mùa hè ở trên ga. Ít lâu nữa sẽ có một chuyến tàu tuyên
truyền đến. Lúc đó chúng ta có thể phát triển phong trào. Xéc-gây hãy nhớ lời
Lê-nin. Lê-nin đã nói: chúng ta sẽ không bao giờ thắng được, nếu ta không lôi
cuốn vào cuộc đấu tranh những khối đông đảo quần chúng cần lao.
Xéc-gây
đưa Ri-ta về nhà ga thì đã khuya. Lúc bắt tay từ giã nhau, anh nắm lấy bàn tay
Ri-ta, siết rất chặt và giữ trong tay mình một giây. Ri-ta thoang thoáng mỉm
cười.
Trước
khi về trụ sở, Xéc-gây còn tạt thăm nhà.
Mẹ anh
la lối om sòm, anh vẫn im không nói. Nhưng đến khi cha cũng nói chen vào thì
anh không giữ được nữa, quay ra nói lại, khiến cha không còn biết nói thế nào.
- Thầy
để cho con nói. Con hỏi thầy cái ngày quân Đức ở đây thầy bỏ việc, bãi công,
lại thịt cả thằng lính gác trên xe lửa nữa thì thầy có nghĩ đến nhà không? Thầy
có nghĩ chứ, song thầy vẫn làm bởi vì ý thức của người thợ bắt thầy phải làm
như thế. Thì ngày nay, con cũng nghĩ như thầy, con cũng nghĩ đến nhà. Con biết,
nếu quân ta phải bỏ đất này mà đi thì nhà vì con cũng có thể bị chúng làm rầy
đấy. Song, nếu chúng con đánh thắng, Hồng quân đánh thắng thì thắng lợi là
thắng lợi chung của giai cấp công nhân ta. Con không thể cứ khoanh tay ngồi ở
nhà được, thầy ạ. Thầy chắc hiểu cho con. Thế mà nhà còn cứ mè nheo con làm gì?
Thầy biết con đi vào con đường phải, thầy phải nâng đỡ con, giúp con mới phải
chứ. Đằng này, thầy lại cũng nhiếc móc con. Con xin thầy nghĩ lại, thầy đừng
nói con nữa, thầy không nói con thì con tin là mẹ con cũng thôi không kêu nữa.
Đôi mắt
xanh và trong của Xéc-gây nhìn thẳng vào cha, dịu dàng mỉm cười, tin chắc là
mình có lý.
Bác
Bơ-ru-giắc ngồi trên ghế dài, bối rối, nhếch đôi ria mép rậm và chòm râu đâm
tua tủa cười xòa, lộ ra hai hàm răng vàng khè.
- Thằng
quái, mày lại định dạy khôn tao đấy hả? Mày tưởng mày giờ có súng thì tao sợ
không dám đánh đòn mày đấy chắc?
Trong
giọng nói của bác không có gì là đe dọa cả. Lúng ta lúng túng, bác chìa bàn tay
nổi chai ra bắt chặt tay con:
- Thôi,
con đi. Con đang đi lên chả nhẽ thầy lại hãm con lại. Chỉ cốt một điều là đừng
có quên chúng tao, thỉnh thoảng con xin phép anh em về nhà chơi, Xéc-gây nhé!
Bấy giờ
là đêm. Cánh cửa mở hé hắt ra một vệt ánh sáng chiếu lên những bậc thềm. Trong
gian phòng lớn kê ghế đi-văng đệm mềm lót da thú non, năm người ngồi quanh
chiếc bàn giấy rộng nhà lão luật sư Lê-sinh-ski. ủy ban cách mạng đang họp ở
đấy. Đô-lin-nhích, I-gơ-na-chi-ê-va, chủ tịch ủy ban đặc biệt là Chi-mô-sen-cô
đội mũ lông, trông giống như người dân Kiếc-ghi, và hai ủy viên ủy ban cách
mạng là Su-đích, công nhân đường sắt, người cao lêu nghêu như cây sào, và anh
công nhân sở đầu máy xe lửa mũi tẹt tên là Ô-sta-súc.
Đô-lin-nhích,
ngả người xuống bàn, nhìn chằm chằm thẳng vào mặt nữ đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va,
giọng khàn khàn, dằn từng tiếng:
- Phải
bảo đảm cung cấp cho mặt trận. Công nhân cũng cần ăn. Thế mà từ khi ta vào đây,
bọn nhà buôn, bọn đầu cơ tăng vọt giá cả. Chúng không chịu bán hàng lấy tiền
Xô-viết, mà chỉ nhận lấy giấy bạc "Ni- cô-lai" hoặc giấy bạc
"Kê-răng-ski" thôi. Ngay hôm nay đây, ta phải định giá các mặt hàng.
Chúng ta cũng hiểu chán là bọn đầu cơ không chịu bán theo giá ta hóa giá đâu.
Thế nào chúng cũng găm lại. Lúc đó ta sẽ khám xét và trưng thu hết hàng của bọn
bóc lột ấy. Không thể cứ nhẹ tay mãi được. Ta không thể để yên mãi cho anh chị
em công nhân chết đói được. Đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va khuyên chúng ta thận
trọng, chớ có làm mạnh quá. Tôi thì tôi gọi ngay cái lối dè dặt ấy là tính chất
nhu nhược của trí thức đấy. l-gơ-na-chi-ê-va đừng giận. Tơi thấy thế nào thì
nói như thế. Vả chăng, ta có làm gì các nhà buôn nhỏ và bà con buôn thúng bán
mẹt đâu. Người ta báo cho tôi biết trong nhà của lão chủ quán Dô-na có một cái
hầm bí mật. Trước khi quân Pết-lu-ra tới, bọn buôn sụ đã giấu ở đấy nhiều hàng
tích trữ lắm.
(Giấy
bạc "Ni-cô-lai : giấy bạc của Nga hoàng. Giấy bạc "Kê-răng-ski: tiền
của chính phủ lâm thời- chính phủ tư sản phản động)
Đô-lin-nhích
đưa mắt nhìn Chi-mô-sen-cô có vẻ châm biếm, Chi-mô-sen-cô hỏi lại một cách ỉu
xìu:
- Sao
cậu biết được?
Thấy
Đô-lin-nhích biết mọi chuyện trước cả mình, Chi-mô-sen-cô đâm ra bực bội vì
đáng lẽ ra anh là người phải biết những chuyện đó trước tiên. Đô-lin- nhích
cười:
- Hê hê.
Tớ biết tất, ông anh ạ, - ngừng một lát, anh tiếp: Tớ không những biết cái hầm
mà lại còn biết cả chuyện hôm qua cậu và đồng chí lái xe của sư đoàn trưởng đã
tu cạn với nhau một nửa lít rượu nữa kia.
Chi-mô-sen-cô
ngồi không yên trên ghế. Nước da mặt vàng vàng bỗng đỏ ửng lên. "Chà!
Thánh thật!" Chi-mô-sen-cô kêu lên giọng đầy khâm phục, nhưng nhìn thấy
I-gơ-na-chi-ê-va cau mày, thì lại im ngay. Rồi nhìn Đô-lin-nhích nghĩ thầm:
"Gớm, thằng cha thợ mộc này quỷ quái thật. Chắc lại có tình báo riêng gì
đây".
Tiếng
Đô-lin-nhích nói tiếp:
- Chính
chú bé Xéc-gây đã cho tôi biết đấy. Xéc- gây có người bạn làm ở hàng cơm nhà
ga. Những người nấu bếp kể cho bạn Xéc-gây biết là trước kia lão chủ Dô-na giao
hàng cho họ, cần bao nhiêu cũng có. Hôm qua thì Xéc-gây đã có tin chắc chắn:
hầm thì có hẳn đi rồi, nhưng phải biết hầm đó ở đâu mà tìm. Đấy, Chi-mô-sen-cô
hãy chọn một số anh em đi sục ngay đi bảo cả Xéc-gây đi theo nữa. Phải làm thế
nào để trong hôm nay truy cho ra cái kho. Truy ra thì có cái để cung cấp cho
anh chị em thợ và bộ đội của sư đoàn.
Nửa giờ
sau, tám người có súng ập vào nhà lão chủ quán Dô-na. Hai người đứng gác ngoài
cửa.
Lão chủ
béo quay, bụng phệ, tròn trùng trục như cái thùng rượu, tóc hung lởm chởm dựng
ngược; chiếc chân giả bằng gỗ đi lộp cộp trên sàn, hắn chạy ra khúm núm trước
những người mới đến, giọng mũi khàn khàn, thì thào khẽ thưa:
- Dạ,
các đống chí đến có việc gì đấy ạ? Sao lại đến khuya thế này ạ?
Mấy đứa
con gái lão chủ, đứng sau lưng lão ta, chúng vừa thức dậy, hãy còn khoác áo
choàng ngoài, ánh đèn pin của Chi-mô-sen-cô làm chúng nheo mắt lại. Buồng bên
cạnh, mụ vợ phốp pháp của lão vừa mặc lại quần áo vừa kêu rên.
Không
nói quanh co, Chi-mô-sen-cô trả lời:
- Chúng
tôi đến khám nhà ông.
Họ dõi
từng viên gạch nền nhà. Rồi cái nhà dưới chất đầy củi, ngoài kho, trong bếp,
cái hầm xếp rượu rộng thênh thang chỗ nào cũng lục soát thật kỹ, nhưng không
thấy tăm hơi cái hầm bí mật giấu hàng đâu cả.
Trong
chiếc buồng nhỏ cạnh bếp, người ở gái nhà chủ quán đã ngủ say lắm chẳng còn
biết có người nào vào nhà nữa. Xéc-gây khẽ lay cô ta dậy hỏi: "Cô làm cho
nhà này phải không?".
Cô ta
còn ngái ngủ, thấy hỏi lạ quá, rụt vai vào chăn, lấy tay che mắt bị chói ánh
đèn, rồi không hiểu đầu đuôi ra sao, hỏi lại: "Phải, em là con ở. Thế còn
các anh, các anh là ai?".
Xéc-gây
nói cho cô ta rõ và đi ra để cô ta mặc quần áo đứng dậy.
Chi-mô-sen-cô
hỏi lão chủ quán ở trong phòng ăn rộng lớn. Lão này thở phì phì, nổi cáu, kêu
la:
- Các
đồng chí bắt chúng tôi thế nào nữa? Nhà tôi không có cái hầm nào khác cả. Các
đồng chí thấy đấy các đồng chí xét lắm, tôi cam đoan là chỉ mất thời giờ thôi.
Trước, tôi có cửa hàng rượu này. Giờ thì hết rồi. Nghèo xơ nghèo xác. Bọn
Pết-lu-ra cướp hết nhẵn, suýt nữa chúng giết cả tôi. Chính phủ Xô- viết ta về,
tôi mừng lắm. Nhưng còn của cải của tôi có bao nhiêu thì các đồng chí thấy cả
đấy. - Và hắn xòe những ngón tay chuối mắn ra. Đôi mắt gian đầy tia máu đỏ của
hắn hết nhìn Chi-mô-sen-cô đến nhìn Xéc-gây, hết nhìn Xéc-gây lại nhìn vào góc
nhà, rồi nhìn lên trần.
Chi-mô-sen-cô
cắn môi bực tức:
- Nghĩa
là ông vẫn cứ giấu? Một lần cuối cùng, tôi bảo ông phải chỉ cho chúng tôi hầm
giấu hàng đâu.
Mụ vợ
nói chen vào:
- Đồng
chí bộ đội dạy thế nào ạ? Chúng cháu đói khát, khổ sở, đang chết dở. Họ lấy hết
sạch sành sanh của nhà cháu.
Mụ định
khóc, nhưng khốn nỗi chẳng rặn được ra hột nước mắt nào cả.
- Nhà mụ
chết dở vậy mà vẫn nuôi được con ở. - Xéc-gây đưa ra nhận xét ấy.
- Con ở
gì nó hở trời! Nó là con bé không cửa không nhà, khổ sở, không có chỗ nương
thân, chúng cháu thương hại đem về nuôi. Đấy cứ để cho con Khơ-ri- chi-na nó
nói cho các ông nghe xem có thật không.
Chi-mô-sen-cô
sốt ruột quát lên:
- Thôi
được, ta cứ tiếp tục khám đi!
Sáng rõ
rồi, mà trong nhà lão chủ quán anh em vẫn tiếp tục khám xét ráo riết.
Chi-mô-sen-cô bực mình vì đã mất mười ba tiếng liền tìm tòi không có kết quả.
Anh đã định thôi không khám nữa. Xéc-gây đã định bỏ đi, bỗng nhiên nghe thấy
trong buồng xép người ở gái có tiếng thì thào khe khẽ của Khơ-ri-chi-na.
- Cái
hầm đâu ở trong bếp, dưới cái lò bánh ấy.
Trong
mười phút, cái lò to tướng đã bị dỡ đi, để lộ nắp hầm bằng sắt. Một giờ sau,
chiếc xe cam nhông chở đầy thùng và bao nặng từ nhà tên chủ quán rời đi, giữa
một đám đông tò mò xúm lại xem.
*
Một ngày
nóng bức, bà mẹ Pa-ven cắp gói con quần áo trở về nhà. Nghe A-rơ-chom kể chuyện
lại về Pa- ven, bà khóc thương, lòng đau xót. Từ đấy, bà cụ sống những ngày đau
buồn. Không còn gì ăn nữa, phải nhận quần áo anh em bộ đội về giặt. Anh em trả
công, cấp cho bà phiếu một khẩu phần lương thực của bộ đội.
Vào một
buổi chiều, A-rơ-chom đi làm về, bà cụ trông qua cửa sổ, thấy anh đi rảo bước
khác mọi ngày. Vừa đặt chân tới cửa, anh tay đẩy cửa, miệng bô bô nói ngay:
"Thư của em Pa-ven !"
Thư
Pa-ven viết:
Anh
A-rơ-chom thân mến,
Em báo
tin anh biết, em vẫn còn sống, song không được khỏe lắm. Em bị đạn vào đùi,
nhưng nay đã khá rồi. Bác sĩ bảo đạn chưa vào xương. Anh đừng lo chẳng việc gì
đâu, sẽ khỏi anh ạ. Ở quân y ra, nếu được phép, em sẽ về thăm anh. Lần trước,
em chưa đi đến chỗ mẹ ở được đâu. Dọc đường, em nhập đoàn kỵ binh đỏ, nay em là
đội viên của lữ đoàn kỵ binh mang tên đồng chí Cô-lốp-ski, một anh hùng nổi
tiếng mà chắc anh cũng biết tên. Em chưa từng gặp người nào anh dũng như đồng
chí lữ đoàn trưởng, em rất khâm phục đồng chí ấy. Mẹ đã về chưa anh? Nếu mẹ về
rồi, anh thưa với mẹ: em, đứa con út của mẹ, xin tha thiết chào mẹ và mong mẹ
tha lỗi cho em vì đã làm mẹ lo nghĩ nhiều.
Em bé
của anh
T.B. -
Anh tạt lại nhà ông chánh kiểm lâm và cho bên ấy xem thư này với.
Bà cụ
khóc nhiều. Và đứa con bé dại của bà quên cả ghi địa chỉ nơi đang nằm điều trị.
Làm sao mà tìm được nó?
Xéc-gây
năng ghé vào một toa xe lửa sơn xanh, ngoài có biển để chữ: "Tổ tuyên huấn
ban chính trị sư đoàn". I-gơ-na-chi-ê-va và Ri-ta làm việc ở đây, trong
một ngăn toa nhỏ. I-gơ-na-chi-ê-va mồm ngậm mãi một điếu thuốc không bao giờ
hút, nhếch mép mỉm cười dí dỏm.
Xéc-gây
là bí thư khu đoàn thanh niên, thường đến đây lấy tài liệu, báo chí. Anh dần
dần thân với Ri-ta lúc nào không biết và cứ mỗi lần ở toa tàu ra về ngoài tài
liệu sách báo, anh lại mang theo cả niềm vui xôn xao của những buổi gặp gỡ ngắn
ngủi ấy.
Nhà hát
ngoài trời do Ban chính trị sư đoàn tổ chức hôm nào cũng chật ních công nhân và
bộ đội. Đoàn xe lửa tuyên truyền của quân đoàn thứ 12 chung quanh dán đầy những
áp-phích và biểu ngữ màu tươi, đậu trên đường sắt. Hoạt động sôi nổi ngày và
đêm. Bộ phận in đầy ắp công việc. Anh em in xuất bản báo, truyền đơn, hiệu
triệu. Ở đây sát bên tiền tuyến. Một buổi tối, Xéc-gây tình cờ vào nhà hát. Anh
trông thấy Ri-ta ngồi giữa đám chiến sĩ Hồng quân. Khuya về, tiễn chân Ri-ta
lên ga tới chỗ ở của các cán bộ Ban chính trị, Xéc-gây đột nhiên hỏi:
- Đồng
chí Ri-ta này, không hiểu sao tôi lúc nào cũng mong gặp Ri-ta ghê lắm? - Và
Xéc-gây nói thêm: Có Ri-ta ở bên cạnh tôi thấy trong người thoải mái vô cùng.
Mỗi lần gặp Ri-ta về, tôi cảm thấy hăng hái thêm và muốn làm việc mãi không
nghỉ.
Ri-ta
ngắt lời:
- Đồng
chí Xéc-gây, chúng ta cần hiểu nhau mới được. Từ nay về sau, đồng chí không nên
đi vào cái lối tình cảm lãng mạn ấy nữa. Tôi không thích thế đâu.
Xéc-gây
thẹn đỏ mặt như anh học trò bị thầy quở. Anh đáp lại:
- Tôi
nói với Ri-ta như một người bạn thân mà Ri- ta thì lại... Tôi hỏi Ri-ta: tôi có
nói gì phản cách mạng không: Đã thế nhất định từ nay trở đi, tôi chẳng nói gì
nữa!
Và
Xéc-gây vội chìa tay bắt tay chào biệt Ri-ta, anh quay trở lại xuống phố, đi
nhanh như chạy.
Đến mấy
hôm liền, Xéc-gây không ra ga nữa. Cho đến hôm chị I-gơ-na-chi-ê-va cho gọi
Xéc-gây đến, anh cũng tìm cớ thoái thác là bận công tác. Mà thật tình, anh cũng
bận, vùi đầu vào công việc.
*
Một đêm,
Su-đích đi về nhà anh, qua phố có nhiều công chức cao cấp của nhà máy đường
người Ba Lan ở, thì bị bắn trộm. Ta liền khám xét các nhà thì bắt được súng và
nhiều tài liệu tổ chức bí mật là "Người bắn cung" của bọn đồng đảng
với tên phát-xít Ba Lan Pin-xút-ki.
Ri-ta
đến dự phiên họp ủy ban cách mạng bàn về vụ này. Gặp Xéc-gây, Ri-ta kéo ra chỗ
khuất, hỏi bằng giọng ôn tồn:
-
Xéc-gây bây giờ lại nổi tự ái tiểu tư sản đấy à? Vì chuyện cá nhân để ảnh hưởng
đến công tác hay sao? Thế chẳng lợi gì đâu, đồng chí ạ!
Và từ
đấy Xéc-gây lại năng đến chiếc toa xanh như trước.
Anh đi
dự hội nghị toàn khu. Hai ngày Xéc-gây tham gia thảo luận sôi nổi. Đến ngày thứ
ba thì cùng với cả hội nghị cầm vũ khí suốt một ngày trời đuổi bọn thổ phỉ
Da-rút-ni là một tên sĩ quan của Pết-lu- ra chạy trốn vào khu rừng ven sông.
Xong cuộc truy thổ phỉ đó, Xéc-gây về chỗ chị I-gơ-na-chi-ê-va thì gặp Ri-ta.
Lại đưa Ri-ta về trụ sở ngoài ga. Sắp sửa chia tay, anh nắm thật mạnh bàn tay
của Ri-ta.
Ri-ta
giật tay lại có vẻ giận. Và từ đấy, Xéc-gây rất lâu không hề bén mảng đến chiếc
toa xanh nữa. Anh cố ý tránh mặt Ri-ta ngay cả những lúc có công việc cần gặp.
Ri-ta đón gặp, chất vấn lại, thì Xéc-gây nói buột ra:
- Nói gì
với Ri-ta nữa? Nói rồi để Ri-ta lại ghép cho tính chất tiểu tư sản, hay lại
buộc cho tội phản bội giai cấp công nhân ấy à?
*
Một hôm
các chuyến xe của sư đoàn Cô-ca-dơ mang tên Cờ đỏ đến nhà ga: Ba đồng chí chỉ
huy da xám nắng đi đến ủy ban cách mạng. Đồng chí ấy người gầy dong dỏng cao,
lưng thắt chiếc dây da nạm bạc, vớ được Đô-lin-nhích thì quay ngay:
- Thôi,
đồng chí không phải trình bày gì nữa . Chúng tôi cần một trăm xe cỏ cho ngựa
ăn. Ngựa đang đói nhăn răng ra.
Xéc-gây
và hai đồng chí Hồng quân nữa được phái đi lấy cỏ. Đến một làng thì rơi ngay
vào một bọn phỉ cu-lắc bị bọn này tước hết vũ khí và đánh cho một trận thừa
sống thiếu chết. Chúng cho là Xéc-gây còn trẻ nên đánh ít hơn hai đồng chí kia.
May có các.đồng chí trong ủy ban dân cày nghèo biết tin đến cứu được và cho xe
đưa về tỉnh.
Một phân
đội Hồng quân được phái đến dẹp bọn cu-lắc và hôm sau thì lấy được cỏ về.
Xéc-gây
nằm điều trị ở nhà chị I-gơ-na-chi-ê-va, không về gia đình, tránh cho nhà biết
để nhà khỏi lo. Ri-ta đến thăm. Tối hôm ấy, lần đầu tiên, chính Ri-ta lại bắt
tay anh trìu mến và siết chặt.
Rồi đến
một trưa hè nóng như thiêu, Xéc-gây đến toa xe Ri-ta, đọc cho bạn nghe bức thư
mới nhận được của Pa-ven và nói chuyện với Ri-ta rất lâu về người bạn thân của
mình. Lúc đi, anh nói với Ri-ta:
-
Xéc-gây vào rừng đây, đến hồ tắm một cái.
Ri-ta
ngừng làm việc, gọi với Xéc-gây:
- Đợi
một tí, hai chúng mình cùng đi.
Đến bên
hồ, mặt nước phẳng lặng như một tấm gương, hai người dừng lại. Nước trong mát
trông đến muốn tắm.
Ri-ta
bảo Xéc-gây:
-
Xéc-gây ra đường cái đứng chờ một lát nhé. Ri-ta tắm đây!
Xéc-gây
ra ngồi trên một tảng đá gần cầu, mặt ngửa ra nắng.
Đằng sau
lưng, tiếng nước vỗ bì bõm.
Thấp
thoáng qua rặng cây ngoài đường, Xéc-gây nhìn thấy Tô-nhi-a và ủy viên quân sự
của chuyến xe tuyên truyền là Tru-gia-nin. Tru-gia-nin đẹp trai lắm, diện bộ
cánh rất bảnh, mình thắt nịt da có buộc nhiều dây tua làm điệu, đôi ủng mới
toanh. Chàng ta khoác tay Tô-nhi-a và đang kể một chuyện gì cho cô ấy nghe.
Xéc-gây
nhận ra người con gái. Chính là người mang thư của Pa-ven lại cho mình hôm
Pa-ven mới trốn khỏi nhà tù. Tô-nhi-a vẫn nhìn Xéc-gây chòng chọc. Chắc cô ta
cũng nhận ra. Khi hai người vừa bước tới ngang mặt Xéc-gây, thì Xéc-gây rút bức
thư trong túi ra gọi Tô-nhi-a:
- Đồng
chí, dừng lại cho tôi hỏi một chút. Tôi có một cái thư trong đó có liên quan
tới đồng chí một phần.
Xéc gây
chìa mảnh giấy chữ viết kín đặc. Tô-nhi- a buông tay Tru-gia-nin, cầm thư đọc.
Lá thư rung rung trong bàn tay. Khi trao lại lá thư ấy, Tô-nhi- a hỏi Xéc-gây:
- Anh
không biết gì hơn nữa về anh Pa-ven, hở anh?
- Không.
Từ phía
sau, tiếng chân Ri-ta giẫm lên hòn sỏi kêu ken két. Thấy Ri-ta, Tru-gia-nin vội
nói nhỏ với Tô- nhi-a: "Ta đi thôi". Nhưng giọng chế giễu, khinh bỉ
của Ri-ta đã gọi giật lại:
- Đồng
chí Tru-gia-nin, ở cơ quan suốt ngày đang tìm đồng chí.
Tru-gia-nin
nguýt Ri-ta bằng cặp mắt hằn học:
- Tìm
làm gì mới được chứ? Không có tôi, việc vẫn chạy.
Ri-ta
nhìn theo Tô-nhi-a và Tru-gia-nin, rồi nói:
- Không
biết bao giờ mới tẩy được hạng nhơ bẩn ấy ra khỏi hàng ngũ!
Rừng cây
rì rào những ngọn sến to khỏe lắc lư. Nước hồ trong mát làm cho Xéc-gây thèm
tắm.
Tắm
xong, anh trở lại thấy Ri-ta đang ngồi ở thân một cây sến đổ.
Hai
người vừa trò chuyện vừa đi sâu vào rừng. Đôi bạn bảo nhau dừng lại nghỉ chơi ở
một khoảng rừng thưa đầy cỏ tươi. Rừng sâu tịch mịch, chỉ có tiếng sến reo như
thì thầm cùng nhau. Ri-ta nằm lên cỏ mượt, lấy tay gối đầu. Cặp chân thon, đôi
bàn chân xỏ đôi giày đã cũ, luồn vào lớp cỏ cao phủ kín. Xéc- gây bỗng đưa mắt
thoáng nhìn. Đôi giày Ri-ta đã cũ mà vá mới khéo làm sao! Anh nhìn lại đôi giày
ống của mình há mõm, ngón chân lòi ra. Bất giác anh phì cười.
-
Xéc-gây cười gì thế ?
Xéc-gây
chỉ chiếc giày:
- Ri-ta
trông. Giày thế này thì chúng mình đi trận đánh nhau làm sao được?
Ri-ta
không nói sao. Miệng ngậm một ngọn cỏ, chị còn mải nghĩ đến một chuyện khác.
Cuối
cùng, chị nói:
-
Tru-gia-nin là một đảng viên rất kém. Các cán bộ chính trị của ta đều mặc quần
áo rách mướp. Còn tay ấy thì chỉ nghĩ đến diện vào thân cho đẹp. Thật là một
phần tử lạc loài vào Đảng...Còn như ở ngoài mặt trận thì tình hình nghiêm trọng
thật đấy. Đất nước chúng ta còn phải trải qua nhiều chiến đấu khốc liệt - Và
ngừng một lát, Ri-ta nói thêm: - Chúng ta phải đánh giặc bằng cả lời nói lẫn
bằng súng, Xéc- gây ạ Xéc-gây đã biết nghị quyết của Trung ương Đảng động viên
một phần tư đoàn viên thanh niên cộng sản ra mặt trận chưa? Ri-ta cho rằng
chúng mình chẳng nhóm lửa ở Sê-pê-tốp-ca được lâu đâu.
Xéc-gây
lắng nghe, hơi sửng sốt và bất chợt trong giọng nói của Ri-ta có cái gì khang
khác. Đôi mắt đen, ướt và sáng của Ri-ta nhìn chăm chăm vào anh.
Anh chực
thốt lên, nói với Ri-ta rằng đôi mắt Ri-
ta như mặt gương long lanh, cái gì cũng có thể soi vào đấy được. Song anh kịp
thời giữ miệng không nói.
Ri-ta
nhổm dậy, chống khuỷu tay xuống đất.
- Súng
Xéc-gây đâu?
Xéc-gây
buồn thiu sờ tay lên thắt lưng:
- Hôm về
nông thôn lấy cỏ, xảy ra xô xát, bọn cu- lắc đã tước mất rồi.
Ri-ta
thò tay vào túi áo va-rơ móc ra khẩu Bơ-rao- ninh sáng loáng:
-
Xéc-gây trông cây sến kia nhớ ! - Ri-ta trỏ một thân cây xù xì cách chỗ nằm 25
bước. Ri-ta giơ súng ngang tầm mắt, gần như không ngắm, bắn ngay. Vỏ cây rạn
nứt vì viên đạn.
- Thấy
Ri-ta bắn chưa? - Ri-ta nói có vẻ thích thú, rồi lại bắn lần nữa. Vỏ cây lại vỡ
tung lên, rơi rào rào xuống cỏ.
Ri-ta
đưa súng cho Xéc-gây, giọng chế nhạo:
- Giờ
đến lượt Xéc-gây thử bắn xem có phải là tay súng tốt không nào.
Ba phát
chỉ sai có một. Ri-ta mỉm cười:
- Tưởng
không bắn được như thế đâu kia đấy.
Ri-ta
đặt súng xuống, và ngả mình trên cỏ. Dưới lượt vải áo chẽn nhú lên cặp vú nở.
-
Xéc-gây ơi, lại đây! - Tiếng Ri-ta gọi khẽ.
Xéc-gây
lại gần.
- Xéc
gây ơi, nhìn trời mà xem. Trời xanh quá nhỉ. Ờ, mà mắt Xéc-gây giống màu da
trời quá. Thế không tốt. Mắt Xéc-gây phải xám như màu nước thép ấy mới được.
Màu xanh có cái gì mềm yếu quá.
Rồi đột
nhiên, Ri-ta ôm chầm lấy mái đầu tóc vàng và áp môi hôn Xéc-gây, cái hôn không
gì cưỡng nổi.
*
Hai
tháng trôi qua. Rồi mùa thu tới.
Đêm tối
ập xuống lúc nào không biết; bóng đêm trùm một màn đen lên cây cỏ. Người điện
báo viên của ban tham mưu sư đoàn đang mải cúi đầu trên chiếc máy đánh
"moóc", băng chữ như con rắn dài trườn qua những ngón tay. Từ những
dấu chấm và dấu gạch tạch tè, anh ta dịch ra bức điện, rất nhanh:
"Gửi
tham mưu trưởng sư đoàn thứ nhất, đồng sao gửi chủ tịch ủy ban cách mạng thành
phố Sê- pê-tốp ca. Tôi ra lệnh tản cư hết tất cả các cơ quan của thành phố
trong vòng mười tiếng đồng hồ sau khi nhận được điện này. Trong thành để lại
một tiểu đoàn, tiểu đoàn này sẽ thuộc quyền chỉ huy của trung đoàn trưởng trung
đoàn X. . ., chỉ huy trưởng phân bộ mặt trận. Ban tham mưu sư đoàn, ban chính
trị và tất cả các ban quân sự phải chuyển lùi về ga Ba-ran- sếp. Thi hành xong
lệnh, báo cáo lên tư lệnh sư đoàn.
Chữ ký...
Mười
phút sau, chiếc mô-tô giương mắt đèn pha sáng thắp bằng đất, chạy vùn vụt qua
các phố khuya lặng ngắt như tờ, rồi dừng lại trước trụ sở cách mạng, máy rung
lên sùng sục. Liên lạc viên cưỡi mô-tô đến đưa bức điện hỏa tốc cho chủ tịch ủy
ban cách mạng Đô-lin-nhích. Điện vừa tới xong, mỗi người một việc chạy tíu tít.
Đại đội công tác đặc biệt được tập hợp lại Chỉ một giờ sau, bánh xe lăn vang
trên đường phố. Xe nào xe ấy chở đầy ắp tài liệu và đồ dùng của ủy ban đưa đến
ga Pô-đôn-ski xếp lên các toa tàu.
Xéc-gây,
nghe đọc xong bức thư điện, chạy theo bám lấy đồng chí đi mô-tô.
- Đồng
chí ơi, có thể cho tôi đi nhờ lên ga được không?
- Ngồi
đằng sau, nhưng phải bám cho chắc nhớ.
Toa xanh
đã mắc vào đoàn tàu. Đứng cách toa mươi bước, Xéc-gây ôm chặt lấy vai Ri-ta,
lòng cảm thấy đang mất đi một cái gì hết sức thân thiết và quý vô giá miệng thủ
thỉ :
- Chào
Ri-ta nhớ, chào đồng chí thân mến của Xéc- gây. Chúng ta sẽ còn có ngày gặp
nhau, nhưng cốt nhất Ri-ta đừng quên Xéc-gây nhớ.
Xéc-gây
kinh sợ thấy rằng mình sắp òa lên khóc mất. Đã phải xa nhau rồi. Không còn đủ
sức để nói gì thêm nữa, anh chỉ nắm lấy tay Ri-ta, bóp chặt trong tay mình.
Vừa sáng
thì thành phố Sê-pê-tốp-ca và nhà ga đã bỏ không vắng ngắt, cô quạnh. Đầu máy
chuyến xe lửa cuối cùng rúc còi ầm ĩ như một lời chào từ biệt, và phía sau ga,
tiểu đoàn chiến đấu còn bố trí trong thành để yểm hộ cho cuộc rút lui đóng rải
hai bên đường sắt.
Lá vàng
rơi, bỏ thân cây trơ trụi. Gió cuốn lá bay lả tả trên mặt đường phố.
Xéc-gây,
mặc áo khoác Hồng quân, mình đeo chi chít băng đạn, cùng hơn chục đồng chí giữ
ngã tư sau nhà máy đường. Quân ta đợi quân Ba Lan đến.
Lão
Áp-tô-nôm Pê-tơ-rô-vích chạy sang gõ cửa nhà láng giềng Ghê-ra-xim
Lê-ông-chi-ê-vích : Lão Ghê- ra-xim ngủ dậy chưa kịp thay quần áo, thò đầu bù
ra ngoài cửa mở hé :
- Chuyện
gì thế bác?
Lão
Áp-tô-nôm chỉ bộ đội đỏ đang diễu qua, súng chĩa đàng trước, nháy mắt bảo ông
bạn hàng xóm :
- Họ
rút.
Lão
Ghê-ra-xim nhìn ông bạn, vẻ lo ngại.
- Bác có
biết huy hiệu của quân Ba Lan thế nào không?
- Nghe
đâu là huy hiệu diều hâu một đầu thì phải.
- Tảo
đâu được một cái bây giờ nhỉ?
Lão
Áp-tô-nôm đưa tay lên gãi gáy có vẻ giận dữ, suy nghĩ, một lát lão tuôn ra :
- Họ thì
cần cóc gì. Họ đứng dậy, giũ áo là kéo nhau đi. Còn cánh mình thì ở lại, mặc
cánh mình xoay xở nát óc mà nghĩ cách ăn ở cho hợp với chính quyền mới đến.
Tiếng
súng máy nổ, phá tan cái yên tĩnh của buổi sớm. Bỗng ngoài ga, một chiếc đầu
tàu kéo còi, thét lên; ở phía ấy có tiếng đại bác nổ vang. Một quả trái phá
hạng nặng rít lên, xoáy vụt lên trời, rồi rơi xuống phố sau nhà máy, tỏa khói
xanh bao phủ những bụi rậm bên đường. Bộ đội đỏ từng hàng lặng lẽ tiến qua phố,
chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn.
Giọt
nước mắt lành lạnh rơi trên gò má Xéc-gây. Anh vội vàng lấy tay quệt nước mắt,
liếc xem bạn đồng đội có nhìn thấy mình khóc hay không. Không, không ai nhìn
thấy cả.
Cạnh anh
là bác thợ máy cưa An-tích vừa gầy, vừa cao lêu nghêu. Ngón tay An-tích miết
vào cò súng, nét mặt buồn bã, đăm chiêu. Mắt bác gặp đôi mắt Xéc-gây đang nhìn
mình. Bác liền ngỏ với người đồng chí trẻ những ý nghĩ thầm kín trong lòng...
- Chúng
nó rồi sẽ khủng bố họ hàng bà con thân thích chúng mình, nhất là nhà tôi thế
nào cũng bị. Tôi là người Ba Lan. Chúng nó sẽ bảo: "Thằng này người Ba Lan
mà dám đánh quân đội Ba Lan". ông cụ tôi thế nào cũng bị đuổi khỏi nhà máy
cưa và chắc rồi sẽ bị chúng đánh đập mất. Tôi đã bảo ông cụ đi theo chúng mình.
Song ông ấy bảo không nỡ lòng nào bỏ mặc gia đình. Chà, lũ giặc dã man! Chỉ
mong được choảng ngay với chúng nó cho đỡ ức ! - Bác lấy tay hất mạnh lên chiếc
mũ Hồng quân hơi rộng vừa chụp xuống mắt.
...Thôi,
tạm biệt quê hương yêu dấu, tạm biệt thành phố bé xíu, bẩn thỉu, nhà cửa tồi
tàn, đường đi khúc khuỷu này! Tạm biệt những người thân, tạm biệt Va- li-a, tạm
biệt các đồng chí từ đây phải rút vào bí mật. Bọn giặc trắng Ba Lan, bọn lê
dương ngoại chủng, hung ác, tàn nhẫn, đang tiến về đây rồi.
Công
nhân sở đầu máy xe lửa, áo nhớp dầu mỡ, đi tiễn bộ đội đỏ. Mặt họ buồn rầu nhìn
theo bóng đoàn quân đi.
Xéc-gây
đứt từng khúc ruột, nói to lên với anh em thợ:
- Chúng
tôi nhất định sẽ có ngày trở lại đây, các đồng chí ạ.
Thép đã tôi thế đấy
Chương VIII
Trong
sương sớm lúc mặt trời chưa mọc, dòng sông ánh lên bàng bạc và êm đềm chảy rì
rầm giữa hai bờ sỏi đá. Gần bờ, mặt nước sông lặng màu xám nhạt dường như không
động, đôi lúc long lanh sáng. Nhưng giữa dòng sông, nước thăm thẳm sóng nhấp
nhô quằn quại hối hả trôi đi. Con sông xinh đẹp, hùng vĩ ấy là con sông
Đơ-nhi-ép, con sông Đơ-nhi-ép mà nhà văn Gô-gôn đã viết nên áng văn tuyệt diệu
: "Tươi đẹp thay, con sông Đơ-nhi-ép..." Bờ sông bên phải, núi đá
dựng đứng. Dường như núi ấy chạy đến đây, sắp sửa đâm sầm vào bờ sông thì thốt
nhiên dừng chân đứng sững lại, ngây ngất trước khoảng bao la trời nước. Bờ sông
bên trái thoai thoải những bãi cát.
Sau vụ
nước lớn mùa xuân, dòng sông thu mình vào bờ sỏi, để lại những bãi cát ấy. Bên
bờ sông có năm người nấp trong hầm chật hẹp, giữ khẩu súng Mắc-xim. Đấy là đội
viễn tiêu của sư đoàn bộ binh thứ bảy. Xéc-gây nằm nghiêng bên súng máy, mặt
ngoảnh ra sông.
Hôm qua,
bộ đội ta giao chiến liên miên với giặc. Đại bác Ba Lan, như bão táp làm cho
tan tác. Sau cùng, kiệt sức, họ đành để thành Ki-ép lọt vào tay giặc và lui về
cố thủ ở tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.
Đã phải
rút lui, lại thương vong nặng và cuối cùng mất Ki-ép đã làm cho các chiến sĩ
đau buồn. Sư đoàn thứ bảy này đây đã chiến đấu anh dũng vượt qua vòng vây của
địch, mở đường lách qua rừng rậm, tiến đến gần ga Ma-lin-nơ. Họ tấn công rất
gắt, đánh tan bọn Ba Lan chiếm đóng nhà ga, dồn chúng vào rừng, giải phóng
đường đi Ki-ép.
Bây giờ
thì thành Ki-ép diễm lệ đã mất vào tay giặc rồi. Các chiến sĩ mặt mày ủ dột và
buồn bực trong lòng.
Quân Ba
Lan đã đánh bật các đơn vị Hồng quân khỏi Đác-nhi-xa và chiếm được một căn cứ
nhỏ bên tả ngạn sông, cạnh chiếc cầu đường xe lửa.
Chúng ra
sức đánh rộng ra nữa, nhưng gặp sức phản công mãnh liệt của Hồng quân, chúng
chẳng nhích thêm được bước nào cả.
Xéc-gây
ngắm dòng sông đang chảy và anh không thể không hồi tưởng lại chuyện xảy ra
ngày hôm qua.
Hôm qua,
vào lúc mặt trời đứng bóng, anh đang cùng anh em hăng máu xông lên thì đụng
phải quân Ba Lan trắng trong một đợt phản công quyết liệt. Lần đầu tiên,
Xéc-gây đứng trước mặt đối mặt một kẻ thù. Một thằng lê-dương Ba Lan, không
râu, không ria, cầm súng cắm lưỡi lê Pháp dài như thanh kiếm, chạy lại đâm
Xéc-gây.(Bọn can thiệp Ba Lan lúc bấy giờ do các đế quốc Pháp, Anh, Mỹ trang bị
). Nó nhảy như choi choi, miệng kêu xì xà xì xồ. Xéc-gây chỉ còn kịp nhận ra
hai mắt nó trợn trừng điên cuồng. Chưa đầy một giây đồng hồ, Xéc-gây đã lấy đầu
lưỡi lê của mình đánh bật lưỡi lê tên Ba Lan. Chiếc lưỡi lê Pháp sáng loáng rơi
bắn sang bên.
Tên Ba
Lan ngã vật xuống...
Xéc-gây
đâm lưỡi lê không có run tay. Anh biết anh còn phải giết nhiều nữa. Chính anh
là người biết yêu tha thiết, đối với tình bạn rất mực thủy chung, anh có phải
đâu là một đứa hung tàn độc ác. Song anh biết rằng những người lính bị lừa dối
kia, ăn phải thuốc của bọn sâu mọt toàn thế giới, đang xông lại đánh nước Cộng
hòa của anh với một thú điên giận thật là của loài súc vật.
Và
Xéc-gây thẳng tay giết cho chóng đến ngày trên trái đất này không còn có người
chém giết người nữa.
Pa-ra-mô-nốp
lắc vai Xéc-gây:
- Này,
Xéc-gây xuống hầm đi, kẻo chúng nó trông thấy chúng mình đấy.
*
Đã một
năm nay, Pa-ven hành quân đi dọc ngang khắp miền quê hương xứ sở, khi ngồi trên
một chiếc xe kéo súng máy, khi leo lên bệ một khẩu đại bác, khi cưỡi trên con
ngựa xám cụt tai. Khỏe ra, cứng rắn ra, anh đã lớn lên trong gian lao khổ cực.
Người
anh đeo bao đạn sát vào da đến bật máu, chỗ sát đã thành sẹo và dây súng lằn
trên vai đã chai lên thành một ụ thịt không bao giờ tan được nữa.
Trong có
một năm trời, mắt anh đã thấy biết bao nhiêu cảnh đời ghê gớm. Cùng hàng ngàn
chiến sĩ khác, áo quần tả tơi, chân đất như mình, nhưng lòng hừng hực bốc cháy
ngọn lửa không bao tắt của cuộc đấu tranh vì chính quyền giai cấp, Pa-ven đã
bước chân đi khắp các ngả của Tổ quốc U-cơ-ren và chỉ bị dứt ra khỏi cơn bão
táp ấy có hai lần.
Lần thứ
nhất, bị thương vào đùi, lần thứ hai, vào một ngày tháng Hai lạnh buốt của năm
1920, anh giãy giụa trong cơn sốt nhớp nháp của bệnh chấy rận.
Cái bệnh
chấy rận truyền nhiễm đã tác hại các trung đoàn và sư đoàn của tập đoàn quân
thứ mười hai ghê gớm hơn cả những cỗ súng máy Ba Lan kia. Tập đoàn quân lúc đó
đóng ở một khu rộng lớn, rải hầu khắp miền Bắc U-cơ-ren, ngăn đường tiến của
quân Ba-lan. Vừa dứt bệnh, Pa-ven đã trở về đơn vị ngay.
Bây giờ,
trung đoàn của Pa-ven đóng ở một vị trí cơ động gần ga Phơ-rông-tốp-ca, trên
con đường ngoặt từ Ca-da-chim đi U-mân.
Ga ở
giữa rừng. Những túp nhà bị tàn phá xúm quanh khu ga bé nhỏ. Đấy là những căn
nhà hoang trống trải, dân bỏ đi vì không thể nào ở được yên. Hai năm qua, chập
chờn có lúc yên tĩnh, có lúc lại đánh nhau dữ. Suất hai năm trời, ga Phơ-rông-tốp-
ca đã chứng kiến biết bao nhiêu là chuyện!
Lại sắp
sửa xảy ra nhiều việc lớn. Trong lúc sư đoàn mười hai bị tổn thất nặng, tan rã
từng phần, trước sức thọc mạnh của quân đội Ba Lan, phải rút lui về gần Ki-ép
thì nước Cộng hòa vô sản chuẩn bị giáng một đòn chí tử vào quân thù lúc đó đang
say sưa thừa thắng tiến.
Những sư
đoàn kỵ binh dạn dày lửa đạn của tập đoàn kỵ binh thứ nhất đã mở cuộc trường
chinh chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, từ vùng Bắc Cô- ca-dơ xa xôi
chuyển đến U-cơ-ren. Các sư đoàn kỵ binh thứ tư, thứ sáu, thứ mười một và thứ
mười bốn lần lượt tiến đến U-mân và tập kết ở sau trận tuyến của ta. Trên đường
xông tới những cuộc chiến đấu ác liệt kỵ binh đã quét sách bọn phỉ Ma-khơ-nô.
Một vạn
sáu ngàn năm trăm thanh kiếm, một vạn sáu ngàn năm trăm chiến sĩ da rám nắng
đồng cỏ.
Bộ Tổng
tư lệnh Hồng quân và Bộ Tổng tư lệnh mặt trận Tây-nam hết sức giữ bí mật để cho
quân Ba Lan của phát-xít Điu-xuýt-ski không thể nào đối phó kịp với cuộc hành
quân có tính chất quyết định đang chuẩn bị. Bộ tham mưu của nước Cộng hòa và
các mặt trận trực tiếp phụ trách tập hợp khối kỵ binh này.
Chiến sự
ngừng hẳn ở mặt trận U-mân, đường dây liên lạc thẳng từ Mát-xcơ-va đến Bộ tham
mưu mặt trận Khác-cốp làm việc không ngừng. Từ Khác-cốp, điện lại báo đi các bộ
tham mưu các tập đoàn quân thứ mười bốn, thứ mười hai. Điện báo tạch tè ghi
những mệnh lệnh mật mã lên những băng điện hẹp: "Không để cho quân Ba Lan
chú ý đến quân đoàn kỵ binh của ta tập kết". Chiến sự ngừng trên khu vực
U-mân. Chỉ giao chiến khi nào và nơi nào bọn Ba Lan tiến quân uy hiếp đoàn kỵ
binh của Bu-đi- on-ny, tránh cho kỵ binh khỏi bị dồn vào tình thế phải giao
chiến quá sớm.
Đống lửa
trú quân bập bùng ngọn lửa màu hung, khói bốc lên xoắn tít hình trôn ốc. Loài
nhặng rừng không chịu được hơi khói bay tứ tung như ong vỡ tổ. Các chiến sĩ
ngồi quanh ngọn lửa theo hình vòng cung, lửa hồng làm mặt họ ánh lên bóng như
màu đồng.
Những
chiếc cà-mèn vùi trong tro biếc ánh lửa. Nước sôi sùng sục. Một ngọn lửa từ
khúc gỗ cháy lóe ra bén sém một chiếc đầu bù. Người bị cháy tóc bực mình phát
bẳn:
- Rõ khỉ
!
Anh em
chung quanh bật cười khúc khích.
Một
người lính già mặc áo dạ, râu mép xén ngắn, đang chìa nòng súng ra ánh lửa xem,
thấy vậy nói khẽ:
- Thằng
bé này mải đọc khoa học quá, đến nỗi sán vào lửa cháy mà cũng không biết.
- Pa-ven
ơi! Đọc gì thế, kể cho chúng tớ nghe với.
Pa-ven,
người lính trẻ ấy, vừa lấy tay mân mê mớ tóc sém của mình, vừa mỉm cười nói :
- Đồng
chí An-đơ-rơ-súc ạ! Cuốn sách hay tuyệt. Đã đọc vào là tôi không thể nào buông ra
được nữa.
Người
ngồi cạnh Pa-ven là Xê-rê-đa, một thanh niên có cái mũi ngắn, hếch lên, đang
chăm chú vá lại dây đeo bao đạn, hai răng cắn chặt lấy sợi chỉ xám to, nghe bạn
nói vậy thì tò mò hỏi:
- Thế
cuốn sách viết về ai hở cậu? - Xê-rê-đa tay cuộn đoạn chỉ còn lại vào cái kim
cắm trên mũ dạ, nói thêm:
- Nếu
nói về tình yêu thì mình thú lắm đấy.
Chung
quanh cười rộ lên. Mát-vây-súc nhô cái đầu tóc cắt ngắn lên, nheo mắt láu lỉnh
nói trêu Xê-rê-đa:
- Tình
yêu là chuyện cũng hay, Xê-rê-đa ạ. Cậu đẹp trai, trông rất bảnh ! Hễ quân ta
đi đến đâu, các cô ả thấy cậu đều mê tít. Chỉ phải một cái tật nhỏ: mũi cậu quá
ngắn và hếch lên làm cho mưa cứ rơi tọt vào trong. Nhưng mà có thể chữa được.
Cậu cứ lấy quả lựu đạn Nô-vít-ki treo vào đầu mũi, chỉ một đêm là mũi dài ra và
quặp xuống thôi.
(Thứ lựu
đạn tay, nặng gần bốn cân, dùng để phá hàng rào dây thép gai).
Câu nói
bông đùa ấy làm mọi người phá ra cười sằng sặc. Nghe tiếng cười, mấy con ngựa
buộc ở những xe súng máy cũng phải rùng mình phì hơi một cách hoảng hốt.
Xê-rê-đa
lừ đừ quay mặt lại:
- Hơn
nhau chẳng phải ở cái đẹp trai, mà ở cái sọ này. - Xê-rê-đa đập tay lên trán
như ra hiệu chỉ cái đầu to - Đấy nhớ, lưỡi cậu cay như ớt thế mà cậu cứ vẫn là
một thằng hết sức khờ. Với lại cậu có đôi tai lạnh như tiền nữa.
Hai
chiến sĩ chực xông vào vật nhau, nhưng đồng chí tiểu đội trưởng Ta-ta-ri-nốp đã
can ngay:
- Này,
này, các cậu ơi, vặc nhau làm gì! Thôi để Pa-ven nó đọc sách cho mà nghe còn
hơn.
- Phải
đấy ! Đọc đi Pa-ven ạ! - Tiếng hưởng ứng nhao nhao lên.
Pa-ven
kéo cái yên ngựa lại gần ánh lửa, ngồi cưỡi lên yên, mở trên đầu gối cuốn sách
khổ nhỏ song khá dày.
- Báo
cáo các đồng chí, cuốn truyện này tên là Ruồi trâu. Đồng chí chính ủy tiểu đoàn
cho tôi mượn đấy. Cuốn truyện rất thấm thía đối với tôi. Các đồng chí ngồi yên
đừng đùa, tôi đọc cho mà nghe.
- Thôi
đọc đi, nhanh lên. Chẳng ai phá đám đâu.
Khi đồng
chí trung đoàn trưởng Pu-dư-rếp-ski cùng đồng chí ủy viên quân sự Đô-rê-nin đi
ngựa, lẳng lặng đến gần đống lửa, thì trông thấy mười một cặp mắt châu châu vào
một chiến sĩ đang đọc to quyển truyện.
Pu-dư-rếp-ski
quay đầu lại phía đồng chí chính ủy viên lấy tay chỉ nhóm người:
- Đây là
một nửa số anh em quân báo của trung đoàn, trong đó có bốn thanh niên cộng sản,
ít tuổi lắm, song mỗi cậu đều bằng một chiến sĩ cừ. Anh trông cậu đang đọc
truyện, và cậu kia nữa có cặp mắt y như cặp mắt của con sói con, đấy là
Ca-rơ-sa- ghin và Giác-ki. Hai cậu bé thân với nhau lắm, nhưng cũng ganh ngầm
với nhau lắm. Trước kia thì Pa-ven là một tay quân báo giỏi nhất của tôi. Giờ
có Giác- ki là tay địch thủ khá lợi hại của cậu ta. Anh trông kìa, các cậu ta
đang làm công tác chính trị đấy. Nhìn thì chẳng ai biết là làm công tác, nhưng
tác dụng lại rất lớn. Anh em gọi họ là "Đội thanh niên cận vệ", tên ấy
thật đúng quá.
Đồng chí
ủy viên quân sự hỏi:
- Đồng
chí đang đọc kia có phải là chính trị viên đội quân báo không?
- Không.
Chính trị viên là Cơ-ra-me.
Trung
đoàn trưởng cho ngựa bước lên. Đồng chí cất giọng nói to:
- Chào
các đồng chí!
Mọi
người quay lại. Trung đoàn trưởng nhẹ nhàng xuống ngựa, đi lại gần các chiến sĩ
đang ngồi.
- Các
đồng chí ngồi sưởi đấy à? - Trung đoàn trưởng hỏi, nụ cười rộng rãi ở trên môi.
Trên khuôn mặt cứng cỏi của đồng chí với đôi mắt bé hơi giống mặt người Mông
Cổ, vẻ nghiêm khắc đã biến đi.
Các đồng
chí niềm nở đón đồng chí chỉ huy như một người đồng đội hiền từ, như một người
bạn thân. Đồng chí ủy viên quân sự vẫn ngồi trên ngựa định đi tiếp sang đơn vị
khác.
Pu-dư-rếp-ski
kéo bao súng Mô-de ra phía sau, rồi lại ngồi cạnh Pa-ven và nói:
- Mời
các đồng chí, ta hút một điếu thuốc. Tôi có thuốc lá hút cũng tạm được.
Châm
thuốc xong, trung đoàn trưởng quay ra nói với đồng chí ủy viên quân sự:
- Đồng
chí cứ về trước đi, đồng chí Đô-rê-nin ạ. Tôi ở lại chơi với anh em một lát.
Nếu ở bộ tham mưu cần đến tôi, đồng chí tin cho tôi biết nhé.
Khi Đô
rê-nin đã đi khỏi, Pu-dư-rếp-ski quay lại bảo Pa-ven:
- Chú
đọc tiếp đi, tôi cũng nghe với.
Đọc xong
những trang cuối, Pa-ven đặt sách lên gối và bâng khuâng nhìn chăm chăm vào
ngọn lửa, nghĩ ngợi.
Trong
mấy phút đồng hồ, không ai nói một lời. Tất cả mọi người đều xúc động vì cái
chết của "Ruồi trâu".
Pu-dư-rếp-ski
hút một hơi thuốc lá, chờ đợi anh em lên tiếng.
Lời phát
biểu của Xê-rê-đa phá tan cái không khí yên lặng.
- Câu
chuyện bi thảm thật. Ai mà tưởng có được những con người bản lĩnh như thế trên
đời này. Một người thường không thể chịu được cực hình đến độ ấy Nhưng khi
người ấy đã vì lý tưởng mà chiến đấu thì nhất định giữ vững được tinh thần.
Giọng
Xê-rê-đa hết sức xúc động. Câu chuyện làm anh cảm xúc sâu xa.
An-đơ-ru-sa,
một người thợ học việc đóng giày vùng Bê-lai-a Xéc-cốp, bừng bừng phẫn nộ:
- Thằng
ác tăng khốn nạn đó mà vớ phải tay tôi thì tôi đâm chết nó ngay tại chỗ!
An-đơ-rơ-súc
lấy que củi ấn thêm chiếc cả-mèn của mình vào bếp, rồi nói bằng một giọng tin
tưởng:
- Chết
mà biết mình chết vì một sự nghiệp gì thì chết cũng đáng lắm. Trong trường hợp
ấy anh thấy mình có đủ sức mạnh để không sợ chết. Ta sẵn sàng đi đến cái chết
một cách kiên nhẫn khi ta cảm thấy có chính nghĩa ở phía ta. Chính cái đó làm
con người ta trở thành anh hùng đấy. Tôi biết một đồng chí trẻ tuổi tên gọi là
Pô-rai-ca. Cái hôm bọn giặc trắng thọc vào Ô-đét-xa, một mình anh ta xung phong
đánh cả một trung đội chúng nó. Bọn chúng chưa kịp giở lưỡi lê đâm anh, anh đã
rút lựu đạn ra, quăng ngay dưới chân mình. Người anh tan ra từng mảnh, nhưng cả
bọn Ba Lan cũng tan xác. Ấy thế mà trông anh ta bề ngoài chẳng có vẻ gì đâu.
Không ai viết sách nói về anh ta. Song chuyện anh ta thật đáng chép vào sách.
Hàng ngũ ta có vô số đồng chí ưu tú như thế.
An-đơ-rơ-súc
lấy thìa quấy cà-mèn, thè lưỡi ra nhắp ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Cũng
có cái chết như chó chết, chết đục, chết ô nhục. Bữa chúng tôi đánh nhau ở
I-di-a-sláp, một thị trấn cổ, xây từ đời vua nào ngày trước trên sông Gô- rin,
đấy có một nhà thờ Ba Lan, y như cái pháo đài, khó lắm. Thế mà cũng vào được
tất. Quân ta hàng một trèo vào, leo lên các lối đi nhỏ ngoằn ngoèo, sườn bên
phải có anh em người Lét-tô-ni kiềm chế cho rồi. Còn ta đổ ra phố lớn. Ra đến phố
lớn thì trông thấy gì? Gần vườn hoa có ba con ngựa đóng yên sẵn buộc vào hàng
rào.
Bọn tôi
trước tình huống ấy tất nhiên bảo nhau: phen này tóm cổ bọn Ba Lan. Cả mười
người hết cả vào sân. Đồng chí đại đội trưởng người Lét-tô-ni tay lăm lăm cầm
khẩu Mô-de đi trước.
Vào đến
nhà chính thì cửa đã mở. Bọn tôi đi vào. Tưởng tóm được bọn Ba Lan, hóa ra
không phải. Trong đó có sẵn một tổ của ta. Họ vào trước chúng mình. Chẳng hay
hớm gì cái chuyện đang xảy ra ở đấy. Nhà này vốn có một thằng sĩ quan Ba Lan ở.
Bọn mất dạy ở tổ ấy vào đè ngay mụ vợ thằng ấy ra để cưỡng hiếp. Đồng chí chỉ
huy người Lét-tô-ni của chúng mình tên là Bơ-rê-đi, trông thấy thế thét lên câu
gì bằng tiếng Lét-tô-ni. Rồi cho tóm cổ ba đứa kia lôi ra sân. Hôm ấy chỉ tôi
và một đồng chí nữa là người Nga, còn toàn người Lét-tô-ni cả. Họ nói gì với
nhau, mình nghe không hiểu, song cũng thấy câu chuyện rõ ràng: kẻ nào phạm lỗi
thì sẽ bị xử. Người Lét-tô-ni, tính thẳng, rắn chắc như đá lửa. Họ ấn ba thằng
kia vào sát vách chuồng ngựa. Mình nghĩ thầm: chết, chắc là họ định bắn tan xác
ba tên này đây. Trong số ba đứa đó có một tên vạm vỡ, chắc nịch cố cưỡng lại,
mồm chửi rủa, văng tục lung tung. Hắn la ầm lên: ai lại nỡ vì một mụ đàn bà mà
treo cổ tôi? Hai tên kia cũng van xin rối rít.
Trông
thấy như thế mà ớn lạnh cả người. Mình chạy lại nói với Bơ-rê-đi: "Đồng
chí đại đội trưởng, đồng chí bắn làm gì, dính vào máu chúng nó cho bẩn tay? Để
đưa tòa án binh xử. Trong thành phố, chiến đấu đang tiếp tục mà ta lại đứng đây
để xử tội". Tức thì Bơ-rê-đi quay lại nhìn mình và mình thấy hối ngay là
đã trót nói mất rồi. Mắt Bơ-rê-đi nhìn mình y như mắt hổ. Anh ấy gí súng vào
tận miệng mình. Mình chiến đấu đã bảy năm rồi, bây giờ nói ra thật khỉ, song
lúc ấy thật tình là mình hoảng thật. Mình nghĩ bụng: không khéo thì mất mạng
phen này, chẳng còn nói năng gì nữa. Anh ta bảo mình bằng tiếng Nga lơ lớ, mình
khó lòng mới nghe rõ, nhưng cũng hiểu ý như thế này: "Ngọn cờ của ta là
máu nhuộm đỏ. Vậy mà quân chó này làm ô danh cả quân đội ta. Quân thổ phỉ phải
lấy xác để đền tội".
Mình
không dám ở nán lại nữa, chạy một mạch từ sân ra đến phố thì nghe thấy tiếng
súng nổ ở phía sau. Mình nghĩ thầm: thế là xong. Khi mình đi theo kịp đơn vị
mình thì thành phố đã hoàn toàn về tay ta. Câu chuyện như thế đấy. Những tên ấy
chết, thật chết như giống chó. Nghe đâu bọn đó trước là quân phỉ của Ma-khơ-nô,
mới chạy sang theo ta ở gần Mê- li-tô-pôn. Bọn chúng chỉ là một lũ ô hợp, phức
tạp.
Nói đến
đây, An-đơ-rơ-súc, đặt cái cà-mèn xuống chân, tay mở túi dết lấy bánh mì ra:
- Có thể
nào một đống phân bẩn như thế lại dính vào hàng ngũ chúng ta? Không sao kiểm
tra hết được. Trông chúng, người ta tưởng như chúng cũng chiến đấu vì cách
mạng. Thật ra, chính vì chúng mà bùn vấy cả lên mặt chúng ta. Dù sao thấy vậy
cũng đau lòng. Chuyện đó cho đến bây giờ mình vẫn không quên được.
An-đơ-rơ-súc
kết luận câu chuyện, rồi bắt đầu nhắp trà.
Đội quân
báo kỵ binh mãi tận đêm khuya mới ngủ. Xê-rê-đa ngủ say hếch mũi lên kéo gỗ.
Pu-dư-rép-ski cũng đã ngủ, đầu gối trên chiếc yên ngựa. Đồng chí chính trị viên
Cơ-ra-me thì đang ghi sổ tay.
Ngày hôm
sau, đi trinh sát về, Pa-ven buộc ngựa vào cây thấy đồng chí chính trị viên
Cơ-ra-me vừa uống trà xong, bèn mời lại nói chuyện.
- Đồng
chí chính trị viên ạ, tôi có ý định như thế này, đồng chí nghĩ có được không?
Tôi định bỏ đây sang bên Quân đoàn kỵ binh thứ nhất. Bên ấy, sắp nóng sốt đến
nơi rồi. Vì nhất định là họ tập trung đông người như thế chắc không phải để mà
chơi. Còn ta ở đây thì cứ chết gí một chỗ. Tôi chán ngấy lắm rồi.
Cơ ra-me
sửng sốt nhìn Pa-ven:
- Sao,
thế nào, chú định bỏ đây chuồn đi à? Chú nghĩ thế nào? Vậy ra theo chú, Hồng
quân là rạp chiếu bóng hay sao mà đòi đổi đơn vị như đổi chỗ ngồi thế? Nếu ai
cũng đòi đổi đơn vị thế thì còn ra thế nào nữa?
Pa-ven
ngắt lời đồng chí chính trị viên:
- Cốt
sao đánh hăng là được. Ở đấy hay bên ấy cũng thế cả, không có gì quan trọng.
Tôi có đào ngũ chuồn về hậu phương đâu!
Cơ-ra-me
một mực can ngăn Pa-ven:
- Thế
chú cho kỷ luật là cái gì? Pa-ven ạ, chú có nhiều ưu điểm, song chú phải cái
tính vô chính phủ. Chú thích sao, chú làm vậy. Chú quên rằng Đảng và Đoàn thanh
niên dựa vào kỷ luật sắt ư? Đảng trên hết. Đảng cần mình ở đâu thì mình phải ở
đấy, chứ không phải mình muốn ở đâu thì ở. Đồng chí trung đoàn trưởng đã không
cho phép chú đổi đơn vị nữa rồi phải không? Thế là quyết định rồi, không bàn gì
nữa.
Cơ-ra-me
người mảnh khảnh dong dỏng cao, nước da vàng nhợt, ho sù sụ vì xúc động. Bụi
chì của nhà in đã ngấm sâu vào hai lá phổi, thỉnh thoảng những quầng đỏ tật
bệnh của chứng lao lại hiện trên đôi má. Khi Cơ-ra-me dứt cơn ho, Pa-ven nói
thấp giọng, nhưng cương quyết:
- Tất cả
những điều đồng chí nói đều rất phải, song mai tôi sẽ cứ sang đoàn kỵ binh
Bu-đi-on-ny, thật đấy!
Và tối
hôm sau không còn bóng Pa-ven bên đống lửa trú quân nữa.
*
Ở thôn bên,
trước cửa trường học trên gò cao, các chiến sĩ kỵ binh tập hợp thành một vòng
lớn. Một chiến sĩ kỵ binh khỏe mạnh thuộc đơn vị Bu-đi-on- ny ngồi mé sau chiếc
xe ngựa, mũ cát-két hất ra sau gáy, đang kéo rên rỉ chiếc đàn gió. Trong tay
đồng chí ấy chiếc đàn kêu rú lên, nhịp điệu hỗn loạn, làm lạc cả bước chân của
chiến sĩ mặc chiếc quần thủng màu đỏ đang nhảy một cách điên cuồng điệu nhảy
dân gian xứ U-cơ-ren.
Trai gái
trong làng tò mò kéo ra, leo lên chiếc xe ngựa và những hàng rào bên cạnh để
xem những nhà vũ đạo rất liều của lữ đoàn kỵ binh vừa mới đến đóng ở làng này.
-
Tốp-tan ơi! Kéo hăng lên nào! Làm một quắn nữa chứ! Cho thêm chất nóng vào đi!
Nhưng
những ngón tay to lớn của anh bộ đội kéo đàn gió, chỉ quen gò móng ngựa, nên
ngó ngoáy một cách khó nhọc trên phím đàn.
Anh
chiến sĩ da rám nắng đang nhảy, bỗng than phiền:
- Chà,
tiếc thằng Cu-láp-cơ quá. Quân thổ phỉ Ma- khơ-nô khốn kiếp đã giết chết mất
cậu ấy. Cu-láp- cơ kéo đàn gió còn phải nói. Hạng nhất...Chiến đấu luôn luôn đi
hàng đầu trung đội mình. Tiếc cậu ấy quá! Vừa là một chiến sĩ cừ, vừa là một
tay chơi nhạc giỏi.
Pa-ven
cũng đứng trong đám dự cuộc vui. Nghe mấy lời vừa rồi, anh liền len đến chiếc
xe ngựa, lấy tay ấn vào hòm xếp của chiếc đàn. Tiếng đàn im bặt. Chiến sĩ kéo
đàn gió quắc mắt nhìn anh:
- Cậu
muốn gì?
Tốp-tan
ngừng lại, không kéo nữa, làm mọi người chung quanh nhao nhao, giọng không bằng
lòng nổi lên:
- Cái gì
thế? Sao dừng lại thế?
Pa-ven
chìa tay về phía dây kéo đàn:
- Đưa
cho mình chơi một lát.
Tốp-tan
nhìn người đồng đội lạ mặt với cặp mắt hoài nghi do dự, rồi gỡ dây đeo khỏi
vai.
Bằng một
cử chỉ quen thuộc, Pa-ven để đàn lên gối. Anh dìu dặt kéo nếp đàn lượn khúc mở
ra hình cánh quạt, rồi sau từng nấc, từng nấc dồn dập, Pa- ven dạo bản nhạc với tất cả sức mạnh của
chiếc đàn:
"Quả
táo hồng hồngMày lăn đằng nàoLăn vào Sê-khaChẳng ra được sớm"
(Sê-kha:
cơ quan đặc biệt chống phản cách mạng trong những năm đầu của chính quyền
Xô-viết)
Tốp-tan
cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh dang hai tay lên như hai cánh
chim, lượn vòng tròn, hai chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào
gối, vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng vào cái mồm đang hát to.
Tiếng
đàn gió rung lên, kích thích, thúc giục chiến sĩ đang nhảy trong điệu hùng
mạnh, hừng hực, tới tấp như những luồng gió cuồng liên tiếp. Tốp-tan bắt đầu
quay tít đi như con cù đinh, vừa quay vừa nhảy một vòng tròn hết chân nó đến
chân kia đá vút vào không khí, miệng hét lên đến hết hơi:
- Hích
hắc! Hích hắc!
*
Ngày
mồng năm tháng Sáu năm 1920, sau mấy cuộc giao chiến chớp nhoáng nhưng khốc
hệt, tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất, do Bu-đi-on-ny chỉ huy, đã chọc vỡ phòng
tuyến Ba Lan ở điểm đóng giáp nhau của quân đoàn thứ hai và quân đoàn thứ tư
của địch, đánh tan được lữ đoàn của tướng địch Xa-vi-ski và thừa thế tiến về
hướng Ru-gin.
Bộ chỉ
huy Ba Lan muốn đối phó với cuộc tiến quân đột phá ấy liền hối hả cho lập một
đội xung kích. Năm xe tăng bọc sắt chở từ xe lửa tới ga Pô-gờ-rê- bích cấp tốc
đến tiếp viện.
Chúng
chuẩn bị đối phó ở Da-rút-nhích, nhưng kỵ binh Hồng quân đã vòng qua
Da-rút-nhích, lọt vào hậu phương của các quân đoàn Ba Lan.
Chúng
tung sư đoàn kỵ binh Ba Lan do tướng Coóc- nhi-ski chỉ huy ra đuổi theo vết
chân tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn kỵ binh
Coóc-nhi-ski có nhiệm vụ đánh tập hậu bằng được vào cánh quân đỏ mà bộ chỉ huy
Ba Lan cho là có ý định tấn công vào Ca-da-chin, điểm chiến lược trọng yếu nhất
của hậu phương Ba Lan. Nhưng kế hoạch đó cũng không cứu vãn nổi tình hình nguy
ngập của quân bạch vệ Ba Lan. Tuy ngày hôm sau quân Ba Lan có lấp được chỗ trận
tuyến bị chọc thủng và khép được phòng tuyến sau đường đánh thọc của kỵ binh đỏ
nhưng lúc đó trong lòng hậu phương của chúng, cả một đoàn quân đỏ mạnh như vũ
bão đã hoành hành rồi. Tập đoàn quân này sau khi đã tiêu diệt các căn cứ hậu
phương của địch, tiến lên đánh vào những lực lượng của Ba Lan đóng ở Ki-ép. Dọc
đường tiến quân, các sư đoàn kỵ binh đỏ đã phá hủy các cầu và đường sắt để chặn
đường rút lui của quân Ba Lan.
Theo tin
tù binh khai thì tham mưu quân đoàn địch đóng ở Gi-tô-mia, nhưng thật ra ở đấy
là cả bộ tham mưu mặt trận của địch. Chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh của ta quyết
định chiếm lấy những đầu mối đường xe lửa quan trọng và những trung tâm hành
chính quan trọng là Gi-tô-mia và Béc-đi-sép. Và ngày mồng bảy tháng Sáu, khi
trời vừa tảng sáng, sư đoàn kỵ binh thứ tư của ta đã ập đến Gi-tô-mia.
Pa-ven
được bổ sung vào một trung đội kỵ binh, đi xung kích thay chân Cu-láp-cơ đã hy
sinh. Cả tập thể chiến sĩ không muốn rời bỏ người kéo đàn gió cừ ấy, nên đã đề
nghị thu nạp anh vào trung đội.
Đến gần
Gi-tô-mia, quân ta chia làm nhiều mũi theo hình cánh quạt đánh tỏa vào. Không
ai muốn ghìm vó ngựa đang phi hăng. Ánh nắng rọi vào lưỡi kiếm, bật ra muôn tia
sáng óng ánh bạc.
Đất
chuyển, ngựa hí, chiến sĩ rướn người trên bàn đạp. Mặt đất chạy lướt nhanh, lùi
lại dưới vó ngựa. Thành phố Gi-tô-mia to lớn có những công viên xinh như chạy
đến đón sư đoàn kỵ mã. Đã vượt qua những vườn hoa ngoại thành. Và giờ đây, sư
đoàn ập vào trung tâm, tiếng thét "xung phong" ghê rợn như thần chết,
rung chuyển không trung.
Bọn Ba
Lan kinh hoàng hầu như không dám chống cự lại. Quân đóng ở đây bị tiêu diệt tan
tành.
Pa-ven
cúi rạp xuống bờm ngựa, phi như bay. Bên cạnh là Tốp-tan đang phi trên con ngựa
đen nhánh chân thon.
Mắt
Pa-ven trông thấy nhát kiếm ác liệt của chiến sĩ Tốp-tan quả cảm bổ xuống một
thằng lê dương Ba Lan, tên này không kịp đưa lưỡi lê lên đỡ.
Móng sắt
của vó ngựa nện siết đường phố. Rồi bất chợt, ở ngã tư, một khẩu súng máy nhô
ra. Ba tên mặc binh phục xanh, đầu đội ca-lô cúi rạp trên khẩu súng, một tên
nữa, cổ áo có dải vàng như con rắn, chĩa súng lục nhằm bắn những người đi ngựa.
Không
ghìm được dũng mã, cả Tốp-tan lẫn Pa-ven cứ lao tới khẩu súng, đi thẳng vào
nanh vuốt của thần chết. Thằng sĩ quan cầm súng lục nhằm thẳng Pa-ven. Bắn
trượt... Đạn víu như chim sẻ kêu, sượt qua má. Và thằng sĩ quan địch bị ngựa xô
ngã lộn nhào, đầu vập xuống đường đá. Cùng lúc ấy, những súng máy hối hả nhả
đạn như bật ra những dịp cười điên cuồng ghê rợn. Như bị đàn ong bằng sắt châm
đốt, Tốp-tan và ngựa bị trúng chừng chục viên đạn ngã nhào xuống cả người lẫn
ngựa.
Con ngựa
của Pa-ven hoảng sợ, rống lên, cất vó nhảy chồm qua xác người và ngựa của
Tốp-tan, rơi vào giữa bọn giặc giữ súng máy. Mũi kiếm Pa-ven hoa lên một vòng
sáng rực, xả vào một chiếc ca-lô-xanh. Lưỡi kiếm lại vung lên không, nhằm bổ
vào một chiếc đầu khác. Nhưng con dũng mã đang phi hăng đã nhảy tót sang bên.
Như thác
lũ tràn về cả trung đội ập đến ngã tư này, hàng chục mũi kiếm hoa lên ngang dọc
trên không...
Những
hành lang hẹp và dài của nhà pha Gi-tô- mia vang ầm những tiếng kêu hét.
Trong
các xà-lim đầy ắp những người bị giam, mặt hốc hác, đau khổ. Ngoài phố đang
đánh nhau to, có thể nào tin được là giải phóng đến nơi? Có thể nào tin được
đấy là quân mình đã bất ngờ từ đâu hiện đến?
Trong
sân nhà pha đã có tiếng súng nổ rồi. Dọc các hành lang, người chạy vội vã. Rồi
có tiếng đột ngột nói lên thân thiết, vô cùng thân thiết.
- Ra đi,
các đồng chí ơi !
Pa-ven
dừng lại trước tấm cửa đóng kín. Hàng chục cặp mắt nhìn qua lỗ nhỏ. Hăng máu
lên, Pa-ven dùng báng súng cố ghè khóa cửa. Ghè nữa, ghè nữa!
- Để tớ
làm cho. Lấy mìn mà phá. - Mi-rô-nốp gạt Pa-ven sang bên, rồi thò tay rút quả
lựu đạn trong bao ra.
Trung
đội trưởng Xi-ga-sên-cơ giằng lấy quả lựu đạn:
- Dừng
lại, đồ ngốc! Mày điên à? Đợi mang chìa khóa mở đến. Không bẻ được đâu, để
người ta lấy khóa mở cho chúng mình.
Bọn canh
ngục, có súng ta gí sau lưng, bị dẫn đến mở khóa xà-lim. Hành lang một lát đã
đầy những người quần áo tả tơi, lâu ngày không được tắm rửa. Lòng họ đang vui
như điên.
Pa-ven
mở rộng cửa sắt, chạy vào nhà giam.
- Các
đồng chí ơi! Các đồng chí đã được giải phóng rồi! Chúng tôi là chiến sĩ kỵ binh
của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn chúng tôi đã chiếm được thành phố rồi.
Một
người đàn bà, nước mắt giàn giụa, ôm chầm lấy Pa-ven như ôm người nhà thân
thiết, khóc nức nở.
Giải
phóng bằng ấy đồng chí bôn-sê-vích của mình, đối với các chiến sĩ của sư đoàn,
thật quý hơn tất cả mọi thứ chiến lợi phẩm, quý hơn cả chiến thắng. Trong những
hộp bằng đá này, bọn Ba Lan trắng nhốt của ta năm ngàn bảy mươi mốt đồng chí
bôn-sê-vích đang đợi ngày chúng đem đi bắn hay đi treo cổ và hai ngàn chính trị
viên Hồng quân. Đối với bảy ngàn chiến sĩ cách mạng được giải phóng ấy, đêm tối
không cùng vừa qua phút chốc đã chuyển ngay thành ánh sáng chan hòa của một
ngày tháng Sáu tươi nắng.
Một đồng
chí bị giam mặt vàng như vỏ chanh ủng, sung sướng chạy đến gặp Pa-ven. Đấy là
Xa-miên Lê-khe, người thợ sắp chữ ở xưởng in Sê-pê-tốp-ca.
Nghe
Xa-miên kể chuyện, mặt Pa-ven cứ xám dần. Một tấn thảm kịch đẫm máu đã xảy ra ở
thị trấn quê hương. Mỗi tiếng Xa-miên nói ra rơi vào lòng anh như từng giọt sắt
nung lỏng.
- Có một
thằng khiêu khích khốn nạn báo, nên chúng tôi bị tóm tất cả. Cả bọn chúng tôi
rơi vào tay hiến binh. Chúng nó đem ra tra tấn ngay rất dã man. Tôi bị đau ít
hơn các đồng chí khác: vì bị chúng nó đánh mấy tua đầu là tôi lăn ra bất tỉnh
ngay. Còn các cậu khác thì khỏe hơn tôi... Cũng chẳng có gì mà giấu chúng nó
nữa. Bọn sen đầm biết mọi chuyện hơn cả chúng tôi kia. Chúng nắm được chẳng sót
một tý gì.
Làm sao
mà chúng không biết, khi có một thằng chó phản bội đã len được vào tổ chức. Kể
đến chuyện những ngày đó thật đau lòng. Những anh chị em bị bắt, Pa-ven quen
biết gần hết đấy. Va-li-a Bơ-ru- giắc, Rô-da Gơ-rít-sman, người ở quận lỵ, anh
nhớ ra Rô-da chứ, một cô bé con, một nữ thanh niên mười bảy tuổi, can đảm lắm,
có đôi mắt người ta cứ nhìn vào là tin ngay, rồi đến Xa-sa Bun-sáp, Pa-ven nhớ
chứ, thợ sắp chữ ở chỗ chúng tôi ấy mà, một thằng bé vui tính lắm, lúc nào cũng
vẽ nghịch lão chủ xưởng. Cậu ấy rồi đến hai học sinh nữa: Nô-vô-xen-ki và Tu-
gít. Những người ấy Pa-ven đều biết cả. Còn những người khác là người ở quận và
ở thôn ngoại ô. Hai mươi chín người tất cả, trong đó có sáu phụ nữ. Ai cũng bị
đánh dã man hết sức. Va-li-a và Rô-da bị chúng hiếp ngay hôm đầu. Thôi thì quân
khốn kiếp tha hồ làm nhục hai người con gái tội nghiệp. Lúc chúng nó lôi hai
người về xà-lim thì đã chết dở cả. Sau lần đó, Rô-da bắt đầu nói huyên thuyên
và vài hôm sau thì phát điên hẳn.
Song
quân giết người không muốn tin là chị điên. Cho là giả vờ, mỗi lần hỏi cung,
lại đánh chị tàn tệ. Hôm chúng đem chị đi bắn, thật nhìn mà ghê sợ. Mặt bị đánh
thâm tím khắp cả, đôi mắt dữ và dại đi. Trông y như một bà lão.
Va-li-a
cho đến lúc chết vẫn hiên ngang. Anh chị em đã chết ra cái chết của những chiến
sĩ chân chính. Tôi không biết anh chị em đó đã lấy đâu ra sức mạnh mà dũng cảm
phi thường như vậy. Pa-ven ơi! Có tài nào thuật lại được hết về cái chết của
họ? Không, Pa- ven ạ. Cái chết của họ ghê gớm hơn tất
cả những lời kể lại... Va-li-a nguy nhất trong bọn: chị phụ trách bắt liên lạc
với cánh làm vô tuyến điện cho tham mưu Ba Lan. Chị được phái đến quận để bắt
liên lạc. Chúng vào khám nhà chị thấy khẩu Bơ-rao-ninh và hai quả lựu đạn. Súng
lục và lựu đạn đó chính do tên khiêu khích đã đưa cho chị. Chúng nó bày trò ra
tất cả, để buộc tội chị âm mưu dùng mìn ám sát ban tham mưu.
Pa-ven
ạ, tôi thật đau lòng mà kể lại những giờ phút cuối cùng của anh chị em, nhưng
Pa-ven đã yêu cầu thì tôi xin kể hết. Tòa án binh của chúng đã tuyên án:
Va-li-a và hai người làm việc với chị thì bị treo cổ, những đồng chí khác thì
xử bắn.
Những
lính Ba Lan mà chúng tôi đã vận động được bị đem ra xử trước chúng tôi hai
ngày.
Đồng chí
vô tuyến điện tên là Snê-guốc-cô liên lạc với Va-li-a bị buộc tội phản quốc và
tuyên truyền cộng sản trong binh lính. Đồng chí người còn trẻ, đóng cai, trước
chiến tranh làm thợ máy điện ở Lốt. Chúng kết tội xử bắn. Đồng chí từ chối
không ký giấy chống án, và bị đem đi bắn ngay, hai mươi bốn giờ sau khi tuyên
án.
Va-li-a
bị gọi đến làm chứng xử vụ Snê-guốc-cô, về có kể lại là Snê-guốc-cô nhận đã
tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, song cực lực phản đối án kết tội anh là phản
quốc. Anh nói:
"Tổ
quốc của tôi là nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa Ba Lan. Phải, tôi là
đảng viên Đảng cộng sản Ba Lan, bị cưỡng ép mà đi lính. Vào lính, tôi phải tìm
hết cách để mở mắt cho các bạn đồng ngũ cũng bị ép ra mặt trận như tôi. Các ông
viện cớ đó muốn treo cổ tôi thì treo cổ, nhưng không bao giờ tôi phản bội Tổ
quốc của tôi, không bao giờ cả. Duy có một điều: Tổ quốc của các ông và Tổ quốc
của tôi không phải là một. Tổ quốc của các ông là tổ quốc của bọn vương bá. Tổ
quốc của tôi là Tổ quốc của thợ thuyền và dân cày. Tổ quốc của tôi - phải,
tương lai sẽ có Tổ quốc của tôi, tôi tin tưởng sâu xa điều đó. - Trong Tổ quốc
của tôi, không ai nói rằng tôi là phản quốc cả".
Bị kết
án xong, chúng tôi bị giam tập trung vào một chỗ. Trước khi bị đem đi hành
hình, chúng lại chuyển chúng tôi về nhà pha. Đêm trước chúng trồng cột treo cổ
ngay trước nhà pha bên cạnh nhà thương. Chỗ bắn lại ở nơi khác, hơi xa đấy, bên
rừng, gần con đường men theo bờ lạch. Chúng đã đào sẵn một cái huyệt chung để
vùi chúng tôi.
Bản án
dán khắp nơi, trong thành phố ai cũng biết. Chúng rắp tâm định hành án chúng
tôi giữa ban ngày, có mặt dân, để cho nhân dân ai cũng trông thấy mà sợ. Từ
sáng sớm, chúng lùa hàng phố ra chỗ cột treo cổ. Một số người vì tò mò mà kéo
đến. Trông xử treo cổ ghê mắt thật, nhưng họ vẫn đến. Quần chúng vây quanh
những cột treo cổ đông lắm. Nhìn đâu cũng thấy đầu người như sóng biển. Pa-ven
nhớ có cái tường bao quanh nhà pha bằng gỗ cây ghép đấy nhỉ. Cột treo cổ trồng
dựa lưng vào nhà pha cho nên chúng tôi nghe rõ tiếng rào rào của đám đông bên ngoài.
Trên đường phố, phía sau lưng quần chúng, đã đặt sẵn súng máy, sen đầm đi ngựa
và đi chân đều dồn về đây canh gác. Một tiểu đoàn bộ binh vây lấy các vườn rau
và các thành phố. Chúng đã đào sẵn một hố riêng chôn những người bị treo cổ
ngay bên cột treo cổ. Chúng tôi im lặng chờ đợi trong ngục, thỉnh thoảng nói
với nhau vài lời. Đêm hôm trước, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện với nhau rồi
và đã gửi nhau lời vĩnh biệt. Chỉ có Rô-da đứng lẩm bẩm một mình ở góc tường.
Va-li-a bị đánh, bị hiếp, kiệt sức không bước được nữa, thường phải nằm liệt
một chỗ. Có hai chị em ruột, đảng viên ở thôn ngoại ô, ôm lấy nhau chào vĩnh
biệt và không nén nổi, nấc lên khóc nức nở. Stê-pa-nốp, một thanh niên ở quận
khỏe như đô vật, khi mới bị bắt đã choảng hai tên sen đầm bị thương, nghe khóc,
lại gần hai chị ấy, nhắc đi nhắc lại: "Đừng khóc, các đồng chí! Nếu khóc ở
đây để chốc nữa đừng khóc ngoài kia thì các đồng chí cứ khóc. Đừng cho đàn chó
khát máu thấy chúng ta yếu lòng mà chúng phởn bụng. Thế nào thì chúng cũng chẳng
thương gì chúng ta đâu, thế nào rồi cũng chết. Vì vậy phải chết cho cứng cỏi.
Đừng có ai trong chúng ta được quỳ gối, cúi đầu cả. Các đồng chí nhớ lấy, chết
thì phải chết cứng cỏi".
Rồi
chúng đến dẫn chúng tôi đi. Đi đầu là thằng Sơ-vác-cốp, trưởng ban phản gián
trắng, một thằng cuồng dâm điên loạn, một đứa trông thấy đàn bà nếu chính nó
không đè ra hiếp, thì cũng để cho lũ sen đầm hiếp ngay trước mặt để nhìn cho
sướng mắt. Từ nhà ga ra đến cột treo cổ, xếp song song hai hàng rào sen đầm.
Bọn "vện" đeo lon vàng ấy đứng nghiêm, gươm tuốt trần sáng loáng.
Chúng nó
lấy báng súng dồn chúng tôi ra sân nhà pha, rồi bắt chúng tôi xếp hàng tư điệu
ra chỗ cột treo cổ, định tâm bắt chúng tôi phải chứng kiến cái chết của đồng
chí mình, trong khi chờ đợi đến lượt mình đi chết. Cột treo cổ bằng những thanh
gỗ to sù, cao dựng đứng, lủng lẳng ba thòng lọng bằng thừng to bện lại. Chung
quanh, biển người náo động, xì xào. Dân nhìn chúng tôi... chúng tôi nhìn dân.
Mỗi người nhận ra người nhà của mình.
Xa xa,
trên thềm cao, tất cả bọn quý tộc Ba Lan đã ngồi chầu sẵn, tay cầm ống nhòm.
Nhiều đứa là võ quan. Chúng đến xem treo cổ người bôn-sê-vích.
Dưới
chân chúng tôi, tuyết êm lắm, rừng chung quanh trắng xóa, cây cối như có bông
bao phủ, hoa tuyết quay tròn rơi từ từ và tan trên da mặt nóng bừng của chúng
tôi. Bệ dưới cột treo cổ cũng có tuyết. Mặc phong phanh mà chúng tôi cũng chẳng
thấy rét, Stê-pa-nốp cũng không biết là chân mình chỉ đi tất không mang giày.
Tên
chưởng lý tòa án binh và các sĩ quan cao cấp đứng trước cột treo cổ. Rồi chúng
dẫn Va-li-a và hai người nữa bị xử treo cổ ra khỏi nhà giam. Ba người khoác tay
nhau, Va-li-a đi giữa. Hai người đỡ cho chị đi, chị không còn sức nữa, cố lê
bước chân, mình không áo khoác, trần một chiếc áo sợi. Chị cố đi thẳng người,
có lẽ chị đang nhớ tới lời Stê-pa-nốp: "Phải chết cho cứng cỏi!"
Thằng Sơ-vác-cốp trông thấy ba người tử tù khoác tay nhau mà đi thì lấy làm cáu
lắm. Nó gạt hai người đàn ông đỡ chị ra. Chị cự lại nó ngay. Thế là có một
thằng sen đầm đi ngựa đến quất roi da vào mặt chị, tay này mỏi hắn lại đưa roi
sang tay khác quất lấy quất để.
Trong
đám quần chúng có một người đàn bà rú lên, tiếng rú của một người mất trí khôn,
bà ta lăn xả vào lách qua hàng rào lính, chạy đến hàng người bị xử, nhưng bà bị
giữ lại và bị dẫn đi đâu không rõ. Chắc là bà mẹ chị Va-li-a. Khi ba người đến
dưới chân cột treo cổ, Va-li-a cất tiếng hát. Chưa bao giờ tôi được nghe thấy
một giọng hát như thế. Chỉ có một người bị xử tử, dũng cảm đi ra trước cái
chết, mới hát say mê đến nhường ấy được. Va-li-a cất tiếng hát lên Bài hát của
người dân thành Vác-xô-vi. Hai người cùng bị tội với chị đồng thanh hát theo.
Thế là bọn sen đầm quất roi như bão táp vào mặt họ thật cực kỳ hung tợn. Nhưng
họ dường như không biết đau nữa. Rồi bọn chúng đánh họ ngã lăn ra, lôi lại cột
treo cổ như lôi những bì gạo. Chúng hấp ta hấp tấp đọc bản án, rồi vứt thòng
lọng vào cổ họ. Thế là đến lượt chúng tôi hát lên.
Vùng
lên, hỡi các nô lệ ở thế gian !...
Chúng nó
tứ phía bổ lại nện chúng tôi túi bụi. Tôi chỉ còn kịp trông thấy một tên lính
lấy báng súng đánh bật cọc giữ chân ra và ba thân người lủng lẳng, giãy giụa ở
đầu dây thừng treo cổ.
Mười
người trong bọn tôi, trong số đó có tôi được ân giảm: khi chúng tôi đã bị đứng
lấp quay mặt vào tường để ăn đạn chì, thì chúng đọc cho chúng tôi nghe lệnh của
tên tướng cho giảm xuống mười năm khổ sai thay vào tội xử tử. Mười bảy đồng chí
kia bị bắn chết gục bên cạnh chúng tôi.
Xa-miên
cởi giật cúc áo cổ dường như bị nghẹt thở, rồi kể tiếp:
- Trong
ba ngày, những người bị treo cổ cứ lủng lẳng ở đấy, ngày đêm có một tiểu đội
lính gác bên cột treo cổ. Anh em bị bắt vào sau cho chúng tôi biết như thế. Đến
ngày thứ tư thì xác đồng chí Tô-bôn- đin nặng nhất rơi xuống. Bấy giờ, chúng
mới cởi hai cái xác kia, chôn ngay tại chỗ. Còn cột treo cổ vẫn để đấy, hôm
chúng dẫn bọn tôi vào đây, bọn tôi vẫn còn trông thấy. Cả cột lẫn dây thòng
lọng vẫn còn nguyên để đợi những người khác bị xử tử.
Xa-miên
ngừng kể, mắt nhìn chằm chằm vào một cái gì mơ hồ ở đằng xa. Câu chuyện kể hết
vào lúc nào, Pa-ven cũng không để ý nữa. Trước mắt anh hiện rõ ra hình ảnh ba
xác người, đong đưa, im lặng, đầu rũ về bên một cách thê thảm.
Ngoài
kia, kèn gọi tập hợp. Tiếng kèn oai hùng đưa anh về với thực tại. Anh nói khẽ,
tiếng bật ra trong hơi thở.
-
Xa-miên ạ, chúng ta ra khỏi đây đi thôi!
Ngoài
phố, tù binh Ba Lan lê bước giữa hai hàng kỵ binh của ta áp giải. Ở cửa trại
giam, đồng chí chính ủy trung đoàn đứng viết nốt mệnh lệnh vào cuốn sổ tay đi
trận. Đồng chí đưa mảnh giấy cho người trung đội trưởng thấp lùn:
- Danh
sách tù binh đây, đồng chí An-ti-pốp cầm lấy. Lấy một tổ đi theo và áp giải họ
về Nô-vô-gơ-rát.
-
Vô-lưn-xki. Cho băng bó những người bị thương, rồi đặt họ nằm trên xe và cũng
đưa về đấy cả. Áp giải họ chừng hai mươi dặm, sau đó để họ tự đi tiếp. Ở đây chúng
ta còn bận việc khác. Song cẩn thận nhé, đừng để xảy ra chuyện gì ngược đãi đối
với họ.
Pa-ven
lên ngựa, quay bảo Xa-miên:
- Anh
nghe rõ chứ? Chúng nó treo cổ anh chị em ta, mà chúng ta thì dẫn họ đi không
được ngược đãi họ ! Không dễ như thế đâu!
Đồng chí
chính ủy quay lại, nhìn vào mặt Pa-ven và đồng chí nói những tiếng gọn, rắn
rỏi, như nói với chính mình:
- Ai
ngược đãi tù binh giải giáp rồi sẽ bị xử bắn. Chúng ta không có như bọn bạch
vệ.
Rời trại
giam, Pa-ven nhớ lại những lời cuối trong bản mệnh lệnh của Hội đồng quân sự
cách mạng đã đem ra đọc trước toàn thể trung đoàn:
"Đất
nước của thợ thuyền và dân cày yêu mến Hồng quân của mình và lấy làm tự hào về
Hồng quân. Đất nước đòi hỏi phải giữ cho lá cờ của Hồng quân trong sạch, không
một vết nhơ".
Pa-ven
nhủ thầm trên môi: "Không một vết nhơ".
*
Trong
khi sư đoàn kỵ binh đỏ thứ tư chiếm lĩnh Gi-tô-mia thì lữ đoàn thứ hai mươi của
sư đoàn khinh binh thứ bảy vượt sông Đơ-nhi-ép ở quãng thôn Ô- cu-nhi-nô-vô. Lữ
đoàn thứ hai mươi này nhập vào binh đoàn xung kích của đồng chí Gô-li-cốp.
Đoàn này
gồm có sư đoàn khinh binh 25 và lữ đoàn kỵ binh Ba-sơ-kia, nhận lệnh sau khi
vượt sông Đơ- nhi-ép, thì cắt đường rút quân của địch từ Ki-ép đến Cô-rô-ten,
gần ga La-sa. Do thế vận động đó mà quân Ba Lan mất đường rút lui duy nhất.
Chính trong cuộc vượt sông Đơ-nhi-ép này mà Mi-sa, người thanh niên cộng sản
thành Sê-pê-tốp-ca, đã hy sinh.
Lúc ấy
bộ đội như đang chạy thi vượt nhanh nhịp cầu nổi rung rinh, thì có một quả đại
bác, từ phía đằng kia, sau ngọn đồi, rú lên, ghê rợn, bay trên đầu các chiến sĩ
rồi rơi tõm xuống nước. Mi-sa bị bắn, người lộn nhào ngay xuống dưới đáy một
chiếc thuyền làm cầu. Dòng nước cuốn nuốt chửng anh đi không buông tha nữa. Chỉ
có I-a-ki-men-cô, một thanh niên tóc vàng hoe, đội mũ mất lưỡi trai, kêu lên
kinh ngạc:
- Cậu
không trông thấy gì à? Mi-sa bị nước cuốn mất rồi. Tội nghiệp thằng bé rơi
xuống đã biến mất, như bị con bò thè lưỡi liếm phăng đi ! - I-a-ki-men- cô đứng
sững lại, hoảng hốt, nhìn dòng nước thăm thẳm, nhưng đoàn quân từ phía sau tiến
lên xô tới, giục anh:
- Sao
cậu đứng há mồm ra nhìn như thằng ngố thế ? Tiến lên đi nào!
Thời giờ
không có để mà suy nghĩ về người đồng đội mất tích ấy nữa: lữ đoàn của họ đã bị
các đơn vị khác chiếm xong bên hữu ngạn, bỏ rớt lại xa rồi.
Bốn ngày
sau, Xéc-gây mới biết tin bạn chết. Khi đó lữ đoàn đã chiếm được ga Bu-sa và
chuyển thế trận quay sang Ki-ép, chống lại những đợt tấn công ác liệt của quân
Ba Lan đang tìm cách đánh thọc vào Cô-rô-ten.
I-a-ki-men-cô
nằm ngay cạnh cùng hàng xạ kích với Xéc-gây. Anh ngừng nhịp bắn điên giận, đẩy
quy- lát một cách khó nhọc trên nòng súng nóng bỏng, cúi đầu xuống đất, quay
lại nói với Xéc-gây:
- Khẩu
súng của mình nó đòi nghỉ. Ái chà nòng súng nóng như lửa!
Tiếng nổ
ầm ầm át đi làm Xéc-gây chỉ thoáng nghe thấy tiếng nói của bạn. Khi tiếng súng
im một lát, I-a-ki-men-cô mới báo tin qua cho Xéc-gây biết:
- Bạn
cậu bị chết đuối ở Đơ-nhi-ép rồi. Lúc ấy một quả đại bác bắn tung tóe vào chúng
tớ. Mình chưa kịp kêu lên, Mi-sa đã lăn tòm xuống nước rồi không thấy ngoi lên
nữa.
I-a-ki-men-cô
nói rồi lấy tay kéo quy-lát, móc túi dết lấy đạn ra và vội vã lắp vào súng.
*
Sư đoàn
mười một tấn công vào chiếm lĩnh Béc- đi-sép vấp phải sức kháng cự mãnh liệt
của quân Ba Lan.
Chiến
đấu gay go, máu loang các phố. Liên thanh nổ giòn chặn đường kỵ binh. Nhưng rồi
thành phố cũng bị ta chiếm, tàn quân địch bỏ chạy. Trên ga, ta thu được nhiều
đoàn tàu chở quân trang, quân dụng của chúng. Thiệt hại nặng nhất của địch là
kho dự trữ đạn dại bác của toàn mặt trận chừng một triệu viên bị nổ tung. Các
cửa kính trong phố vỡ vụn ra, nhà cửa bị tiếng nổ mạnh rung chuyển, tưởng như
làm bằng giấy bồi.
Bị đánh
vào Gi-tô-mia và Béc-di-sép đối với quân Ba Lan tức là bị đánh quật từ sau lưng
lại, cho nên chúng vội vàng chia ngay làm hai mũi như hai dòng thác người hấp
tấp chuồn khỏi Ki-ép, cố sống cố chết đánh một cách tuyệt vọng để mở đường chạy
thoát vòng vây sắt của quân ta.
Pa-ven
đã không còn nghĩ gì về cá nhân mình. Những ngày đang sống say sưa trong những
trận xung sát ác liệt, anh hòa hẳn mình vào tập thể và cũng như mỗi người trong
các chiến sĩ, anh như đã quên hẳn tiếng "tôi" chỉ còn nói tiếng
"ta": trung đoàn "ta", trung đội "ta", lữ đoàn
"ta".
Mà tình
hình thì dồn dập, diễn biến nhanh như gió bão. Mỗi ngày đều mang đến một chuyện
mới. Đoàn kỵ mã lao đến đâu cuốn phăng phăng đến đấy. Đoàn kỵ binh quang vinh
của tướng Bu-đi-on- ny đánh hết trận này đến trận khác, đã làm tiêu hao, kiệt
sức tất cả hậu phương của Ba Lan. Say sưa trước thắng lợi ngày càng một lớn,
các sư đoàn kỵ binh đỏ hùng dũng tấn công vào Nô-vô-gơ-rát-vô-lưn-ski, trái tim
của hậu phương quân địch.
Quân ta
lùi lại như những đợt sóng đập vào bờ sông có đá dựng đứng, bị đẩy ra, rồi lại
chồm lên với tiếng thét "xung phong" mãnh liệt.
Không gì
cứu nổi quân Ba Lan nữa rồi, cả những hệ thống hàng rào dây thép gai và cuộc
kháng cự liều chết cố sống của quân giữ thành này cũng chẳng ăn thua gì. Sáng
hai mươi bảy tháng Sáu, quân kỵ mã của ta thúc ngựa lội qua sông Xi-lút, ập vào
thành, truy kích quân địch ở phía làng Cô-rét. Cùng lúc ấy, sư đoàn bốn mươi
nhăm cũng vượt qua sông này ở quãng Mi-rô-pôn, còn lữ đoàn kỵ binh Cô-tốp-ski
thì đã phóng tới Lu-ba.
Vô tuyến
điện của tập đoàn quân kỵ mã thứ nhất nhận được lệnh của Bộ tư lệnh mặt trận:
đưa toàn bộ quân kỵ mã xung phong chiếm lấy Rốp-nô. Cuộc tấn công ồ ạt không
sức gì cản nổi của các sư đoàn đỏ truy kích quân Ba Lan, làm chúng bị chia cắt
tán loạn, rời rạc, mất tinh thần, cố chạy dài bán sống bán chết để tháo thân.
Một hôm,
Pa-ven được lữ đoàn trưởng phái đến chỗ ga có đoàn xe bọc sắt đỗ. Tới đấy, anh
được gặp một người mà anh không ngờ là có thể gặp. Con ngựa của anh nhảy tót
qua bờ dốc của đường xe lửa. Pa-
ven kéo cương dừng lại trước toa xe đầu sơn xám. Đoàn xe bọc sắt kiên cố ghê sợ
đứng lù lù, ló những chiếc mõm đen của nòng súng giấu trong tháp pháo. Chung
quanh nhiều bóng người bê bết dầu mỡ đang loay hoay ỳ ạch nâng những tấm thép
nặng bọc ngoài bánh.
Gặp một
chiến sĩ mặc áo da đang xách thùng nước, Pa-ven hỏi:
- Đồng
chí có biết đồng chí chỉ huy đoàn tàu bọc thép này ở đâu không?
Chiến sĩ
kia hất đầu chỉ về phía đầu tàu:
- Ở đằng
kia kìa.
Pa-ven
đi lại đầu tàu hỏi:
- Ở đây
ai là đồng chí chỉ huy xin cho biết.
Một
người mặc toàn đồ da từ đầu đến chân, mặt rỗ, quay lại :
- Tôi
đây.
Pa-ven
thò vào túi lấy ra một phong thư:
- Đây là
mệnh lệnh của lữ đoàn trưởng. Đề nghị đồng chí ký nhận trên phong bì cho.
Đồng chí
chỉ huy tì phong bì lên đầu gối ký tên.
Một bóng
người đang cầm bình dầu lúi húi gần bánh xe giữa của đầu máy. Pa-ven chỉ nhìn
thấy cái lưng rộng của người ấy và báng súng lục lòi ra ngoài túi quần da.
Đồng chí
chỉ huy trao lại phong bì cho Pa-ven:
- Gửi
đồng chí. Tôi đã ký nhận rồi đấy.
Pa-ven
cầm dây cương ngựa định ra về. Giữa lúc đó bóng người bên đầu tàu đứng thẳng cả
người lên quay lại. Thì ngay lúc ấy, Pa-ven nhảy tót xuống như thoắt có một cơn
gió cuốn khỏi yên ngựa:
- Anh
A-rơ-chom!
Người
thợ máy khắp người nhọ nhem dầu ma-dút, đặt bình dầu xuống đất và ôm chặt lấy
anh chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi trong cánh tay khỏe như gấu của mình.
-
Pa-ven! Ra mày đấy à, hở thằng nhãi con. - A- rơ-chom kêu lên thế, mắt nhìn còn
ngỡ là nhầm.
Đồng chí
chỉ huy đoàn tàu nhìn cảnh đó rất lấy làm lạ. Anh em pháo thủ chung quanh cười
ran cả lên:
- Trông
kìa, hai anh em gặp nhau.
Ngày
mười chín tháng Tám, trong trận đánh ở vùng Lơ-vốp, Pa-ven
để rơi mất mũ cát-két. Vừa hãm ngựa lại nhặt mũ thì thấy trước mặt các trung
đội đỏ đã đánh thọc vào hàng ngũ khinh binh Ba Lan. Lúc đó, Đê-mi-đốp phi ngựa
vun vút giữa những lùm cây, vừa phi theo bờ dốc xuống sông, vừa kêu lên:
- Sư
đoàn trưởng đã bị chúng giết rồi.
Pa-ven
rùng mình. Đồng chí Lê-tu-nốp, người chỉ huy anh hùng của sư đoàn, người đồng
chí có lòng quả cảm vô biên, người ấy đã mất rồi. Pa-ven căm giận sôi người,
lấy đốc kiếm phát vào mông con ngựa Gơ-nê-đốc, ghì cương chặt, hàm thiếc siết
mạnh làm mõm ngựa bật máu tươi, anh lao sâu vào lòng cơn xung sát, thét lớn:
- Chém
hết đầu loài súc sinh nhơ bẩn ấy đi! Chém đi! Chém hết bọn quý tộc Ba Lan!
Chúng nó đã giết mất Lê-tu-nốp rồi.
Và Pa-ven
chém phập vào bóng một tên mặc binh phục xanh, anh chẳng ngoái lại nhìn kẻ bị
chém đó nữa. Điên tiết lên vì căm thù trước cái chết của sư đoàn trưởng, quân
kỵ mã đỏ chém chết cả một đơn vị lê-dương.
Họ xông
lên đến tận cánh đồng, truy kích lũ giặc đang chạy thì vừa lúc ấy pháo binh
địch bắn tới. Trái phá nổ vừa bung lên xé đứt không trung, mảnh đạn chết người
bắn tung tóe.
Trước
mắt Pa-ven, một ngọn lửa xanh bùng lên, lóe sáng, như chớp lòe xoẹt mạnh bên
tai nghe như tiếng sấm, mảnh đạn đỏ rực cháy sém vào đầu anh. Mắt Pa-ven hoa
lên, đất bắt đầu xoay như chong chóng, ghê sợ, quay cuồng, lảo đảo rồi như ngã
vật xuống bên anh.
Tiếng nổ
rung chuyển mạnh làm Pa-ven bắn khỏi mình ngựa nhẹ như chiếc lông. Anh lăn qua
đầu con ngựa Gơ-nê-đốc, nặng nề ngã nhào ra đất.
Và anh
thấy tối sầm lại.
Thép đã tôi thế đấy
Chương IX - Hết
Gia đình
Pa-ven dọn về ở Mát-xcơ-va đã khá lâu, ở một buồng kho lưu trữ công văn của một
cơ quan; đồng chí thủ trưởng cơ quan đó ra sức giúp Pa-ven, tìm cách đưa anh
vào chữa ở một bệnh viện chuyên khoa.
Mãi đến
giờ Pa-ven mới hiểu rằng, thân còn cường tráng, máu còn thanh niên mà đứng vững
thì hãy còn là chuyện tương đối dễ và thường thôi. Nhưng giờ bị cuộc đời dồn ép
vào một vòng đai thép như thế này, mà vẫn không nao núng, thì đấy mới là tiết
tháo.
Mười tám
tháng đau liên miên.
Ở bệnh
viện, giáo sư A-véc-bác đã nói thẳng với Pa-ven là không thể nào chữa cho anh
khỏi mù được. Nếu sau này, mắt anh không sưng nữa - nào biết bao giờ khỏi được
sưng - thì sẽ thử dùng cách giải phẫu mổ con ngươi xem sao. Trong khi chờ đợi,
để cho mắt khỏi sưng tấy lên nữa, thầy thuốc đề nghị mổ chỗ mắt đau.
Hỏi ý
kiến Pa-ven thì Pa-ven cho phép muốn làm gì thì làm, tùy các thầy thuốc xét
thấy cần thiết.
Anh nằm
trên bàn mổ hàng giờ, trong khi dao mổ rạch thịt cổ và cắt hạch lấy tuyến giáp
thì cánh đen của thần chết ba lần suýt quệt vào anh. Nhưng sự sống vẫn bám chắc
rễ trong người Pa-ven. Thai-a chờ đợi lo hãi từng giờ, lúc được vào thăm thì
thấy anh tái mét như người chết, nhưng Pa-ven vẫn còn sống và vẫn bình tĩnh,
dịu dàng như mọi khi.
- Em
đừng lo, em ạ, làm anh ngoẻo được không phải là dễ đâu. Anh còn sống hằng năm
và anh sẽ nhảy múa nữa cho mà xem, dù chỉ để cải chính những tính toán máy móc
của các thầy lang thông thái ấy chơi. Bảo cơ thể anh suy kiệt thì các thầy đều
có lý cả, nhưng bảo anh trăm phần trăm là một người tàn phế thì nhầm quá lắm.
Rồi mà xem.
Pa-ven
quyết tâm chọn con đường đưa anh trở về hàng ngũ nhũng con người xây dựng cuộc
đời mới.
Mùa đông
qua. Mùa xuân đã tới, mở toang các cửa sổ ra, và Pa-ven gầy rộc đi qua lần mổ
vừa rồi, thấy rằng không thể ở bệnh viện lâu hơn được nữa. Sống bằng ấy tháng
trời, chung quanh toàn là những con người đau đớn bệnh tật, giữa tiếng kêu la
rên xiết của những người bệnh tuyệt vọng, anh thấy khổ hơn là chịu đựng những
đau đớn của riêng bản thân mình.
Khi thầy
thuốc bảo nên mổ nữa thì anh trả lời, lạnh lùng và dứt khoát:
- Tôi
không mổ nữa đâu. Mổ thế là đủ. Tôi đã hiến cho khoa học một phần máu của tôi
rồi. Chỗ máu còn lại tôi còn phải để dùng vào việc khác.
Ngay
ngày hôm ấy, Pa-ven viết thư đề nghị Trung ương thu xếp cho anh ở lại
Mát-xcơ-va, sợ sau này phải đi lại mất công, vả chăng vợ anh cũng có công tác ở
đấy rồi. Đây là lần đầu tiên anh phiền đến Đảng, xin Đảng giúp anh. Đáp lại lời
đề nghị đó, Xô-viết Mát-xcơ-va xếp cho anh một căn phòng. Pa-ven liền ra viện
với một mong ước độc nhất là không bao giờ phải trở lại đấy nữa.
Nhà anh
chỉ là một căn phòng giản dị ở ngõ rẽ ra phố Cơ-rô-pốt-kin . Anh cho thế là đã
sang trọng nhất rồi. Thỉnh thoảng giữa đêm, Pa-ven thức dậy, anh vẫn không tin
là mình chỉ vừa mới rời khỏi bệnh viện.
Thai-a
được công nhận là đảng viên chính thức. Chị làm việc bền bỉ, tuy cả tấn bi kịch
của đời tư cứ đè trĩu trên người, chị vẫn không kém các nữ công nhân xung kích;
và tập thể theo dõi người nữ công nhân ít nói ấy, đem lòng tín nhiệm chị và bầu
chị vào ủy ban công xưởng. Lòng tự hào về vợ nay đã trở thành một chiến sĩ
bôn-sê-vích cũng làm cho Pa-ven dịu bớt đau buồn về cảnh ngộ.
Ba-gia-nô-va
có công tác đi qua, vào thăm Pa-ven. Hai người nói chuyện với nhau lâu. Pa-ven
nói với bạn một cách say sưa về con đường trong một tương lai gần đây sẽ đưa
anh về hàng ngũ chiến đấu.
Ba-gia-nô-va
nhận thấy tóc ở thái dương Pa-ven đã bạc. Chị dịu dàng nói:
- Tôi
thấy anh đã trải nhiều gian khổ mà vẫn giữ được lòng hăng hái không gì dập tắt
được. Cuốn sách mà anh nghĩ đã năm năm, giờ anh định bắt đầu viết phải không?
Nên lắm anh ạ. Nhưng anh làm thế nào mà cầm bút viết được.
Pa-ven
mỉm cười, nói cho bạn khỏi lo:
- Mai
người nhà sẽ làm cho tôi một thứ bìa để kê giấy viết. Không có bìa kê ấy, không
viết được, dòng chữ sẽ lên xuống, đè lên nhau. Tôi nghĩ mãi mới tìm ra cách ấy.
Những mảnh bìa ấy sẽ làm cho tôi không đưa chệch ngọn bút chì ra khỏi dòng
thẳng. Viết mà không trông thấy điều mình viết thì khó viết lắm, nhưng không
phải là không viết được. Tôi tin như thế. Tôi tập viết đã lâu mà không được.
Nhưng giờ thì tôi rút kinh nghiệm, tôi viết chậm thôi, tôi nắn nót từng chữ, và
kết quả thì cũng khá.
Pa-ven
bắt đầu làm việc.
Anh dự
định viết một truyện về sư đoàn anh dũng Cô-tốp-ski. Tên cuốn sách do ngay chủ
đề cuốn sách mà ra:
"Ra
đời trong bão táp".
Từ hôm
ấy, anh sống chỉ để mà viết cuốn sách đó. Dần dần mọc ra hết dòng này đến dòng
khác, hết trang này đến trang khác. Anh quên hết mọi việc, chỉ miệt mài với
những hình tượng. Lần đầu tiên anh biết cái đau đớn của sáng tác, khi anh thấy
mình không tài nào ghi hết lên giấy được những cảnh đời rực rỡ không sao quên
được, hồi tưởng lại rất nồng cháy, thế mà viết ra thì nhợt nhạt, thiếu lửa,
thiếu tình.
Tất cả
những điều anh đã viết, anh phải nhẩm trong óc, nhớ từng chữ một. Đôi khi anh
quên khuấy mất dòng văn thì công việc dừng cả lại. Bà mẹ nhìn con hí hoáy viết
cả ngày thì rất đỗi kinh sợ.
Anh phải
đọc lại bằng trí nhớ hàng trang sách, có khi hàng cả chương sách nữa, mới có
thể lại tiếp tục viết được nữa. Những lúc ấy bà mẹ ngỡ là con hóa dại. Trong
khi con còn đang mải viết, bà mẹ không dám lại gần. Nhưng khi nào bà cụ đến
nhặt những tờ giấy vương rơi dưới đất thì ngập ngừng, rồi ngần ngại khẽ bảo
Pa-ven:
- Con
đừng viết thế nữa, Pa-vơ-lu-sa ạ. Mẹ chẳng trông thấy ai viết lắm như thế bao
giờ.
Thấy mẹ
lo, anh bật cười vui và nói cho mẹ vui và nói cho mẹ yên tâm là anh chưa đến
nỗi hóa rồ hẳn đâu.
Ba
chương cuốn sách anh định xây dựng đã viết xong. Pa-ven gửi đi Ô-đét-xa cho mấy
đồng chí cũ trong sư đoàn Cô-tốp-ski đọc để lấy ý kiến. Ít lâu sau, anh nhận
được thư họ trả lời tỏ ý khen ngợi. Song bản thảo gửi trả lại lạc mất. Toi công
sáu tháng trời. Anh rụng rời điếng người, tiếc cay tiếc đắng sao lại gửi đi bản
thảo duy nhất của cuốn sách mà không chép lại một bản giữ ở nhà. Anh nói chuyện
với Lê- đê-nhếp về việc mất bản thảo đó.
- Ai lại
vô ý đến thế. Nhưng, đừng buồn bực, chú ạ. Bực tức giờ cũng vô ích.Thôi, chú
lại chịu khó viết lại đi.
- Nhưng,
bác Lê-đê-nhếp ơi, thế là cướp không mất của tôi sáu tháng trời, quần quật làm
căng óc tám giờ một ngày. Trời ơi, chúng nó là đồ ăn hại, ba lần chết tiệt!
Lê-đê-nhếp
tìm lời khuyên nhủ cho anh nguôi lòng.
Phải
viết lại từ đầu. Lê-đê-nhếp kiếm giấy cho anh viết. Bản thảo viết ra, đồng chí
lại đem đi nhờ đánh máy lại. Được sáu tuần thì làm sống lại được chương thứ
nhất.
Gia đình
Pa-ven ở chung nhà với gia đình A-lêc-xê-ép. Gia đình này có con trai lớn là
A-lêc-xan-đơ- rơ, làm bí thư quận Đoàn thanh niên. Em gái A-lêc- xan-đơ-rơ là
Ga-li-a, mười tám tuổi, đã tốt nghiệp trường dạy nghề của nhà máy.
Ga-li-a
đang tuổi chan chứa lòng yêu đời. Pa-ven nhờ mẹ hỏi xem cô ấy có ưng giúp làm
"thư ký" cho anh không. Ga-li-a vui vẻ nhận lời. Cô niềm nở, vui cười
sang gặp Pa-ven. Khi cô em được biết là anh đang viết một cuốn tiểu thuyết, thì
bảo với anh rằng:
- Em vui
lòng giúp anh lắm, đồng chí Pa-ven ạ. Chép tiểu thuyết cho anh còn thú vị hơn
là thảo cho thầy em những thông tri về việc giữ gìn vệ sinh trong các phòng.
Từ hôm
ấy, công việc tiến hành nhanh gấp đôi. Qua một tháng thì viết được đã khá, đến
Pa-ven cũng phải lấy làm lạ. Ga-li-a, với tính tình vui tươi và giàu lòng trắc
ẩn, đã làm cho công việc sáng tác của anh đỡ vất vả nhiều. Ngọn bút chì của cô
nhẹ nhàng đưa sột soạt trên mặt giấy; những đoạn cô thú nhất, cô thường đọc đi
đọc lại, thấy Pa-ven viết được thành công như thế, thì cô lấy làm vui thích
lắm. Có lẽ, trong nhà này, cô là người duy nhất tin tưởng vào công việc của
Pa-ven làm. Những người khác thì cho là viết thế chẳng đi đến đâu, chẳng qua bị
bắt buộc phải ngồi không thì Pa-ven vẽ ra làm cho đời đỡ trống trải.
Lê-đê-nhếp
có công tác trở lại Mát- xcơ-va. Đồng chí đọc xong những chương đầu, nói với
Pa-ven:
- Cứ
viết đi chú ạ. Nhất định là thành công đấy. Đồng chí Pa-ven ơi, đồng chí sẽ còn
được sống những niềm vui lớn. Tôi tin tưởng chắc chắn là mộng ước của chú trở
về trong đội ngũ sẽ thực hiện được. Đừng ngã lòng, con ạ.
Đồng chí
già ra về rất hài lòng: đồng chí nhận thấy Pa-ven đang tràn đầy nghị lực.
Ngày
ngày, Ga-li-a lại sang, bút chì của cô siết trên giấy, những hàng chữ mọc lên
kể lại dĩ vãng không bao giờ quên được. Những khi Pa-ven nghe thấy những kỉ
niệm cũ trào lên, lặng suy nghĩ thì mi mắt mấp máy, mắt như động đậy phản ánh
những ý nghĩ trôi qua. Những lúc ấy, Ga-li-a khó mà tin được là mắt anh không
nhìn thấy, bởi vì ở đôi con ngươi trong vắt không có lòng đen kia trông có tinh
thần, có sự sống.
Mỗi ngày
viết xong, Ga-li-a đọc lại, Pa-ven lắng nghe, nét mặt đăm chiêu, mày cau lại.
- Sao
anh lại cau mày, hở anh? Đoạn này viết hay lắm cơ mà!
- Không
hay đâu Ga-li-a ạ. Còn tồi lắm.
Những
trang không vừa ý thì anh lại tự tay viết lại. Tay bị bó trong những mảnh bìa
kê chật hẹp, lắm lúc anh viết chệch ra ngoài dòng: anh liền bỏ cả không viết
nữa. Những lúc ấy, anh tức giận như điên, như dại, giận thân, giận đời đã bắt
anh mù. Anh bẻ gãy bút chì, và trên môi cắn chặt rớm mấy giọt máu.
Công
việc gần xong, nhưng những tình cảm tiêu cực càng hay đến trong lòng, mặc dù ý
chí của anh lúc nào cũng tỉnh táo cố kìm những tình cảm ấy lại. Đấy là nỗi buồn
vô hạn vì những tình cảm nồng cháy, tha thiết, những tình cảm mà con người ai
cũng có, ai cũng có quyền được hưởng, thế mà riêng anh không được Nếu anh không
biết tự chủ, dù chỉ để cho một trong những tình cảm kia lôi cuốn, thì cuộc đời
sẽ kết thúc bằng một tấn thảm kịch mất.
Thai-a
đi làm mãi khuya mới về, nói chuyện thầm với mẹ dăm ba câu, rồi đi ngủ ngay.
Chương
cuối cùng đã viết xong. Suốt mấy hôm, Ga-li-a đọc lại cuốn tiểu thuyết cho
Pa-ven nghe.
Mai là
ngày gửi bản thảo đi Lê-nin-gơ-rát cho Ban tuyên huấn của Đảng ủy khu. Nếu ở
đấy người ta cấp cho cuốn sách " giấy thông hành vào đời" - và đưa
sang nhà xuất bản cho in thì...
Pa-ven
những nghĩ mà hồi hộp. Nếu được thế thì... Thế sẽ là bắt đầu một cuộc đời mới,
giành lại được bằng bao nhiêu năm khó nhọc, làm cật sức và bất chấp gian nan.
Số phận
cuốn sách sẽ quyết định số phận Pa-ven. Nếu bản thảo bị từ chối, không in được
thì đấy sẽ là cảnh chiều tàn cuối cùng của đời anh. Song nếu không bị bỏ đi tất
cả, thì còn có phương có chữa, anh sẽ tiếp tục sửa đi sửa lại, bắt tay vào ngay
một trận tiến công mới..
Mẹ đem
ra nhà dây thép gửi đi một gói giấy nặng. Những ngày lo lắng đợi chờ... Trong
đời chưa bao giờ anh đợi thư đến một cách sốt ruột khắc khoải đau xót như lúc
này. Cuộc đời anh trông vào ngày hai buổi sớm chiều phát thư của nhà dây thép.
Lê-nin- gơ-rát vẫn tuyệt vô âm tín.
Sự im
hơi lặng tiếng của nhà xuất bản làm anh phát lo.
Càng
ngày càng đinh ninh là thất bại đến nơi rồi, và Pa-ven thú thật với mình rằng
nếu cuốn sách bị bác đi, thì đời anh thế là hết: anh chẳng còn sống làm gì nữa.
Những
lúc nghĩ thế, anh lại nhớ tới cái buổi chiều hôm nào ở khu vườn ngoại ô bên bờ
biển, và một lần nữa anh tự hỏi:
"Để
trở về chỗ đứng của mi trong đội ngũ, làm cho đời mi còn có ích, mi đã làm hết
cách để giựt tung vòng đai thép đang chịt lấy cổ mi chưa?"
Và lần
này anh tự trả lời:
"Lần
này thì ta đã cố hết phép rồi !"
Ngày lại
ngày, cảnh chờ đợi đau đớn đến cùng cực.
Bỗng một
hôm, mẹ chạy vào phòng, mẹ cũng cảm động như con, mẹ kêu lên:
- Có dây
thép ở Lê-nin-gơ-rát đánh về! Dây thép của Đảng ủy khu.
Mấy chữ
vắn tắt trên một bức điện trả lời có mẫu sẵn: "Tiểu thuyết được nhiệt liệt
tán thành xuất bản. Bắt đầu in. Xin có lời chúc mừng thắng lợi của đồng
chí".
Tim
Pa-ven đập gấp. Mong ước thế là thành! Anh đã giựt tung được vòng đai thép. Với
vũ khí mới, anh đã giành lại được chỗ của anh trong đội ngũ và trong cuộc sống.
Hết.