Trang

Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Lăng mộ đá trăm tuổi giữa thành phố Thanh Hóa

Lăng Quận Mãn ở TP Thanh Hoá là một khu mộ cổ được xây dựng vào thế kỷ 18, nơi đây hiện còn nhiều tượng đá điêu khắc tinh xảo.


Hiện vật điêu khắc đá ở lăng Quận Mãn.
 
 
Lăng Quận Mãn là một khu mộ cổ nằm ở phường An Hoạch, TP Thanh Hoá. Lăng mộ được đích thân Quận Công Lê Trung Nghĩa (không rõ năm sinh, mất năm 1786) - viên quan dưới thời Lê Trung Hưng cho xây dựng trên chính quê hương ông.
 
 
Theo sử sách, Lê Trung Nghĩa người làng Tu, thôn Nhuệ thuộc xã An Hoạch, tổng Quảng Chiếu, huyện Đông Sơn - nay là phường An Hoạch, TP Thanh Hoá.
Vì nhà nghèo nên ông phải bỏ quê ra đi tránh việc nấu chè kho khao làng theo tục lệ. Sau khi rời làng ông đi lính, được chọn làm quân cấm vệ, tình nguyện bị hoạn để phục vụ trong cung. Ông thăng đến chức Đô đốc Tổng trấn tước Quận Công nên người ta gọi ông là Quận Mãn. 
Tháng 11 năm 1786, vua Lê Chiêu Thống và chúa Trịnh Bồng xảy ra xung khắc. Lê Chiêu Thống sai tướng Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An kéo quân ra hộ giá. Chúa Trịnh Bồng cử Trấn thủ Thanh Hoa Lê Trung Nghĩa làm tham lĩnh và Đốc đồng Phan Huy Ích làm đốc thị kéo quân chặn đánh Chỉnh ở địa phận huyện Tĩnh Gia nhưng thất bại. Lê Trung Nghĩa bị giết.
 
 
Lăng mộ trước đây có đình thờ, cây cối um tùm rậm rạp. Song do chiến tranh tàn phá, nay chỉ còn lại nền móng cùng một số hiện vật bằng đá với hai dãy tượng voi và chó, 10 tượng quan văn võ.
 
 
Trước bậc thềm là cặp rồng đá.
 
 
Nằm ở vị trí cao nhất là hai chiếc ngai bằng đá, chiếc lớn đặt trên một bệ đá hình vuông, mỗi chiều khoảng 2 m, dày khoảng 0,4 m.
 
 
Trong quần thể lăng có 4 tấm bia đá, mỗi tấm cao khoảng 2 m, rộng 1,2 m, dày 0,15 m được liệt vào loại bia đá đẹp nhất nhì ở xứ Thanh. Diềm và trán bia có nhiều hoạ tiết hoa văn tinh xảo.
Nội dung văn bia đều bằng chữ Hán, ghi lại tiểu sử Mãn Quận công và tên các làng cúng tế; do Lê Quý Thuần, con trai Lê Quý Đôn soạn.
 
 
Bia và tượng đá ở lăng Quận Mãn được đánh giá là công trình nghệ thuật cuối cùng của thời Lê Trung Hưng còn tồn tại với quy mô và số lượng lớn.
 
 
Một cây cột đá xưa kia dùng trong đình nhưng nay đình đã bị phá huỷ.
 
 
Do không được trùng tu và bảo quản, nhiều hiện vật ở lăng Quận Mãn đã xuống cấp. Tượng rùa bằng đá xanh nguyên khối nặng cả tấn nhưng bị sứt mẻ nhiều bộ phận.
 
 
Ông Hà Huy Tâm, Trưởng phòng Văn hoá TP Thanh Hoá cho biết, lăng Quận Mãn là một trong năm di tích quốc gia ở phường An Hoạch. “Các hiện vật ở lăng Quận Mãn rất có giá trị về mặt lịch sử và nghệ thuật điêu khắc đá”, ông Tâm nói.
Hiện TP Thanh Hoá đang đề nghị tỉnh sớm phê duyệt quy hoạch các di tích ở An Hoạch trong đó có lăng Quận Mãn. Sau khi được quy hoạch, địa phương sẽ bố trí kinh phí trùng tu, tôn tạo khu di tích lịch sử văn hoá này để phát triển du lịch.
 
Lê Hoàng

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

Chiến tranh biên giới 1979:Ký ức đau đớn về những quan tài rỏ máu


Chiến tranh biên giới 1979:Ký ức đau đớn về những quan tài rỏ máu

(Soha.vn) - Tác giả bài thơ "Bình độ 400" chia sẻ, sau 20 năm xuất ngũ, những hình ảnh về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc vẫn ám ảnh, đi vào cả những giấc mơ của ông...

>> Bài 1: Tướng Lương: Dù TBT Lê Duẩn đã dự kiến, tôi vẫn chưa tin TQ đánh
>> Bài 2: Quân TQ năm 1979: "Chưa thấy đội quân nào ô hợp, hôi của như thế"
>> Bài 3: Chiến tranh biên giới năm 1979: VN đã tuân thủ ý kiến TBT Lê Duẩn
>> Bài 4: "Vì sao năm 1979 Trung Quốc không dám đem máy bay đánh VN?"


Lời tòa soạn: Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.

Gặp chúng tôi trên con phố Đội Cấn (Ba Đình, Hà Nội), sau hơn 35 năm đã trôi qua nhưng trong ký ức của cựu binh, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (hiện là giảng viên của trường Đại học Phương Đông), những hình ảnh ác liệt, tang thương của cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc vẫn còn đọng lại rất rõ ràng.

Ông Hùng cũng chính là tác giả của bài thơ "Bình độ 400" nổi tiếng ghi lại trận đánh ác liệt ở địa danh này thuộc tỉnh Lạng Sơn vào năm 1981.

Theo lời kể của ông Hùng, tháng 8/1978, khi vừa tròn 18 tuổi và đang là sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, ông lên đường nhập ngũ, tham gia huấn luyện tại Ninh Bình. Khoảng 8 tháng sau, ngày 4/3/1979, ông được điều về đơn vị thông tin thuộc trung đoàn 2, sư đoàn 3 Sao Vàng, trấn thủ biên giới phía Bắc.

Đơn vị ông lên đến Lạng Sơn cũng là lúc Trung Quốc bắt đầu rút quân nhưng như ông kể lại: “Mọi người thường tưởng quân Trung Quốc rút ồ ạt về nước nhưng không phải. Chúng rút từ từ và vừa rút vừa phá hoại, trong lúc rút vẫn bắn phá các công trình của ta. Tôi chứng kiến thị xã Lạng Sơn bị phá hủy hết. Những tòa nhà lớn xây từ thời Pháp, lính Trung Quốc cứ ốp bộc phá ở hai đầu và một quả ở giữa. Khi bộc phá nổ, tòa nhà không sập hẳn nhưng cũng tan hoang không thể sửa chữa được nữa. Rồi đến các nhà máy cũng bị đặt bộc phá để phá hủy tạo ra cảnh hoang tàn, khói lửa...”.

Những ngày sau đó, tình hình rất căng thẳng, quân Trung Quốc áp sát biên giới và tiếng súng, tiếng bom vẫn vang lên từng ngày.

Đến năm 1981, trên mặt trận Lạng Sơn mới lại diễn ra trận giao tranh ác liệt  tại địa điểm bình độ 400 thuộc xã Thanh Hòa, huyện Cao Lộc mà ông là một trong những người lính trực tiếp tham gia.

Ông Hùng
Ông Hùng, người áo đen, đứng ngoài cùng bên trái trong buổi kỷ niệm 30 năm nhập ngũ

"Trận Bình độ 400 có nhiều trung đoàn tham gia nhưng trung đoàn 2 của chúng tôi lúc bấy giờ được thiếu tướng Hoàng Đan trực tiếp đến tận sở chỉ huy động viên chiến đấu. Khu vực này có đặc điểm là sườn phía mình dốc còn phía bên Trung Quốc thì thoải hơn nên lính Trung Quốc đào hầm bê tông trú ẩn và làm được cả đường cho xe chạy.

Lúc đó Trung Quốc xua quân chiếm giữ điểm cao này còn ta đưa quân lên phản kích lấy lại. Quân Trung Quốc có lợi trên cao và có công sự vững chắc cho nên mình chỉ pháo kích và dùng đặc công đánh thôi chứ không ào ào đánh cả trung đoàn được. Chúng tôi ở tuyến sau cứ áp sát vào là pháo bắn như mưa lại phải bò xuống không tiến lên được”, ông Hùng nhớ lại.

Cũng theo ông Hùng, dù Trung Quốc có rất nhiều súng đạn và bắn sang ta không hề tiếc nhưng xét về kỹ, chiến thuật thì hoàn toàn thua xa so với lính Việt Nam.

"Nếu đụng độ thuần bộ binh thì lính Trung Quốc kém xa lính mình. Về sau chúng tôi phát hiện ra là lính Trung Quốc không phải tất cả được trang bị vũ khí, nhiều tên chỉ đi tay không. Mà những loại đấy chúng tôi cho chỉ là bọn đi đánh hôi. Có nhiều tên khi bị quân ta tiêu diệt tay vẫn còn ôm một bao khoai lang. Chúng chỉ ào ào xông lên nhưng hễ gặp hỏa lực mạnh là bỏ chạy.

Thêm nữa, sau này có lần chúng tôi gặp một quả đồi mà Trung Quốc từng đóng thì thấy có mặt đất chi chít hầm hàm ếch tránh pháo, hướng tránh thì đúng nhưng mật độ thì dày như tổ ong. Về nguyên tắc, đào dày như thế dễ thương vong lớn nếu chẳng may trúng pháo. Điều đó cho thấy lính Trung Quốc không tinh nhuệ”, ông Hùng chia sẻ.

Ông Hùng cũng khẳng định, lúc bấy giờ, ngoài tinh thần chiến đấu rất cao thì chính sự có mặt, giúp sức của những người lính già, vị tướng lão luyện đã giúp Việt Nam bảo vệ vững chắc biên cương.

"Như ở biên giới phía Bắc thời đó có tướng Hoàng Đan nổi tiếng với câu nói “sống, chết, thời, vận, số”. Có câu chuyện nói rằng khi ông đi thị sát gặp lúc địch bắn pháo như mưa nhưng ông vẫn ngồi yên quan sát. Hay, ông thường lấy một câu chuyện ngụ ngôn để động viên lính. Câu chuyện là có một ông bị thầy bói bảo là số bị hổ vồ cho nên không sống gần rừng, không dám vào vườn bách thú. Nhưng một hôm vào chùa nhìn thấy tượng con hổ hoảng quá đập đầu vào tường mà chết.

Chính nhờ những người chỉ huy như ông mà dải biên cương của chúng ta đã được bảo vệ vững chắc, toàn vẹn trước quân thù đông đảo", ông Hùng nhắc lại trong sự hào hứng.
Những giấc mơ đeo đẳng sau cuộc chiến

Và giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa hơn 35 năm nhưng những nỗi ám ảnh của cuộc chiến, về sự hy sinh của đồng đội của nhân dân vẫn cứ mãi đeo đẳng mãi trong ông.

Tấm hình trong balo của người lính Nguyễn Mạnh Hùng khi trở về.
Những tấm hình trong ba lô của người lính Nguyễn Mạnh Hùng khi trở về.

"Tôi còn nhớ khi tôi hành quân trên đường gặp những chiếc xe quan tài chở tử sĩ từ mặt trận về tuyến sau và những chiếc xe quan tài không từ hậu phương tiếp tục chạy lên biên giới. Hồi ấy cũng chu đáo hơn trước, bộ đội hy sinh có quan tài để khâm liệm. Nhưng đang thời chiến, khâm liệm chỉ sơ sơ, vì thế nên khi xe chạy, máu từ trong quan tài chảy ra nhỏ xuống đường.

Nhưng chúng tôi còn sợ hơn khi nhìn thấy xe chở quan tài trống từ hậu phương đưa lên. Tất nhiên những xe quan tài ấy thỉnh thoảng mới gặp nhưng mà mỗi lần nhìn thấy là hãi lắm. Điều đó cho thấy chiến sự ác liệt lắm. Những hình ảnh đó đã ám ảnh tôi mãi và cho đến 20 năm sau khi xuất ngũ thì nhiều đêm tôi vẫn mơ thấy rất nhiều bóng đen. Tôi đã cố xua, cố làm mọi cách để nó đi nhưng không được, nó cứ lởn vởn quanh tôi. Và nói thực, đến giờ, nghĩ lại những hình ảnh về cuộc chiến vừa đi qua, tôi vẫn có cảm giác hãi hùng..", ông Hùng trầm ngâm nói.

Cùng với giấc mơ, phía sau cuộc chiến, những người lính như ông Hùng cũng còn đó những nỗi khó khăn, cực nhọc của cuộc sống mưu sinh.

"Những người lính như tôi trở về cuộc sống đời thường rất khó khăn để mưu sinh. Cá nhân tôi trở về lại đi học đại học thì thấy bình thường nhưng nhiều anh em khác vất vả lắm, phải đi bơm xe, chạy chợ rất vất vả.

Sự đãi ngộ cho anh em tuy có nhưng cũng hạn chế thôi, giá như không có chiến tranh thì cuộc sống họ sẽ khác đi nhiều. Nhiều người sẽ không phải chết, không bị thương tật và sẽ có công ăn việc làm tốt hơn vì họ không mất những năm tháng tuổi trẻ.

Chiến tranh là mất mát đau thương nên cần tìm mọi cách để tránh. Nhưng nếu khi hết mọi cách thì phải dũng cảm chiến đấu để trước hết bảo vệ cuộc sống của mình”, ông Hùng tâm sự.

Cũng chính từ những cảm xúc, nỗi niềm sau cuộc chiến này đã thôi thúc ông Hùng viết lên bài thơ "Bình độ 400" nổi tiếng:

"Đêm tháng Năm vào Bình độ Bốn Trăm

Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác

Thuốc súng tanh, lá rừng kêu xào xạc

Chúng no máu rồi không cắn nữa đâu?

Lắc lư xe quan tài vượt về sau

Máu rỏ xuống đường cuốn vào cát bụi

Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi

Tốp thương binh bê bết máu mặt, mày

Đám cướp kia Thánh, Phật dạy ăn chay

Chẳng kiêng gì ngày Rằm, mồng Một!

Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt

Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương.

Tư lệnh Hoàng Đan trận này cầm quân

Ông bảo rằng: Sống, chết, thời, vận, số!

Cả Trung đoàn ào ào như thác lũ

Bình độ Bốn Trăm bình địa trận người.

Những chàng trai sống, chết trận này ơi!

Mưa đổ xuống ông Trời tuôn nước mắt

Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất

Người trở về ăn, sống, ở ra sao?"
                                                                                          Theo Trí Thức Trẻ

Đại Việt dưới ách đô hộ của nhà Minh- Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti, (5/7/1407-3/1/1428)

cac-tran-danh-3
giặc Minh xâm lược
Vũ Ngự Chiêu
“Tát cạn nước biển Đông cũng không đủ rửa sạch vết nhơ; Chặt hết trúc núi Nam không đủ thẻ ghi tội ác.” (“Bình Ngô Đại Cáo;” NTTT, (1976), tr 78 [77-83])
Ngày 4/7/1407, tại Kim Lăng, kinh đô đầu tiên của Đại Minh từ 1368 tới khoảng năm 1421, Chu Lệ hay Đệ [Zhou Li] miếu hiệu Thành Tổ (Ming Zhengzu, 17/7/1402-22/8/1424) họp triều thần, chấp thuận lời xin của “1120” kỳ lão xứ Giao Châu [An Nam] hơn hai tháng trước là “con cháu nhà Trần đă chết hết không người thừa kế…. Giao Châu là đất cũ của Trung Hoa xin đặt quan cai trị, để sớm được thánh giáo gột rửa thói tật man di.” (1) Hôm sau, 5/7/1407, Chu Lệ ban chiếu thành lập “Giao Chỉ Đô Thống sứ ti” [Jiaozhi dutong tusi], một đơn vị quân chính cấp phủ hay tỉnh [Provincial Commandery]. (2) Và, như thế, sau gần 500 năm tái lập quốc thống dưới tên Đại Việt—hay An Nam, từ 1164/1175—nước Việt trung cổ tạm thời bị xóa tên.
Đô thống sứ ti vừa là tên cơ chế hành chính thực dân xâm lược, được nhà Nguyên (1260-1367) sáng chế và trắc nghiệm trong lãnh thổ dân Tam Miêu [San Miao] ở Quí Châu xuống tới vùng Vân Nam-Tứ Xuyên, tức Nam Chiếu hay Đại Lý khoảng năm 1253-1279. Nhà Minh (1368-1644) đã dựa trên kiểu mẫu này để tái chiếm Vân Nam năm 1380-1382, và sau đó trắc nghiệm ở Đại Việt từ 1402 tới 1437, rồi từ năm 1541 tới thế kỷ XVII (1647). Sứ ti cũng được dùng để gọi các quan tướng Minh phục vụ tại vùng đất bị nhà Minh thống trị. Một tên ngắn khác là “ba ti Đô, Bố, Án.” Nhưng truyền bản sử Lê và Tây Sơn dịch qua chữ Việt mới ghi Giao Chỉ Đô Chỉ Huy sứ ti từ ngày 1/4/1407. Sử Nguyễn, bản dịch Viện sử học, chép vào ngày 5/7/1407. giống Minh thực lục; rồi ghi An Nam Đô thống sứ ti từ ngày 29/4/1541 [đời Mạc].(3)
Sự khai sinh tổ chức quân chính Giao Chỉ đô thống sứ ti là hồi tạm kết của giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt (1406-1428), và mở ra những chương máu, nước mắt nhưng hào hùng của hơn 60 cuộc chiến kháng Minh mà đại đa số người Việt—trong hơn 20 năm kế tiếp, từ thành thị tới thôn quê, sông biển lên rừng núi—đã góp phần vào việc phục hồi và duy trì quốc thống cho tới hiện đại. Ngay đến các tù trưởng Lão Qua và quan tướng Việt-Chàm cũng ít nhiều tham dự, dù ở những ngày tháng đầu của cuộc xâm lược, có một số người đã trung hiếu với nhà Minh, hoặc với chính quyền lợi của mình và phe nhóm. (4) Chiêu bài đạo đức giả “diệt ác, hưng Trần” cùng bạo lực quân phiệt Hán tộc—như hun khói dân tị nạn trong các hang động (Lý Bân [Li Bin]), chặt thủ cấp phơi treo ở chợ búa, bến sông, dọc theo đường xá—hay chất xác nạn nhân thành đống, lùa bắt phụ nữ, thiếu nhi mang đi bán làm tôi tớ (Trương Phụ [Zhang Fu])—khiến tình hình rối ren, không có ranh giới rõ ràng giữa trung thần [Bùi Bá Kỳ] và phản quốc [Mạc Thúy, Nguyễn Huân, Trần Phong]. Nhưng thật hiển nhiên là người Việt đã khẳng khái bảo vệ niềm tin “đất Việt, vua Việt ở” [Nam quốc sơn hà, nam đế cư], đã ghi trong “Sách Trời.” Nói cách khác, chẳng bao giờ có việc dân tộc Việt cầu xin được khai hóa, hay đặt số phận mình và gia đình vào tay những tên đồ tể tham bạo, tội phạm chiến tranh của thế giới văn minh, thường huênh hoang tự so sánh to lớn như Trời Đất, cai quản “muôn dân tộc trong thiên hạ” mà cho đến khoảng năm 1424 mới chỉ biết được tổng cộng khoảng ba chục tên nước “Tây Dương.”
Một số học giả thế giới đã giới thiệu công trình nghiên cứu của họ về giai đoạn này, nhưng tác phẩm nghiêm túc bằng tiếng Việt mới hay chữ Hán còn khá hiếm hoi. Một trong những lý do là kho tài liệu chữ Hán của các triều NguyênMinh-Thanh chưa được khai thác đầy đủ. Hiện trạng duy vật và chính sách xâm lược xã hội chủ nghĩa của Đảng “Cộng Sản Trung Hoa” cũng khó giúp hy vọng những tài liệu khả tín sẽ được mở ra cho giới nghiên cứu trong tương lai gần—nếu không phải sẽ bị ngụy tạo để biện minh cho những mục đích giai đoạn. (5)
Li Dao Yuan (466 [472]-527), et al., Shuijingzhu [Thủy Kinh Chú, Thủy Kinh Chú sớ]. Đoàn Hy Trọng, “Sáu lời bàn về Thủy Kinh Chú;” Thủy Kinh Chú Sớ, Nguyễn Bá Mão dịch (Hà Nội: 2004),tr 857-861.Đa tạ gia đình dịch giả Nguyễn Bá Mão đã tặng bản dịch tiếng Việt mới Thủy Kinh Chú Sớ, gồm tám chương (33-40), dựa trên ấn bản 1999 của Bắc Kinh
 Tài liệu Bắc Kinh tâm đắc là tập ký sự Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn, nhưng ít ai biết truyền bản cổ thư này từng mô tả về một tộc cư trú giữa biên giới Quảng Châu và Giao Châu—tức tộc Wuhu hay Ô Hử, Ô Man chỉ thích bắt khách bộ hành ăn thịt, có khi chật nhỏ ra, ướp muối để dành—gây khốn đốn cho quan binh Hán ở Giao Chỉ từ đầu thế kỷ thứ hai tây lịch, cho đến ngày dân Wuhu bị đánh đuổi về phía nam; và một số không nhỏ tái định cư tại Lào, Thái Lan, và Miến Điện hiện nay. Chẳng hiểu Vạn Chấn có chịu ảnh hưởng của Ban Cố [Ban Gu, 32-92], từng nằm mơ thấy thời tiền sử, trước ngày Phục Hy hay Bào Hy xuất hiện, người ta ăn lông ở lỗ, nhai nuốt cả thịt lẫn da, uống máu tươi, khi no bụng thì vất đồ dư thừa trên mặt đất; Phạm Việp [Fan Ye, 398-446], Hou Hanshu [HHT/HHS], dẫn trong CMTB, II:24a-25a, (Sài Gòn: 1967), 2:234-239; (Hà Nội: 1998), I:126-127; Ban Cố [Ban Gu], [Xian] Han shu, dẫn trong The I Ching or Book of Changes; trans into English by Cary F. Baynes, based on Richard Wilhem’s German version (Princeton, NJ: Princeton Univ Press, 1967, 1973), p. 329; Phan Bội Châu, Chu Dịch, trong Phan Bội Châu Toàn Tập [PBCTT], tập IX, (Huế: 2001), Cửu tứ tr. 704-5 [704-8]; Chương này đã sơ thảo từ cuối thập niên 1970, tại Wisconsin, nên sử dụng một số thông tin từ các nghiên cứu của các học giả, đặc biệt là các học giả Mỹ; như John King Fairbank, Wolters, John K Whitmore, Keith W Taylor, v.. v.. tàng trữ tại Thư viện Đại học Wisconsin-Eau Claire và Madison, cùng Đại học Cornell, Ithaca, NY, qua hệ thống mượn sách liên thư viện [Interlibrary loan].(6)
Từ thập niên 2,000, chúng tôi mới trực tiếp tham khảo tư liệu Ttung Hoa, như Zizhi tongjian [Tư Trị Thông Giám], (Sima Guang & Rafe de Crespency, ANU, 1989, 2003), Songshi [Tống sử], Yuanshi [Nguyên sử], Ming shi-lu [Minh thực lục] (Wade, NUS, 2005), v.. v..; chủ yếu là các bản dịch Anh, Pháp ngữ, so sánh với quốc sử Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Phần đóng góp nhỏ mọn của chúng tôi là chuyển từ lịch ta sang Tây lịch, và vượt qua những bức tường lửa tự kiểm duyệt của các nguồn tư liệu cũ, dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học nhân văn của thế kỷ XXI. Tưởng cần nhấn mạnh, chúng tôi chỉ hy vọng bổ khuyết sử Việt bằng các tư liệu ngoại ngữ, không hoàn toàn bác bỏ bất cứ thông tin nguyên bản nào theo chiều hướng nhị nguyên—đúng hay sai. Vì cả hai nguồn tư liệu Việt và Hoa luôn luôn khác biệt và chống đối lẫn nhau, chúng tôi chọn vị thế triết trung, trình bày các dữ kiện theo phương pháp tỉ đối.
I. Sự Khai Sinh Của Đại Ngu (12/3/1400-17/6/1407):
Cuộc xâm lược Đại Việt năm 1406-1407 của Chu Lệ hay Đệ là việc làm quen thuộc trong chính sách đối ngoại hay “thông hiếu ” với lân bang mà vua quan Trung Hoa rẻ rúng gọi là mọi rợ bốn phương [tứ di]—bất kể màu da, trình độ khoa học, kỹ thuật và cách sống của dân nước ngoài đó. Lịch sử Trung Hoa là một chuỗi những cuộc xâm chiếm và thôn tính, rồi tái xâm chiếm lân bang, nếu bị đánh đuổi. Năm trong hàng trăm cựu vương quốc bị đế quốc TH cướp đoạt chủ quyền, “đặt vào bản đồ,” “mở quận huyện” còn để lại chứng từ cụ thể là Miêu Cương (Nasu Yi Mu’egu, ca 300-1283) phía Tây Bắc Guizhou [Quí Châu] hiện nay; Nanzhao [Nam Chiếu] và Dale [Đại Lý] ở vùng Yunnan [Vân Nam] và nam Sichuan [Tứ Xuyên]; Đại Lịch/Đại Nam của Nùng Trí Cao; hay Đại Việt [Da Yue]/Nam Hán [Nan Han] của họ Lưu (Quảng Nam Đông và Tây, tức Guangdong [Quảng Đông] hiện nay), Manchuria, Mongols, Tibet, Tân Cương [Xinjiang], Thanh Hải [Qinghai]. (7)
Nhiều người cho rằng cha con Lê Quí Ly (23/3/1400-12/1400-1/1401, TTH, 16/6/1407) —tự Lý Nguyên [Yuan-li]— mời gọi quân Minh xâm lăng và cưỡng chiếm Đại Việt, qua việc cướp ngôi, cùng những hệ lụy hẳn có
 A. Lê /Hồ Nhất Nguyên & Ngu Thuấn :
Theo gia phả nặng phần ngụy tạo, Lê Quí Ly (Li Ji-li, 1336-1407?) liên hệ đến một người Việt gốc Hoa tên Hồ Liêm, con nuôi Tuyên úy Lê Huấn ở Thanh Hóa. Sau khi cướp ngôi cháu ngoại ngày 23/3/1400, Quí Ly hay Lê Nhất Nguyên [Li Yi Yuan] chính thức đổi sang họ Hồ. Tôn “Hồ Hưng Dật,” thái thú Diễn Châu triều Hậu Hán (947-950) [ ?], làm tổ. Hưng Dật, theo Quí Ly, liên hệ với Hồ Công Mãn [Hu Gong-man], dòng giõi “Ngu Thuấn” mà Khổng giáo chọn làm một trong hai thánh đế. Tháng 1/1401, gia phả Quí Ly còn thêm họ Phạm của mẹ và Chu của bà nội (8)
Có lẽ khá quen thuộc với cổ thư Trung Hoa, Quí Ly đổi tên nước thành Đại Ngu (1400-1407), để tưởng nhớ gốc tổ chép trong Thư [Shu, Book of Document], và Xuân Thu [Yinshu, Annals of the Spring and Autumn], rồi được sao chép trong truyền bản Sử Ký [Shiji] của Tư Mã Thiên (145-87 TTL) (Beijing: 1972), cùng các chính sử như Tiền Hán Thư [Xian Hanshu] của Ban Cố (32-92) (Beijing: 1975), Hậu Hán Thư [Hou Hanshu] của Phạm Việp (398-446) (Beijing: 1973), cùng sách khác. (9)
Tại Đại Việt, Nghiêu Thuấn cùng Tam Hoàng [Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông], chính thức xuất hiện trong chiếu dời đô năm 1010 của Lý Thái Tổ (22/11/1009- 3/3/1028). Tuy nhiên, phải từ thời Hậu Lê (29/4/1428-12/7/1527), những sáo ngữ như “vô vi nhi trị” [chẳng làm gì mà đời được trị], hay “mây [gió, mưa] Đường Nghiêu, tiếng đàn Ngu Thuấn” mới được Nguyễn Trãi (1380?-1442) cùng nhóm tân Khổng (neo-Confucianists) hô hào, ca tụng, qua tập Dư Địa Chí, tức An Nam Vũ Cống, với ảo vọng biến một vua trẻ thơ mới mười một tuổi thành “Nghiêu, Thuấn.” Nhưng bọn thái giám Lương Đăng được Lê Nguyên Long hay Lê Lân [Li Lin] tin cậy hơn, nên sử dụng nhạc khí Minh cùng những trò đập gậy, hô xướng “vạn tuế” mỗi khi di chuyển, bỏ quên chiếc khánh Nguyễn Trãi chế tạo bằng đá núi Kinh Chủ, huyện Giáp Sơn, Thanh Hóa theo Chu Lễ. Bi thảm hơn nữa là kết cuộc Trại Vải Bắc Ninh nhân chuyến tuần du Chí Linh của ứng cử viên Nghiêu Thuấn, khiến Nguyễn Trãi và cô vợ lẽ bán chiếu xinh đẹp, bị tàn sát ba đời ngày 19/9/1442. (10)
Dẫu vậy, cho tới thế kỷ XIX, vẫn còn người muốn hướng dẫn Gia Long (1/6/1802- 28/6/1806, Hoàng đế-3/2/1820) thành Nghiêu-Thuấn bằng cách tặng một ấn bản Đại Học [Great Learning] lên ông vua bình định thiên hạ bằng chiến thuyền, đại bác,và đủ loại lính Lê-dương. Hay, năm 1847 cung văn Thiệu Trị (11/2/1841- 4/11/1847), như “đức cao hơn những đời chuộng văn, đạo thịnh hơn những đời chuộng võ.” Từ khi lên ngôi, “phong hóa lan khắp, đạo trị quang minh, trong thì trăm họ nhảy múa mừng Xuân, ngoài thì phương xa lặn lội đến cống, đùn đùn như mây Đường Nghiêu bay, sang sảng như đàn Ngu Thuấn gẩy.” (11)
Một quân phiệt đương thời, Chu Lệ/Đệ—cũng rất kiêu ngạo về thành tích giết cháu cướp ngôi, tru diệt anh em để bá chủ thiêu hạ, tổ một chi mới [Thành tổ, Zhengzu] nhà Minh, nhưng thích tự xưng chính vị thiên tử, đại diện Trời, Đất và thần linh để thống nhất và cai trị vạn vật dưới vòm trời [thiên hạ]—phẫn nộ lên án cha con Quí Ly đảo trời, lật đất, tự coi tài giỏi, uy đức hơn cà Tam Hoàng, Ngũ Đế thượng cổ, đặt niên hiệu là Nguyên Thánh [Yuan Sheng] hay Thánh Nguyên [Sheng Yuan], đi ngược lại trật tự của Trời Đất [hiểu theo nghĩa thực dân, bành trướng Hán tộc] mà Chu Lệ có nhiệm vụ duy trì. (12)
Theo cổ tích Trung Hoa, nhờ hiếu đức với cha, mẹ ghẻ và anh em khác mẹ, Thuấn được Đường Nghiêu (Tang Yao, 2356-2256 TTL) nhường ngôi. Năm 2220 TTL, Thuấn chinh phục Tam Miêu; tám năm sau, 2208 TTL, chết ở Thương Ngô, khi đang “tuần du phương nam.” Tại Hồ Động Đình, Hồ Nam, còn miếu thờ Thuấn và hai vợ vốn là con gái Nghiêu. Vẫn theo truyền thuyết, Chu Vũ Vương [Zhou Wu-wang], người khai nghiệp nhà Chu, lấy đất Trần phong cho con cháu Thuấn, dưới họ Hồ. (13)
Danh vọng của Quí Ly không qua đường khoa bảng hay công lao chiến trận, mà khởi đi từ đâu đó trong hậu cung nhà Trần. Hai quí phi của Minh Tông (Trần Vượng hay Nhật Phụ [Chen Ri Fu], 3/4/1314 -15/3/1329, TTH 10/3/1357) mà Ly gọi bằng cô, do con gái Nguyễn Thành Huấn lấy người họ Lê sinh ra, đều có con làm vua: Con Hiến từ là Trần Hạo, tức Dụ Tông (2/10/1341- 29/6/1369), rất được Chu Đức Dụ yêu quí, gọi bằng Trần Nhật Khuê [Ri-kui]. Ngày 10/5/1370, Đức Dụ mặc áo tang đích thân tới cửa Tây hóa đón sứ đoàn Việt báo tang từ Hà Nội, và hết lời khen ngợi lòng trung hiếu của “man di.” Minh Từ sinh ra Hiến Tông (15/3/1329-24/7/1341); và, Trần Phủ (Nghệ Tông, 3/12/1370-4/12/1372, TTH – 6/1/1395), hay Trần Thư Minh [Shu-ming], quyền thự quốc sự từ 1370 tới 1374 trong Minh thực lục. Cai trị được hai năm Trần Phủ bị Đức Dụ áp lực nhường ngôi cho Trần Kính (Duệ Tông, 4/12/1372 -4/3/1377), rồi tự xưng làm Khâm Hoàng tới ngày 6/1/1395. (14)
Quí Ly còn liên hệ đến một hoàng hậu họ Lê khác, tức Gia Từ hoàng hậu của Duệ Tông (4/12/1372 -4/3/1377), mẹ Phế đế Trần Hiện (Chen Wei, 19/6/1377 – 3/1/1389). Khi Nghệ Tông chọn Trần Hiện lên ngôi, Gia Từ khóc lóc phản đối, nói con mình đức bạc, không xứng làm vua—hiểu theo nghĩa một vòng hoa vương giả của cả Nghệ Tông lẫn Quí Ly. Hậu bỏ cung điện đi tu, rồi chết bí ẩn năm 1381, chẳng hiểu có liên quan gì đến việc Trần Hiện “dụ giết” con trưởng Nghệ Tông là Câu vương Húc hay chăng. (15)
Qua đường giây “họ ngoại,” Quí Ly trở thành thân tín của Nghệ Tông, biểu trưng uy quyền họ Trần từ năm 1370, khi Hữu tướng quốc Trần Phủ làm đảo chính Trần [Dương] Nhật Lễ (18/7/1369 – 9/12/1370)—tức “Trần Nhật Kiến.” vua thứ tám, khác họ nhà Trần. Mẹ cha Nhật Lễ là đào kép hát (Vương Mẫu và Dương Khương), nhưng Lễ trở thành con thừa nhận của Trần Dục, hoàng tử lớn của Minh Tông và Hiến Từ. Trần Dục không được chọn làm vua vì “ngông cuồng” và chết sớm. Trong nỗi tưởng nhớ và ý định đền bù cho Dục, Hiến Từ lập Nhật Lễ lên kế vị Dụ Tông. Bởi thế, sử Lê chép Dụ Tông lập di chiếu truyền ngôi cho Nhật Lễ. Hữu Tướng quốc Phủ cũng gả con gái cho Nhật Lễ.
Nhưng mẹ Nhật Lễ có thể dính líu đến tham vọng trở lại họ Dương của con. Ngày 12/1/1370, Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu bị đầu độc chết, và Lễ bị tình nghi là thủ phạm. Rồi đến cuộc thanh trừng 18 tôn thất sau cuộc mưu sát hụt Lễ trong một đêm Thu 1370. Bởi vậy, dù Nhật Lễ là vua duy nhất được nhà Minh phong vương khi tại vị, Hữu thừa tướng Phủ, cùng hai em phế Lễ, rồi ngày 9/12, cho lệnh đánh chết cả hai cha con Lễ.
Biến cố trên khiến Vương Mẫu chạy sang Chiêm Thành xin quân đánh Thăng Long, nhưng bị bão lớn, thiệt hại nặng ở cửa biển Đại An. Từ năm này, vua Chiêm—xuất hiện như Chế Bồng Nga (1370-8/2/1390) trong sử Việt, A Da A Zhe trong Minh thực lục, được Chu Đức Dụ phong vương ngày 11/1/1370—tạo ra bao ác mộng. Trong hai chục năm kế tiếp, Chế Bồng Nga đánh phá, cướp của, lùa dân từ Hóa Châu ra tới Nghệ An, Thanh Hóa, và bốn lần cướp Thăng Long (năm 1371, 1377, 1378, 1384). Trần Nghệ Tông, rồi Trần Hiện chỉ biết chạy giặc, chôn dấu kho tàng tới tận Lạng Sơn. Năm 1377, Duệ Tông mang 120,000 quân vào đánh Chiêm, nhưng bị tử trận ngày 4/3/1377 (hoặc 8/3/1377, theo tư liệu Minh) tại chân thành Đồ Bàn (Vijaya). Con trai lớn Nghệ Tông bị bắt sống. Hầu hết tùy tướng của Duệ Tông tử trận. Chỉ có Quí Ly, phụ trách tiếp vận, cùng Đỗ Tử Bình, chỉ huy hậu quân, chạy thoát thân. Cuộc thảm bại này khiến cán cân quân sự giữa hai nước thay đổi hẳn. (16)
Thái độ Chu Đức Dụ với vua Trần cũng lạnh nhạt dần. Thoạt tiên không chịu phúng điếu Duệ Tông, vì “chết đuối” là một trong ba trường hợp cấm kỵ. Rồi không thừa nhận Trần Hiện hay Nghiễn, tức Phế đế (19/6/1377 -3/1/1389). Đức Dụ còn sai bộ Lễ viết thư cho Nghệ Tông, khuyên bảo nên cùng Trần Hiện xét lại việc làm của mình, “trở lại với Đạo Trời. Dân chúng đã phải chạy loạn.” (17)
Sử Việt đều ghi Đức Dụ sai Đỗ Tử Hiền, Ổ [Sư] Lân, [Du] Hình Văn Bác sang Hà Nội phong vương cho Đế Hiện; nhưng tới nơi, Đế Hiện đã chết. Tranh chấp mãi, nhà Minh mới chịu qua phúng điếu; (18)
Minh thực lục chỉ có những thông tin khiến khó thể nghĩ rằng Đức Dụ muốn phúng điếu hay phong vương cho Đế Hiện. Thí dụ như lời chê trách Đế Hiện ngày 24/6/1381 là “đểu giả và ác độc” [villainous], “phóng đãng vô luân” [dissolute] và “hỗn láo” [insulting] trong cuộc tranh chấp đất đai với phủ Tư Minh, cùng quyết định trả lễ cống, và cấm Quảng Tây, Quảng Đông nhận chuyển cống lễ của nhà Trần. (19)
Quí Ly nhiều lần được trao nhiệm vụ chống Chiêm. Năm 1387, Quí Ly lên tới chức Đồng Bình Chương sự, tức tể tướng, cờ biển có bốn chữ “văn võ toàn tài.” Tha hồ kéo phe, kết đảng. Uy quyền Quí Ly mạnh đến độ bất cứ âm mưu chống đối nào đều bị bẻ gãy, kể cả vua Trần Hiện. Được Vương Nhữ Mai, con trí sĩ Vương Dữ Nhu, mật báo âm mưu kềm chế Quí Ly của Đế Hiện cùng Thái úy Trần Nguyên Ngạc, Lê Á Phu [và Dữ Nghị?], Quí Ly theo lời khuyên của nhóm Phạm Cự Luận, dèm xiểm và áp lực Nghệ Tông phế vua ngày 3/1/1389, rồi thắt cổ chết. (20)
Quí Ly còn bày kế cho con Nghệ Tông là Ngạc không nhận ngôi vua, nhường cho em út là Trần Ngung, tức Thuận Tông (24/1/1389 -2/4/1398). Rồi tìm cách giết Ngạc. (21)
Chu Đức Dụ và triều đình Kim Lăng bắt đầu chú ý tới “Lê Nhất Nguyên,” sau cuộc thảm sát Phế Đế ngoài thành Thăng Long đầu năm 1389. Nghệ Tông và Quí Ly dấu kín việc này, nên gần một năm sau, ngày 8/12/1389, sứ nhà Trần là Nguyễn Thông Thư mới tiết lộ sự thực, sau khi nhân viên bộ Lễ khám phá ra việc giả mao tên Trần Hiện (Chen Wei, Trần Huy hay Vi) để cống lễ.(22)
Có tác giả đã chỉ trích Nghệ Tông quá nhu nhược, may sẵn áo tang cho chế độ. Như đầu năm 1393, Nghệ Tông khen ngợi bản điều trần 14 thiên “minh đạo” [làm sáng đạo Trời], trong đó Quí Ly đề nghị trở lại với việc thờ phụng Khổng Khâu trước đời Tùy, xếp Chu Công Đán làm chính vị Tiên Thánh [Xian sheng, First Sage], Khổng Khâu làm Tiên Sư [Xian shi, First Master], phụ tế trong văn miếu. (23)
Quí Ly chê Hàn Dũ là một thứ “đạo Nho,” kẻ ngoài miệng nói chuyện thánh hiền, mà việc làm như kẻ cắp. Chê bọn Tống Nho Chu Mậu Thức [Đôn Di, phái Lý học [Li], Trình Hạo (Cheng Xa, 1032-1085), anh Trình Di (Cheng Yi, 1033- 1107) [học trò Đôn Di, chống việc thờ tượng và ảnh Khổng; chú giải lại Dịch]; Dương Qui Sơn [Thế] (học trò Trình Di), La Trọng Tố, Lý Diên Bình và Chu Hy (Zhu Xi, Chu Nguyên Phối, 1130-1200) [chủ trương chỉ nên tìm ra ý định [intentions] của tiên Thánh khi đọc kinh sách; chống việc thờ tượng và ảnh]. (24)
Sử quan định hướng Khổng giáo hết lời sỉ nhục, trách móc. Ngô Sĩ Liên viết: “Đạo của tiên thánh trước nếu không có Khổng tử thì không rõ được; đạo của bậc thánh sau nếu không có Khổng tử thì không thể làm khuôn phép được. Từ khi có sinh dân đến nay chưa ai hơn Khổng tử; thế mà dám khinh xuất bàn đến, là chẳng biết lượng mình đấy.” Vào thế kỷ XVIII, Ngô Thì Sĩ còn nặng lời hơn nữa: gọi Quí Ly là “người mù chê mặt trăng, mặt trời không có ánh sáng,” “cái ngu của Quí Ly thì tội không kể xiết.” (25) 
Có lẽ Ngô Thì Sĩ chưa biết rằng ánh trăng là phản chiếu của ánh mặt trời. Và, rõ ràng những người tự nhận môn đệ Khổng chưa sẵn sàng để chấp nhận sự thực: “Tử viết” hay “Tử văn,” “Tử vân” trong Luận Ngữ chưa hẳn là Khổng Khâu lịch sử. Chỉ có Nguyễn Phước Hường Nhiệm, người muốn được hậu thế ca ngợi như Lưu Hằng, tức Hán Văn Đế (179-157 TTL), cho là “chưa hẳn hoàn toàn toàn sai.” (26)
Sự thực có thể phức tạp hơn chúng ta được thông tin. Một trong những yếu tố chưa được đề cập là giao tình ngày một xấu đi giữa Nghệ Tông và Chu Đức Dụ.
Tất cả khởi đi từ cái chết của Trần [Dương] Nhật Lễ ngày 9/12/1370. Đức Dụ rất giận dữ, lên án Nghệ Tông giết vua, mưu toan làm giàu, không khai báo sự thực. Bởi vậy, năm 1374, Nghệ Tông vẫn chưa được phong vương, phải tuyên bố từ chức tạm giữ việc nước vì tuổi già. Em trai Nghệ Tông, Duệ Tông, được kế vị từ tháng 12/1372, cũng vậy. Khi Duệ Tông chết ở Đồ Bàn năm 1377, và Hà Nội báo cáo Duệ Tông bị chết đuối, Đức Dụ không muốn phúng điếu. (27)
Tháng 5/1399 [4 Kỷ Mão, 6/5-4/6/1399], sau khi Nghệ Tông đã chết, và như để chứng tỏ chẳng vui thú gì với món quà bức tranh “tứ phụ” được trao tặng năm 1394, Quí Ly giết thêm Thuận Tông (24/1/1389 -2/4/1398) ở quán Ngọc Thanh [thôn Đạm Thủy, huyện Đông Triều, Hải Dương], sau khi ép con rể đi tu theo đạo giáo. Quí Ly đã sai Nguyễn Cẩn đầu độc, nhưng vua không chết. nên phải dùng Xa kỵ vệ thượng tướng quân Phạm Kỵ Vĩnh thắt cổ. Tháng 12/1400-1/1401 [12 Canh Thìn], Quí Ly nhường ngôi cho con thứ là Hán Thương [xuất hiện trong Minh thực lục như Hu Di [Hồ Đại], hay Li Cang [Lê Thương] (12/1400-1/1401- 17/6/1407). (28)
Việc bỏ trưởng, lập thứ này, theo sử Việt, được chính Lê Nguyên Trừng [Li Sheng]chấp thuận—dù có những dấu hiệu bất mãn từ phía Trừng khiến Quí Ly phải làm thơ khuyên bảo. Hán Thương là con Huy Ninh công chúa—được Nghệ Tông gả cho Quí Ly khoảng nửa năm sau ngày chồng cũ là tôn thất Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết. Liên hệ huyết thống này giúp Hán Thương có nhiều phần trăm được nhà Minh thừa nhận hơn Trừng.
B. Hu Di [Hồ Đại] và Li Cang [Lê Thương] (12/1400-1/1401-17/6/1407):
Không rõ chuyện gì đã xảy ra từ năm 1400 tới ngày 17/7/1402 vì Minh thực lục khuyết giai đoạn này. Từ ngày 3/10/1402 sử Minh mới chép Chu Lệ sai sứ mang Chiếu lên ngôi tới mười [10] nước lân cận. Ngày 21/4/1403, Hán Thương gửi sứ đến mừng, và xin phong vương. Theo Hán Thương, Trần Nhật Khuê là chúa yi [di] đầu tiên xin cống lễ, nhưng Khuê mất không con nối dõi. Hán Thương là con công chúa họ Trần, nên được dân tôn lên nhiếp chính. Triều Minh đề nghị gửi người qua điều tra vì không thể tin được những man di bạt mạng [reckless] và bốc đồng [impetuous]. Chu Lệ đồng ý. Ngày 3/5/1403, Chu Lệ cho Hán Thương biết Dương Bột [Yang Bo] sẽ được giao trọng trách tìm hiểu này. Sử Tây Sơn và Nguyễn chép sứ Minh là Dương Bột, nhưng không nói rõ ngày tháng. Sử Lê không chép, chỉ ghi Chu Lệ sai Ổ Tu sang báo tin lên ngôi.
Theo Minh thực lục, ngày 28/12/1403, Dương Bột trở lại Kim Lăng với một sứ đoàn của Hán Thương, và tờ biểu cầu phong thứ hai, kèm theo tờ trình của các thế gia, kỳ lão nội dung cũng tương tự như trước, tức vua Trần chết, không con, nên dân tôn lập Hán Thương quyền thự quốc sự bốn năm qua, xin Chu Lệ sớm phong tước để yên vỗ man di. Ngày 6/1/1404, Chu Lệ sai Hạ Chí Sơn [Xia Zhishan] xuống phong Hán Thương làm An Nam Quốc Vương. (29)
Đây là một chiến thắng ngoại giao lớn cho cha con Hán Thương. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ khởi đầu. Những vấn đề tồn đọng từ thời nhà Trần—ngoài lãnh thổ như Chiêm Thành, trong lãnh thổ như vấn đề “tranh chấp đất đai,” nên hiểu theo nghĩa xâm lấn, hiếu chiến; và nhất là các thế lực nội thù, sẽ đưa Đại Ngu tới nghĩa trang trong hơn ba năm ngắn ngủi sắp tới. Liên hệ huyết thống với một vua “thánh hiền” Khổng giáo không đủ cứu cha con Quí Ly khỏi họa diệt vong. Quốc thống từ thời Trưng Vương thêm một lần bị cướp đoạt sau hơn bốn trăm năm tự chủ từ họ Khúc, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, sáu đời vua Lý, tới mười hai đời vua Trần.
Để tránh xúc phạm đến họ Lê ở Thanh Hóa và họ Hồ ở Diễn Châu-Nghệ An, từ đây, chúng tôi sẽ chỉ dùng tên Quí Ly [Ji-li], Trừng [Sheng] và Hán Thương [Cang hay Hu Di], cắt bỏ họ Lê mà Quí Ly không muốn liên hệ, cùng họ Hồ nửa người nửa thánh mà chẳng ai có thể thiết lập liên hệ với Quí Ly, và theo chúng tôi trộm nghĩ, không hề hiện hữu..
II. Những Vấn Đề Tồn Đọng:
A. Trụ Đồng Mã Viện:
Trong lịch sử bang giao Hoa-Việt, có rất nhiều huyền thoại. Văn gia Hoa từng đưa bang giao giữa hai nước lên tới năm 1110 TTL, tức triều Chu Thành Vương với Chu Công Đán phụ chính. Truyền bản Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng ghi lại giấc mơ Chu Công Đán ban cho sứ Việt Thường năm [5] cỗ xe có dụng cụ xác định hướng nam, đi dài theo duyên hải từ Thiểm Tây tới Phù Nam, Lâm Ấp, tròn năm mới về tới Việt Thường. Vài văn gia đời Tống còn nằm mơ thấy chuyện cúng rùa ngàn tuổi cho Nghiêu, trên lưng có chữ giáp cốt, và Nghiêu dựa theo đó làm thành lịch rùa. Kinh hoàng hơn nữa, có người còn đưa lịch sử thông hiều Hoa-Việt đến thời Chuyên Húc, tức một trong những sứ giả của vua cổ tích Trung Hoa đã tới đo đạc mặt trời cùng tinh tú ở “Nam Giao,” rồi hồn nhiên phán rằng “Nam Giao tức Giao Chỉ.” (30)
Huyền thoại nổi danh hơn nữa là việc Mã Viện [Ma Yuan] đã đánh dẹp cuộc nổi dạy của Hai Bà Trưng (40-43) đời Lưu Tú (5/8/25-29/3/57), rồi trồng trụ đồng hay bia đá để khoa trương võ công. Chẳng hiểu tại sao bỗng nảy sinh thêm tin Mã Viện dùng trụ đồng làm biên giới đế quốc Hán. Rồi đến suy luận trụ đồng là biên giới tây-nam Hán-Việt, hay biên giới Giao Châu và Lâm Ấp [Lin-yi] tức cổ Champa. Một tự điển khá nổi tiếng Hán ngữ là Từ Hải còn ghi trụ đồng Mã Viện ở trên đèo Cả—tức biên giới Đại Việt đời Hậu Lê sơ, hoặc các chúa Nguyễn vào đấu thế kỷ XVII. Chỉ có Lê Tắc, trong truyền bản An Nan Zhi-luo [An Nam Chí Lược] xếp loại nó vào loại cổ tích từ thế kỷ XIII-XIV, Bài thơ ca ngợi công đức hai Phục ba tướng quân họ Lộ và họ Mã được ghi lại một chứng từ khác, “Đồng tiêu, Nhật Nam đoan.” (31)
Tuy nhiên, vì hãi sợ những sự thực Lê Tắc đã ghi lại, người ta tảng lờ những điểm chính yếu của ANCL.
Qblai Khan (Hốt Tất Liệt, 1260-18/2/1294) và nhà Nguyên thường được giới thiệu như đã biến huyền thoại trụ đồng Mã Viện thành một dữ kiện lịch sử xâm lược—qua hai cuộc hội khám tháng 4-5/1272 (Uriyang Qadai-Lê Kính Phu) đời Trần Thánh Tông (30/3/1258-8/11/1278, TTH 3/7/1290), và tháng 8-9/1345 (Vương Sĩ Hành-Phạm Sư Mạnh) đời Trần Dụ Tông [hiểu theo nghĩa TTH Minh Tông (15/3/1329-10/3/1357). (32)
Tuy nhiên, hai thông tin trên cần được nghiên cứu lại. Mặc dù trong thư gửi Trần Thuận Tông ngày 20/3/1397, sứ giả của Chu Đức Dụ là Trần Thành [Chen Zheng] nhắc đến hai chi tiết này, nhưng chúng có thể chỉ được bịa đặt ra giống như Tập Cận Bình cùng Bộ Chính Trị Đảng CSTH của thế kỷ XXI đang ngửa mặt lên trời cả cười về hai ồng tre “tài liệu cổ sử” chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chu Đức Dụ tức Minh Thái tổ mới có lẽ là người hâm nóng tinh thần thực dân, xâm lược Hán tộc qua chiêu bài “kim tiêu” biên giới, và võ công “Mã Phục Ba [Ma Fu-Bo] chế ngự man di. Ngay sau khi đánh thắng quân Nguyên, từ góc đông nam của đế quốc Trung Hoa, Đức Dụ đã nhắc đến trụ đồng biểu dương sự khuất phục Man Yi (còn được biết như Nam Man và Tây Nam Man Di từ đời Hán) trong chiếu lên ngôi, hay chiếu sắc ban phong Nhật Lễ làm An Nam Quốc Vương năm 1370. (33)
Năm 1381, vấn đề tranh chấp đất đai biên giới lại bộc phát. Đầu mối xuất phát từ gia đình Thổ tri phủ Tư Minh Hoàng Quảng Thành. Thổ hào Thành đã hoang tưởng ra việc Đồng Đăng là đất Đồng trụ của Mã Viện, nên xin đòi trả lại 200 lý [ca 82 kms] phía bắc và đông trụ đồng mà An Nam đã lấn chiếm. Trần Hiện bác khước. Điều này khiến Đức Dụ giận dữ, không tiếc lời chỉ trích họ Trần. (34)
Năm 1396-1397, Chu Đức Dụ lại sai bọn Trần Thành và Lữ Nhượng qua Hà Nội thảo luận, nhưng Trần Ngung tức Trần Thuận Tông không chịu nhân nhượng. Trong kho bằng chứng lịch sử của nhà Minh, Trần Thành nhắc đến câu tuyên bố của đại diện Việt về tục lệ tiếp đón hay đưa tiễn sứ Trung Hoa ở Khâu Ôn [Qiu Wen], để cưỡng từ đoạt lý rằng Khâu Ôn là ải địa đầu của Giao Chỉ, không phải trạm đổi ngựa ở Đồng Đăng; nên đòi đất Khâu Ôn, Như Ngao [Ru Ao], Khánh Viễn [Qing-yuan], Uyên [Yuan] và Thoát [Tuo]. Mặc dù bị Thuận Tông bẻ gãy gian ý—như đặt câu hỏi tại sao năm 1285 hay 1288. Thoát Hoan không lui về giữ biên giới Vĩnh Bình lại chạy tới Tư Minh—Đức Dụ đành tuyên bố “An Nam sẽ bị tai họa,” nhưng chờ dịp thuận tiện hơn. (35) 
Ngày 1/5/1404, Quảng Thành lại xin đòi đất bị Annam “xâm lấn.” Chu Lệ đồng ý. Ngày 25/7, Chu Lệ chính thức đòi đất đã mất. Đòi hỏi này bỗng có sức nặng của núi Thái Sơn hay Thập Vạn Đại Sơn sau khi Bùi Bá Kỳ cùng Trần Thiên [Thiêm] Bình xuất hiện tại Kim Lăng mùa Thu 1404, van lậy Chu Lệ dùng uy đức [moral powers] trừng trị cha con Quí Ly tội ác giết vua, truy sát tôn thất, cướp ngôi; lại ngạo mạn tự xưng dòng giõi Thánh đế Thuấn, đặt tên nước Đại Ngu, đặt niên hiệu Nguyên Thánh. Bởi vậy, năm 1405, cha con Quí Ly sai “cát địa sứ” Hoàng Hối Khanh—thái học sinh khóa 1384—cắt trả phủ Tư Minh 59 xã thôn đất Lộc Châu hay Cổ Lâu, Lạng Sơn. Thừa thắng, Chu Lệ còn đòi bảy [7] khu vực của châu Ninh Viễn, Vân Nam, bị Đại Ngu lấn chiếm. Trong khi đó, sai Lý Kỳ [Li Qi] và Vương Thư [Wang Shu], cùng phó sứ Lưu Quang Dĩnh, xuống An Tôn điều tra, với lời dọa nạt cha con Quí Ly: “Cái ác của các tội bay gây ra cao tày trời” [The evil of your crimes reaches to Heaven]. Sau khi cha con Quí Ly sai Nguyễn Cảnh Chân theo Lý Kỳ lên Kim Lăng ngày 22/7/1405 đề nghị cho Thiên Bình về nước, ngày 5/8 Chu Lệ sai Niếp Thông dẫn Cảnh Chân trở lại An Tôn, mang theo sắc dụ phong Hán Thương làm Thượng Công, Tri phủ Thuận Hóa, hưởng thực ấp toàn phủ, cha truyền con nối, nếu đón Thiêm Bình về làm vua. Văn thư trên vẫn có những lời đe dọa về tội lỗi tày trời “giết vua,” “truy diệt tôn thất.” (36)
Năm 1440, Chu Kỳ Trấn (Minh Anh Tông, 1435-1449, 1457-1464) lại nêu lên vấn đề ranh giới và trụ đồng. Lần này, nhân việc Hoàng Khoan đem 290 hộ dân và lãnh thổ ở châu Khâm [Qin], Quảng Đông, xin qui phụ An Nam từ thời Tuyên Tông (1425-1435). thổ quan châu Khâm tin rằng sau khi Mã Viện trừng phạt man di và vãn hồi hòa bình đời Hán (42-44), tất cả lãnh thổ từ trụ đồng Mã Viện tới Phân Mao Lĩnh [Fen Mao Range] là đất châu Khâm. Bản đồ và tư liệu lịch sử khẳng định rẳng trụ đồng nằm ở động Cổ Sâm [Sum, hay Lâu], cách châu Khâm ba [3] lý, là biên giới tây nam; và Phân Mao Lĩnh, nơi cỏ tranh chia mọc theo hai ngả bắc nam như một biên giới trời sinh, là mốc biên giới tây bắc. An Nam đã xâm lấn qua trụ đồng 200 lí, và chiếm vượt qua Phân Mao Lĩnh 300 lí. Ngay đến anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi cùng nho thần nhà Hậu Lê cũng bị ám ảnh bởi cơ quan tuyên truyền khổng lồ của nhà Minh, viết vào truyền bản Dư Địa Chí: “số 26: Vân Cừ, Kim tiêu, Phân Mao, [ở về An Bang, sau tránh húy, đổi làm An Quảng].” (37)
Năm 1442, Lê Thái Tông (Lê Lân, 20/10/1433-7/9/1442) nhận lỗi; nhưng không rõ cắt trả lại châu Khâm bao nhiêu đất. Đời Lê Thánh Tông (26/6/1460- 3/3/1497), năm 1471-1472, nhà Minh lại đòi đất An Bang—để có thể nhìn ra biển Đông Nam Á, khiến Thánh Tông phải sai cha vợ là Nguyễn Đức Trung trấn giữ An Bang, và nhiều hơn một lần căn dặn các đại thần rằng “ai cắt một tấc đất của Thái Tổ để lại sẽ bị tru di.” (38) Chẳng hiểu đây là lập trường của vua, hay chỉ tuyên bố cho sử thần ghi vào “Nhật lịch.”
Cuộc cướp ngôi nhà Lê của cha con Mạc Đăng Dung năm 1527 mở ra cho Chu Hậu Tổng (Thế Tông, 27/5/1521-23/1/1567) cơ hội lấy lại núi “Phân Mao” thuộc châu Khâm, Quảng Đông. Chu Khứ Phi (Zhou Qufei, 1100-1178) đời Tống đã nằm mơ thấy một hay hai trụ đồng Mã Viện, trên đó khắc hàng chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” ở khu hang động Cổ Sâm, Khâm Châu, và kể lại trong tập Lĩnh Ngoại Đại Đáp [Lingwai dai da; Reponses from outside the Ling Pass]. Đại Thanh Nhất Thống Chí cũng chép “Đèo Phân Mao” ở động Cổ Sâm, phía Tây châu Khâm khoảng 3 lí [1.5 km]. Mã Viện dựng trụ đồng ở đây. (39)
Theo sử cũ—đã được sử quan Nguyễn hiệu đính—Ðăng Dung cử Phạm Chánh Nghị qua Vân Nam, đút lót vàng bạc, nói con cháu nhà Lê đã chết hết. Năm 1534, Chu Hậu Tổng sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn dẫn quân đến biên giới, loan tin sẽ đánh Mạc. (Thông sử, Long (1978), tr 270-271, 277)
Minh thực lục ghi từ năm 1522 tới 1536, liên hệ với An Nam bị cắt đứt. Mãi tới năm 1536, Chu Hậu Tổng và các sứ quân ở Quảng Đông/Quảng Tây, Quí Châu/Vân Nam mới thắc mắc về việc An Nam thiếu tiền cống lễ đã trên 20 năm. Vì ngân khố eo hẹp, Chu Hậu Tổng và cận thần muốn “hỏi tội” An Nam. Ngày 7/12/1536, Bộ Binh dâng biểu xin thành lập một Bộ tư lệnh đánh An Nam; gồm một tư lệnh, hai Phó tư lệnh, bốn phụ tá, bốn chỉ huy trưởng kỵ mã, một quan văn phụ trách dân sự và hành chính, cùng hai đại diện tại hai quân khu Quảng Đông/Quảng Tây và Vân Nam. Thị lang bộ Hộ ra sức can ngăn, nhắc nhủ Hậu Tổng về những gương sáng của triều Chu Lệ—như hao quân, tốn của, hàng trăm nghìn người chết mà không giữ được Giao Chỉ. Ngân khố chỉ còn hơn bốn [4] triệu nén bạc, tình trạng biên giới với “rợ Hồ” phức tạp. Hơn nữa, không thể dùng luật lệ của một nước đội mũ, mặc áo để cai trị man di.(40)
Khoảng hai tháng sau, sứ thần của Nguyễn Cam tự Kim—dưới danh nghĩa một con cháu nhà Lê là Lê Ninh—tới Bắc Kinh. Trịnh Duy Liêu khai rằng đã tới Chiêm Thành hai năm trước, nay mới tới được cửa Trời. van xin Hậu Tổng ra oai trừng trị phản nghịch Mạc Đăng Dung [Mo Deng Yong] tội đuổi Lê Huệ [Li Hui, hay Y, tức Lê Chiêu Tông], cháu vua Lê Tương Dực [Li Zhou], đã lên tạm coi quốc sự sau ngày Trần Cảo nổi loạn, giết vua năm 1516. Sau đó, Dung lập Lê Khoáng [Li Kuang], rồi giết Khoáng, chọn con mình lên thay. Sau khi Lê Huệ chết, con là Lê Ninh dấy binh chống Dung. Nhiều lần gửi sứ qua Bắc Kinh đều bị Dung chặn giết. Bộ Lễ tỏ ý nghi ngờ, vì Liễu đã ở trên tàu Quảng Đông hai năm tại Chiêm Thành mà không hề tiếp xúc với sứ Minh. Hậu Tổng cho Liễu được tạm trú tại Viện Thông Ngôn theo qui chế sứ đoàn. (41)
Một số người không muốn xuất quân. Pan Zhen [Bàn Chân], Tả thị lang bộ Binh cho rằng cả hai phe đều có lỗi, chẳng nên bênh phe nào. Giặc Hồ đang đe dọa ở biên giới. (juan 199:4b-5a). Pan Dan, phụ trách quân sự ở Quảng Đông/Quảng Tây cho rằng Mạc Đăng Dung kiểm soát 80 phần tram lãnh thổ, và đã gửi người đến xin cống lễ. (juan 199:6b-7b). Ngày 27/5/1537, bộ Binh đưa ra 11 cách giải quyết, và đề nghị sử dụng lực lượng hỗn hợp Hán và địa phương. (juan 199:6b-7b).
Ngày 20/5/1537 ra hịch kể mười [10] tội của Đăng Dung: (1) Đuổi Li Hui [Lê Huệ, tức Lê Y] cướp ngôi; (2) ép một công chúa lấy Đăng Dung; (3) Giết Li Kuang [Lê Xuân hay Cung Hoàng]; lập con làm vua; (4) Đuổi Lê Ninh chạy đi; (5) Tự xưng Thượng hoàng; (6) Đặt niên hiệu Minh Đức, hay Đại Thánh; (7) Bố trí lính ở các đèo, cản trở lưu thông; (8) tàn bạo và vô luân; (9) ngăn chặn đường đi cống; (10) tự động bổ nhậm quan lại; Ai bắt được một tội nhân sẽ thưởng 22,000 nén vàng và ban quan tước. (42)
Tuần phủ Thịnh còn gửi thư văn cho Lê Ninh, yêu cầu trỉnh bày rõ ràng sự thực. Bởi vậy, năm 1437, Nguyễn Cam gửi thêm sứ đoàn thứ hai do Trịnh Viên cầm đầu tới Vân Nam, mang theo tờ biểu nói rõ việc Đăng Dung đuổi Lê Huệ và giết Lê Khoáng.. Trịnh Viên còn được gặp đặc sứ của Chu Lệ là Đào Phương. Tờ biểu thứ hai này của Lê Ninh khiến Chu Lệ tạm ngưng việc xuất quân. (Shizong, juan 204:1b).
Mặt khác, qua đề nghị của Án sát châu Khâm và Đô Ngự sử, kiêm tuần phủ Vân Nam Uông Văn Thịnh [Wang Wen-Sheng] tiếp tục điều tra tình hình, và mở đường cho cha con Đăng Dung đầu hàng, dâng nạp sổ sách đất đai, dân đinh, sẽ được tha tội chết
Đồng thời, chiêu mộ những thổ hào chống cha con họ Mạc, giúp họ dùng võ lực hưng Lê. Hai lá bài được Hậu Tổng và các cận thần đồng tâm ủng hộ là Lê Ninh, tức Lê Trang Tông, do Nguyễn Cam và đồng minh họ Trịnh chế tác, và hai anh em “chúa Bầu” Vũ Văn Uyên-Vũ Văn Mật, thủ lĩnh xóm Khao Bầu, xã Đại Đồng, Tuyên Quang. (Đại Nam Nhất Thống Chí , q XVII: Hải Dương và q XXIII: Tuyên Quang, ghi sự tích phù Lê chống Mạc của hai anh em Vũ Văn Uyên và Mật; ĐNNTC, XVII: Hải Dương (1997), 3:449 [373-466]; XXIII: Tuyên Quang, (1997), 3:360-362 [333-363];
Năm 1537, Vũ Văn Uyên tình nguyện mang 10,000 quân từ đèo Chi Long xuống đánh một vị trí của Dung. Mạc Đăng Doanh thân chinh đi đánh anh em Vũ Văn Uyên, nhưng không thắng. Tổng binh Mộc Chiêu Phúc và Tuần phủ Thịnh cho quân tới đóng ở ghềnh Liên Hoa, châu Thủy Vĩ để hỗ trợ anh em Uyên.
Châu Thủy Vỹ thuộc Hưng Hóa, nằm sát huyện Vân Sơn, Vân Nam, cách biên giới khoảng 11 dặm hay 5 cây số; đông giáp Vị Xuyên, Tuyên Quang. Đời Chu Lệ, là cửa ngõ xâm nhập Đại Ngu của Mộc Thạnh. Một phần lãnh thổ phía bắc, kể cả Mông Tự và ghềnh Liên Hoa bị Trung Hoa xâm chiếm; ĐNNTC, XXIII: Tuyên Quang, (1997), 3:284-285 [333-363];
Ninh Viễn [Ning Yuan] là phủ An Tây hay Mường Lễ; thuộc Hưng Hóa (trấn Tuyên Quang đời Trần; phủ Tuyên Hóa đời Minh), cát cứ của Đèo [Điêu] Cát Hãn. Sau khi Quí Ly cướp ngôi, Đèo Cát Hãn xin sát nhập vào Vân Nam. Năm 1432-1433 bị Lê Lợi đánh giết. Năm 1761, đời Lê Hiển Tông (1740- 1786) mất vào tay nhà Thanh sáu [6] trong số mười [10] châu—Tung Lãng [nay là Quang Lãng], Hoàng Nhâm, Hợp Phì, Lê Tuyên, Tuy Phụ và Khiêm. Ngày nay chỉ còn châu Chiêu Tấn, tức Mường Thu hay Mường So; ĐNNTC, XXIII: Tuyên Quang, (1997), 3:285-286 [333-363];
Năm 1405, Chu Lệ buộc tội Hán Thương đánh chiếm [bảy [7] công sự phòng thủ [stockades] bằng thân cây sát mặt đất]. Tháng 1/1432, Lê Lợi sai Tư đồ Lê Sát và Tư Tề mang quân đánh Mường Lễ, vì thổ tù Đèo Cát Hãn tư thông với Phạm Văn Xảo; sau lại móc nối với vua Ai Lao đánh Mường Mỗi.
Tháng 2-3/1432, đích thân vua cũng xuất chinh. Đánh được Mường Lễ; giết Kha Lại. Đổi Mường Lễ thành Phục Lễ. (Lê Quí Đôn, Đại Việt Thông Sử, bản dịch Ngô Thế Long, trong Lê Quí Đôn Toàn Tập III (Hà Nội: KHXH, 1978), tr 92-94. [Sẽ dẫn: Thông sử, Long (1978)],; CMCB, XV:30, (Hà Nội: 1998), I:863-864; ĐVSK, BKTT, X:73b-74a..
3/4/1432 [3/3 Nhâm Tí]: Lê Lợi hồi kinh. Ban chiếu việc đánh Mường Lễ: Đèo Cát Hãn phản. Không cống lễ. Khuấy nhiễu các trấn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quí Hóa, Gia Hưng. Làm phản do âm mưu của thằng [Phan Văn] Xảo. Năm ngoái, Bế Khắc Thiệu mưu làm phản ở Thái Nguyên, do thằng [Trần Nguyên] Hãn xúi dục. (Thông sử, Long (1978), tr 92-4)
Lê Sát và Tư Tề thắng giặc ở Đà Lãng, truy kích tới Mường Bồ. [Con] Hoàng Hối Khanh bị bắt giết, nạp thủ cấp. Đinh Quế cùng vợ con bị bắt sống. Bắt được hơn 3 vạn thuộc hạ và vợ con Cát Hãn, cùng hơn 100 voi.
Tháng 11 Nhâm Tí [23/11-22/12/1432]: Đèo Cát Hãn về hàng. Vua phong chức Tư Mã. (Thông sử, Long (1978), tr 94) Năm sau, giết đi. (ĐVSK, BKTT, X:74a, Lâu (2009), 2:382 ghi là tháng Giêng Quí Sửu [1-2/1433]) CMCB, XV:30, (Hà Nội: 1998), 1:864)
Ngày 16/6/1537, Mao Bá Ôn tới kinh đô, nhận trách nhiệm điều khiển kế hoạch đánh An Nam. Bá Ôn đưa ra năm [5] đề nghị, mà chính yếu là chỉ loại bỏ Mạc Đăng Dung, nhưng giữ các thuộc hạ; sẽ sử dụng quân Quảng Đông/ Quảng Tây và Vân Nam. (Shizong, juan 200:1b-2a). Hậu Tổng chấp thuận, và cách chức (thị lang Pan Zhen), hay phạt lương hai tháng một đại thần từng đề nghị ngưng hành quân vì lương thực ở Hoa Nam gần cạn. (Shizong, juan 200:8b-9a).
Cha con họ Mạc—trước mối đe dọa của một cuộc chiến mà cơ quan tuyên truyền của Hậu Tổng thổi phồng lên tới 300,000 quân từ Quảng Đông/Quảng Tây, và Vân Nam; cùng tờ hịch nêu lên mười [10] tội của cha con Dung sau khi sứ đoàn thứ hai do Trịnh Viên cầm đầu của Nguyễn Cam tới Vân Nam gặp Tuần phủ Uông Văn Thịnh và đặc sứ của Hậu Tổng, trình nộp một điều trần về tội giết vua, cướp ngôi của cha con Dung—quyết định đi xa và nhanh hơn bất cứ đối thủ nào. Đăng Doanh dàn xếp cho Nguyễn Văn Thái [Ruan Wen-tai] —người từng soạn chiếu nhường ngôi của Lê Khoáng năm 1427—và Phan Chính Nghị đưa ra những đề nghị mà Hậu Tổng và các quân phiệt địa phương khó từ chối.
Ngày 22/4/1538, Đăng Doanh sai Phan Chính Nghị đi nộp biểu xin đầu hàng. Lời lẽ vô cùng nhã nhặn và nội dung khiến Hậu Tổng đẹp dạ. Đưa ra những điều kiện khiến Hậu Tổng không thể từ chối: (a) cắt trả đất bốn động cho Khâm Châu, (b) sẽ trà hết số cống lễ còn thiếu 20 năm; (c) không dủng võ lực đánh nhau với Lê Ninh và Vũ Văn Uyên; và (d). xin trao số mệnh vào sự phán xét của Cừu Loan cùng Mao Bá Ôn. Nhưng Nghị cũng tố cáo Lê Ninh (tức Lê Trang Tông) vốn họ Nguyễn. (Shizong, juan 210:4a-5a).
Hậu Tổng lập tức cho lệnh hoãn hành quân, và bốn ngày sau, 26/4/1538, bổ nhiệm Cừu Loan [Qiu Luan] làm Chinh Di Phó tướng quân, và Mao Bá Ôn làm quan quản trị, hay Tổng quản, với ấn guan fang.(43)
Ngày 14/3/1539, Nguyễn Văn Thái đích thân tới Trấn Nam Quan, dâng biểu xin hàng mới của Đăng Doanh. Đăng Doanh cung kính tuyên bố tất cả đất đai An Nam đều thuộc về Thiên Triều, sẽ trả lại tất cả những đất có tranh chấp. Đăng Doanh cũng nộp sổ sách, địa đồ của 53 phủ, 176 châu, 49 huyện, 300,000 hộ với 1,750,000 đinh. (44)
Ngày 8/9/1539, Hậu Tổng chấp thuận trên nguyên tắc tha tội chết cho cha con Đăng Dung, nếu họ Mạc thành thực. Để bảo đảm sẽ đạt được kết quả, Hậu Tổng cho tiến hành việc chuẩn bị, cử Mao Bá Ôn [Mao Ba-wen] một thị lang bộ Công, trông coi việc xây dựng,.phụ trách. Bá Ôn đưa ra một kế hoạch năm [5] điểm, nhắm vào cha con Đăng Dung mà thôi, quan tướng các cấp sẽ được giữ nguyên chức vụ cũ, nếu ngả theo nhà Minh. Ngoài ra, Bá Ôn chủ trương dùng hai phiên ti Quảng Đông/Quảng Tây và Vân Nam chia nhau quản thúc các lãnh chúa Việt. Lê Ninh, anh em Vũ Văn Uyên cùng các thổ hào biên giới Trần Thông [Chen Cong], Hoàng Công Cang [Huang Gong Gan], tri huyện Thủy Vỹ Đào Cát Hãn [Tao Xian] đặt dưới sự điều động của tuần phủ Thịnh và Tông binh Mộc Chiêu Phúc.Vũ Văn Uyên còn thành lập một hành dinh ở Ghềnh Liên Hoa, châu Thủy Vỹ, nhưng bị nhà Minh xâm chiếm. Cha con Mạc Đăng Dung dưới sự cai quản của bọn Thái Tĩnh, quân vụ trưởng Quảng Đông/Quảng Tây. Và Tổng binh Lưu Huân [Liu Xun]
Lực lượng xâm lược, dự trù lên tới 300,000 quân, chia làm hai cánh chính. Cánh quân Quảng Tây/ Quảng Đông, kể cả chính binh và kỳ binh (quân lưu động), dự trù lên tới 220,000, chia làm ba mũi xâm phạm Ðại Việt theo ngả Qui Thuận, Ô Lôi [Khâm Châu, phủ Liêm Châu], và Bằng Tường, Long Châu, Tư Minh. Vân Nam gửi ba đội tiễu binh, mỗi đội 21,000, từ ghềnh Liên Hoa (Mông Tự, phủ Khai Hóa nhà Thanh [nguyên là đất của Ðại Việt]) theo ba [3] cánh tràn vào Ðại Việt. (45)
Cái chết đột ngột của Đăng Doanh ngày 3/3/1540—vì bị sét đánh, theo một nguồn tin—khiến việc thương thuyết bỗng chậm lại.
Ngày 11/5/1540, Án sát châu Khâm là Lâm Hy Nguyên [Lin Xi-Yuan] dâng biểu yêu cầu Đăng Doanh trả lại bốn [4] động đã lấn chiếm sau ngày quân Minh rút chạy khỏi Đông Quan năm 1428. Tuy nhiên, Hậu Tổng không cứu xét, chờ đợi những viên chức có trách nhiệm. Ngày 31/7/1540, Cừu Loan và Mao Bá Ôn dâng biểu, đề cập đến nguồn tin Đăng Doanh đã chết. Cách nào đi nữa, không ai biết Doanh đang ở đâu. Nếu cha con Đăng Dung không gấp rút đầu hàng, có lẽ phải xuất quân. Sẽ dùng 36,000 quân Hán và Tartar ở Quảng Đông; 75,000 thổ binh Quảng Tây; cùng lực lượng Hồ Quảng và hải quân. Số lương thực cần cho một năm là 380,000 thạch gạo; 800,000 lạng bạc; và hơn 800,000 ngựa. Xin được giữ lại số tiền thuế bạc 23,200 lạng, và thuế muối, sắt khoảng 107.000 lạng chưa chuyển về kinh. Hậu Tổng chấp thuận. (48)
Ngày 20/10/1540, một biến cố bất thần xảy ra tại Quảng Tây. Cừu Loan và Tổng binh Liu Xun [Lưu Huân] nảy sinh hiềm khích về tướng lệnh, và Cừu Loan bắt Lưu Huân phải sửa áo giáp để quì lạy mình. Thế Tông bèn triệu hồi Cừu Loan về kinh, (49)
Ngày 30/11/1540—bị dồn vào tình trạng mà Mạc Đăng Dung thú nhận là “lợn trong chuồng”—Dung bàn giao chính quyền cho con trưởng Đăng Doanh là Mạc Phúc Hải (Mo Fu-Hai, 8/3/1540-5/6/1546), rồi cùng cháu là Minh Văn và 42 thuộc hạ qua Trấn Nam Quan làm lễ đầu hàng.
“[M]ỗi người đều cầm thước, buộc dây lụa vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, giập đầu quì dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù của châu Vĩnh Yên, trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc lệ vào Khâm Châu.” (50)
Rồi sai cháu là Văn Minh, cùng 29 người, kể cả Hứa Tam Tĩnh, Nguyễn hay Vũ Duy Quế đi Yên Kinh dâng biểu đầu hàng lên Chu Hậu Tổng.
Điều đáng nhấn mạnh không chỉ có một vùng lãnh thổ rộng lớn khoảng 300 lý của Am Quảng trả cho châu Khâm. Hay, mở ra cho thổ dân một “trục lộ tơ lụa hàng hải” tới Vịnh Bắc Việt
Quan trọng hơn nữa là cha con Dung từ bỏ vị thế một nước chư hầu [vassal state], trở lại với thể chế đô thống sứ ti thời Minh thuộc. Tên Giao Chỉ được đổi thành An Nam, nhưng vua An Nam năm nào trở thành chức quan tùng nhị phẩm— tùy thuộc hai phiên ti Quảng Đông/Quảng Tây và Vân Nam. Không thể không tự hỏi việc xin bãi bỏ vị thế một quốc gia, xuống làm một đơn vị quân chính [An Nam Đô thống sứ ti] của Trung Hoa này có liên quan đến huyết thống cùng giấc mơ của bọn Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn năm 1407—tức tờ biểu với “1120 chữ ký” của các kỳ lão xin được sát nhập, cho đặt quận huyện như thời Bắc thuộc—hay chăng? (46)
Từ ngày này đến năm 1647, vương quốc Đại Việt không có vua [wang], mà chỉ còn những sứ quân [đô thống sứ ti] thống lĩnh các lãnh thổ cát cứ của mình [commandery]; tìm cách chém giết tàn hại lẫn nhau để có đủ cống lễ nộp cho vua Minh. Các vua Lê Trung hưng từ Lê Duy Đàm (Thế Tông, 2/2/1573- 12/10/1599), Lê Duy Tân (Kính Tông, 15/10/1591-23/6/1619), đến Lê Duy Kỳ (Thần Tông, 23/6/1619-1643-1648-1662) đều chấp nhận phải hành sử như những tên man di soái bị chế ngự—giống như lời dạy bảo của Chu Hậu Tỏng với Mạc Phúc Hải khi trao cho sứ đoàn Mạc tại Bắc Kinh năm 1543. (51) Tháng 3-4/1667, Huyền Hoa (Khang Hy, 1661-1722) cũng phong Lê Huyền Tông (1662-16/11/1671) làm ANQV; mở một chương thông hiếu mới trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. (52)
Tháng 3-4/1667, Huyền Hoa (Khang Hy, 1661-1722) cũng phong Lê Huyền Tông (1662-16/11/1671) làm ANQV; mở một chương thông hiếu mới trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. (52)
Chúng tôi đã chứng minh trụ đồng không hề hiện hữu, và chỉ là một cuộc nam tiến trong sử sách quen thuộc của các nhà cai trị Trung Hoa từ thế kỷ VIII-IX, giống như tấm bản đồ biển Đông Nam Á tự in, tự phổ biến, của Trung Nam Hải từ năm 2009-2010; và đang xây cất những cứ điểm quân sự tại đây, bất chấp luật biển và luật quốc tế hiện hành. (53)
B. Chiêm Thành [Champa]:
Vấn đề nổi cộm thứ hai là Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt.
Chiêm Thành xuất hiện vào khoảng thế kỷ X, tại vùng lãnh thổ từng được biết như Lâm Ấp [Lin-yi] hay cổ Champa, rồi Hoàn vương. Theo sách cổ Trung Hoa năm 100 Tây lịch, thổ dân quận Cửu Chân, thuộc Giao Châu (tức cổ Việt) nổi loạn, bắt giết trưởng lại, đánh phá quận ấp. Năm 137, di soái Khu Liên tự xưng vua. Cư ngụ tại vùng duyên hải đông nam lục địa Á Châu, dân cổ Chàm và cổ Việt bị đẩy vào những cuộc chiến lớn nhỏ bất tận để phân chia ruộng đồng, sông núi, cùng những duyên hải theo luật kẻ mạnh
Từ giữa đời Đông Hán (25-220), Lâm Ấp và Giao Châu mới bắt đầu có những mảnh vụn sử thành văn nhờ một sắc tộc có nền văn hóa khá cao ở phía bắc ghi lại. Theo những tư liệu thành văn còn sót lại, nước cổ Việt bị Trung Hoa cưỡng chiếm trong thời khoảng từ thế kỷ thứ III TTL tới năm 112-111 TTL—hoặc có thể sớm hơn khoảng 70, 80 năm, một cách gián tiếp qua đế quốc Nan Yue [Nam Việt], chư hầu của Tây Hán từ khoảng năm 196 TTL. Không rõ cổ Chàm bị xâm chiếm từ thời điểm nào, nhưng năm 100 bắt đầu “làm loạn,” và trở thành nước Lâm Ấp từ khoảng năm 137 tới 192. Dân cổ Chàm và cổ Việt cũng có ngôn ngữ, văn hóa, và thể chất khác biệt nhau. Người Chàm da đen, tóc quăn, mắt to; trong khi người Việt da nâu, tóc đen, mũi tẹt và mắt nhỏ; (thuộc loại DNA M 119; khác với DNA người Hoa, loại M 117).
Tục truyền, Lâm Ấp và Giao Châu, tức cổ Việt, tranh nhau vùng đất Nhật Nam trong vòng bốn năm thế kỷ. Từ năm 248 tới 268, Lâm Ấp chiếm Nhật Nam. Đến đời Lưu Tống bị Lâm Ấp chiếm. Nhà Tuỳ mới lấy lại, đặt làm Đãng Châu, rồi đổi làm quận Tị Ảnh. Sau nhập vào Chiêm Thành. [Nay là Quảng Bình-Quảng Trị. (54)
Lưu Trang, tức Hán Minh đế (29/3/57-5/9/75) từng đưa ra câu hỏi lừng danh: “Phải chăng nhà cửa ở Nhật Nam đều trổ cửa ở phía bắc để đón mặt trời?” [Nhật Nam quận bắc hướng thị nhật da?] Dù khó xác định Lưu Trang có hàm ý gì, nhưng nếu đọc kỹ chú giải của các văn gia đời sau, khó thể nghĩ rằng Lưu Trang hay trí thức Hán không tin rằng Nhật Nam là xứ “hoang phục” nằm về phía nam tuyến mặt trời mọc và lặn. Nhan Sư Cổ (581-645)—làm việc dưới triều Lý Uyên (Đường Cao Tổ, 618-626) và Lý Thế Dân (Thái Tông, 627-647) thường chú giải ngũ kinh và Hán Thư của Ban Cố—giải thích: “Nhật Nam là nói về phía nam mặt trời; là bảo mở cửa phía bắc để hướng về mặt trời” [Nhật Nam ngôn kỳ tại nhật chi nam, sở vị khai bắc hộ di hướng nhật da] (55)
Vua quan Hán còn thận trọng thực hiện những công trình đo bóng mặt trời ở xứ “Tị Ảnh” hay “Tỉ Ảnh.” Kết quả khám phá ra là tại thành Khu Túc, lị sở huyện Tượng Lâm, dựng cây nêu 8 thước bóng của nó ở phía Nam là 8 tấc; dựng nêu ngày 5/5 âm lịch [mùa Hè] cũng thấy bóng ở phía Nam của cây nêu! (56)
Nguồn thông tin gốc của văn gia Trung Hoa, được sao đi chép lại, đều từ những tuyển tập truyền kỳ quái lạ như Giao Châu Ký [Jiaozhouji], Quảng Châu Ký, Lâm Ấp Ký [Linyiji], Phù Nam Ký [Funanji], Giao Châu Ngoại vực ký [Jiao Zhou Wai Yu ji/ Memoirs on the Outerlimit of Jiaozhou] (205-420?)], đã tuyệt bản do những tác giả vô danh, với những chi tiết quái lạ như đá nứt ra người, vú dài ba thước, v.. v… ghi lại trong Thủy Kinh Chú [Shuijingzhu] của Lịch (Lệ) Đạo Nguyên.
Theo công trình đo bóng mặt trời từ cổ thời—tức khi dân Trung Hoa còn ăn lông, ở lỗ, uống máu tươi, ăn cả thịt lẫn da và lông, hay vẩy xương cá, chỉ biết đến mẹ chẳng hề đoái hoài ai là cha; theo sự ghi nhận của Ban Cố (32-92), trong [Tiền] Hán Thư—dân Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Lâm Ấp, Phù Nam, v.. v.. là loại mọi rợ, man di xa, thật xa ngoài chin châu trung nguyên, gọi chung là “hóa ngoại,” không thể dung phép cai trị của dân tộc đội mũ, mặc áo, ngồi ghế, đi kiệu, v.. v…
Từ thế kỷ X, cổ Việt cũng giành được tự chủ/độc lập dưới tên Đại Việt. Lúc này, Lâm Ấp đã đổi tên thành Hoàn Vương, từng cống lễ Trung Hoa những châu báu đánh cướp được ở Tây Dương. Nhưng cuộc chiến tranh sinh tồn Việt-Chàm vẫn tiếp tục. Năm 982, Lê Hoàn đành chiếm kinh thành Hoàn Vương, gây tổn thất nặng, khiến phải dời đô vào Vijaya hay Đồ Bàn, đổi tên làm Chiêm Thành. Triều Lý, Đại Việt hai lần giao tranh với Chiêm Thành vào năm năm 1044 và 1069. Hạ bán thế kỷ XV là giai đoạn xấu nhất trong liên hệ Việt-Chàm. Nhà Trần suy yếu dần, trong khi Chiêm Thành ngày thêm hùng cường, hiếu chiến; trở thành mối quan tâm từ Kambojia.tới Xiêm La Hộc, Ava-Mian Dian. Với Đại Việt, vua Chiêm đánh cướp các châu, phủ duyên hải từ Thuận Hóa ra Nghệ An, Thanh Hoa; đòi lại đất đai Chế Mân đã cắt cho Trúc Lâm Đại sư (1299-1308), tức Trần Nhân Tông (8/11/1278-16/4/1293, TTH, 9-10/1299) làm sính lễ cưới Huyển Trân công chúa năm 1305-1306. Từ năm 1353 tới 1390, Chiêm Thành đã đánh cướp Đại Việt hơn mười lần, kể cả bốn lần tàn phá Thăng Long năm 1371, 1377, 1378 và 1383. (57)
Nghệ Tông cùng các vua cuối đời Trần nhiều lần phải bỏ kinh thành chạy loạn, chôn dấu bớt kho tàng để tránh bị khánh kiệt, nhưng có năm vẫn bị mất sạch vì đất lở, không tìm được dấu tích chỗ chôn của (hoặc bị trộm cắp). Tướng lĩnh thì gian tham giảo quyệt, [unscrupulous and immoral]. Đỗ Tử Bình, chẳng hạn, đã gián tiếp gây nên cái chết của Trần Duệ Tông năm 1377 tại Đồ Bàn; Bình dấu mười [10] mâm vàng Chế Bồng Nga cống hiến, và giá họa vua Chiêm vô lễ—khiến “120,000” quân Trần thảm bại, Duệ Tông tử trận ngoài thành Đồ Bàn, hầu hết tướng lĩnh bị giết, hay bị bắt, con trai Nghệ Tông là Trần Húc đầu hàng, được Bồng Nga đưa về chiếm giữ từ Diễn Châu-Nghệ An trở vào nam, rồi tiến ra đánh Hà Nội ngay trong năm 1377-1378.
Ngày 8/2/1390, một quan nhỏ [A Lậu Kê] bất mãn, mật báo cho Trần Khát Chân biết chiếc thuyền sơn màu lục của Chế Bồng Nga (A Da A Zhe, 1370- 8/2/1390); nên vua Chiêm trúng đạn thần sang [hỏa pháo] bắn đá, chết. Trần Nguyên Diệu, em Đế Hiện, đã hàng Nga; cắt thủ cấp lập công, nhưng bị Phạm Nhữ Lạc và Dương Ngang giết, đoạt công. Tể tướng Chiêm là La Ngai thiêu xác Nga, rồi dẫn quân theo đường núi về nước. Bị săn đuổi, rải vàng bạc chạy thoát thân. Khi thủ cấp Chế Bồng Nga tới Bài Than, Nghệ Tông đang ngủ. Ví mình với Nga như Lưu Bang và Hạng Vũ. Tội nghiệp cho Chế Bồng Nga. (58)
Từ năm 1401, nhân dịp nhà Minh bị cuốn hút vào cuộc tranh chấp quyền lực giữa các phiên vương, cha con Quí Ly tìm cơ hội báo thù Chiêm Thành. Tháng 5- 6/1401, Hán Thương sai Đỗ Mẫn/Mãn, cùng Trần [Hồ] Văn, Trần Tùng, Đỗ Nguyên Thạc mang “150,000” quân thủy bộ đánh Chiêm Thành. Không thành công. Trần Tùng đi đường bộ, sát chân núi, cách biệt thủy quân của Đỗ Mẫn/Mãn. Thiếu lương thực, phải rút quân về. (59)
Tháng 8/1402, Hán Thương đích thân đi đánh Chiêm. Ba Đích Lại xin cắt Chiêm Động và Cổ Lũy. Hán Thương chia làm bốn [4] phủ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Cử Nguyễn Cảnh Chân, An phủ sứ lộ Thuận Hóa, làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cho Chế Ma Nô Đà Nan—con Chế Bồng Nga, đã trốn sang Thuận Hóa, và được Quí Ly che chở—giữ châu Tư Nghĩa. Tháng 2-3/1403, Quí Ly di dân vào Thăng Hoa. Mua trâu phát cho di dân. Năm sau, đưa vợ con vào đoàn tụ, nhưng chết đắm nhiều.(60)
Hán Thương còn sai Phạm Nguyên Khôi [Côi] đi đánh Chiêm. Ngày 9/8/1403, sứ Chiêm dâng sớ khắc chữ trên lá bằng vàng; xin nhà Minh can thiệp. Ngày 25/8, Chu Lệ cho lệnh Hán Thương ngưng xâm lấn Chàm; và sai tướng mang 9 chiến thuyền ngăn chặn Khôi [Côi]. Ngày 25/2/1404, Chu Lệ thông báo cho Chiêm về việc Hán Thương nhận lỗi. Nhưng tháng 9/1404, sứ Chiêm lại tới Nam Kinh. xin can thiệp. Ngày 7/9, Chu Lệ sai viết chiếu trách Quí Ly không giữ đạo Trời, sớm muộn sẽ gánh chịu tai ương. (61)
Những trận chiến biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành khiến các vua nhà Minh quan tâm, từng đứng ra giải quyết các tranh chấp. Nhưng sự can thiệp của nhà Minh thực ra chỉ khiến cả Chiêm và Đại Việt hâm nồng thù hận. Các triều đình Minh rất xảo quyệt trong thủ thuật chia để trị, hay dĩ di trị di.
III. Những Kẻ Nội Thù:
Dù Hán Thương đã được phong vương từ đầu năm 1404, kẻ thù của chế độ không ít. Tử huyệt của Đại Ngu là hành động giết vua, cướp ngôi. Có người cho rằng Hán Thương rất năng động, và Quí Ly, đã lớn tuổi, chiều theo ý con. Ngoài ra còn những tội ác man rợ với tôn thất và trung thần nhà Trần. Trong số chống đối có những cá nhân chẳng thiết tha gì hơn quyền lợi của cá nhân, gia đình và phe nhóm.
A. “Trần Thiên Bình”:
Ngày 2/10/1404, Trần Thiên [Thiêm] Bình xuất hiện ở Kim Lăng như cháu nội của một vua Trần, do Dao Xian-dai, thổ hào phụ trách bình định và khai hóa Lão Qua hay Nam Chưởng [Military and Civilian Civilizazion of Laos], gửi đến. Mục đích nhằm tố cáo cha con Quí Ly giết vua, không chỉ một mà ba [3] vua, truy sát tôn thất Trần cùng các quan trung nghĩa, ngược đãi và đàn áp, bóc lột dân chúng. (53)
Thực hay giả mạo, Thiêm Bình giúp tô lên tham vọng xâm lăng An Nam thứ chính nghĩa mà vua quan Trung Hoa tự may cắt hia mão vàng mã, tô son trát phấn—tức thay trời hành đạo, cứu dân độ thế. Theo Thiên Bình, Trần Nhật Khuê, vua Trần đầu tiên được Chu Đức Dụ phong làm An Nam Quốc Vương, cai trị hai năm thì mất. (Thực ra, Dụ Tông cai trị từ 1341 tới 1369; chết trước ngày sứ Minh qua tấn phong). Em là Kinh [Jing] nối ngôi, cũng chỉ được hai năm. (Duệ Tông cai trị hơn bốn [4] năm, từ 1372 tới 1377) Con là Xian [Hiện] nối ngôi. Quí Ly lộng quyền, nên Hiện muốn kềm chế thì bị Ly sát hại. Yong [Ngung] lên ngôi. Quyền hành vẫn nằm gọn trong tay cha con Quí Ly. Ít lâu sau, Ly giết Ngung, đưa con là An kế vị. Rồi ngày 23/4/1400, Quí Ly cướp ngôi, đổi sang họ Hồ, tức Hồ Nhất Nguyên. Tự nhận là dòng giõi Đế Thuấn thần thoại. Rồi nhường ngôi cho Hồ Di, tức Hán Thương, con thứ Ly. (54)
Theo “Trần Thiên Bình,” chỉ cần vài nghìn thiên binh, thiên tướng đã đủ trừng trị Quí Ly. Nhưng Thiên Bình, thực ra chỉ là đồ giả. Tên thực Nguyễn Khang, hay Trần Khang, gia bộc của Trần Nguyên Huy, đã chạy sang Chiêm Thành và rồi Lão Qua từ sau năm 1390 trong đợt thanh trừng phe tôn thất Trần liên hệ với Chiêm Thành.(55)
Chu Lệ có vẻ muốn sử dụng Thiên Bình, nên cho “cháu nội Trần Nhật Khôn [Thuận Tông]” vào yết kiến. Sau đó, đưa ra một biện pháp tương đối ôn hòa: Nếu Hán Thương chấp nhận đón Thiên Bình về nước, sẽ được phong tước Thượng Công, và hưởng thực ấp một phủ lớn, cha truyền con nối. Hành nhân Lý Kỳ được trao trách nhiệm xuống An Tôn thuyết phục Hán Thương.
B. Bùi Bá Kỳ [Pei Bo-qi]:
Mùa Thu 1404, tại Kim Lăng còn xuất hiện một kẻ thù không đội trời chung khác của cha con Quí Ly. Đó là Bùi Bá Kỳ, người Phù Nội, Thanh Miện, Hồng Châu [Hải Dương]. Bá Kỳ từng làm quan tới ngũ phẩm. Chức vụ cuối cùng là phó tướng của Trần Khát Chân—người đã giết được Chế Bồng Nga trong trận hải chiến mờ mịt khói thần sang và hỏa tiễn ngày 8/2/1390, chấm dứt cơn ác mộng 20 năm của vua quan Trần
Tháng 5/1399, sau khi đã sát hại Thuận Tông, Quí Ly ra tay thanh trừng Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Thượng tướng Chân, một số tôn thất và võ quan tham dự cuộc mưu sát Quí Ly trong ngày hội thề 9/5/1399 ở Đốn Sơn (xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). 370 tôn thất Trần mất mạng. Phụ nữ bị bán làm nô tì, trẻ thơ bị chôn sống hay dìm nước, không ai thoát khỏi bàn tay cuồng bạo và trái tim “ma quỉ” [evil-hearted]. Chỉ riêng phe Bá Kỳ hơn 110 người thiệt mạng, kể cả hai anh em Kỳ. (56)
Sau bốn năm dài trốn tránh khắp núi rừng hoang vắng, tháng 5-6/1404, Bá Kỳ được một thương gia giúp thoát lên phủ biên giới Tư Minh [Si Ming], Quảng Tây. Ngày 10/9/1404, Bá Kỳ dâng biểu, tố cáo tội ác cướp ngôi của cha con Quí Ly, van xin hưng Trần, diệt ác, theo đúng thiên mệnh “cứu dân, phạt kẻ có tội.” Quí Ly, theo Bá Kỳ, là con Lê Quốc Kỳ, hay Lê Quốc Mậu [Mao]. Sau khi giết vua, cướp ngôi, đổi tên làm Hồ Lý Nguyên [Hu Li-yuan]; con là Thương [Cang] thành Hu Di, niên hiệu Khai Đại. (57)
Không thể biết chắc có bao phần trăm sự thực, vì Tư Minh là lãnh địa của Hoàng Quảng Thành, tỉnh mơ đều thấy đất trụ đồng Mã Viện. Giống như Tập Cận Bình [Xi Jin-ping] và tập đoàn tội phạm chiến tranh Trung Nam Hải hiện nay cùng giấc mơ “đường tơ lụa hang hải,” hay nói theo một tướng Mỹ, đang xây dựng một vạn lý trường thành cát ở biển Đông Nam Á, đặt thế giới trước hiểm họa một cuộc thế chiến có thể sẽ mang đến sự tận diệt của nhân loại. (58)
Dù rất hài lòng với lời tố cáo của Bá Kỳ, nhưng thoạt tiên, Chu Lệ chỉ muốn dùng “cháu nội vua Trần.” Bá Kỳ không ủng hộ Thiêm Bình, nên bị an trí khá xa Kim Lăng.
IV. Ba, Bảy Cũng Liều:
Ngày 25/1/1405, sứ của Quí Ly là Phạm Canh tới Nam Kinh. Chu Lệ dàn xếp cho bọn Phạm Canh gặp cả Thiên Bình lẫn Bùi Bá Kỳ. Phó sứ Lưu Quang Đĩnh có vẻ nhận biết Thiêm Bình và quì lạy người tự nhận là cháu nội Thuận Tông. Nhân dịp này, Bùi Bá Kỳ cũng trách móc cha con Quí Ly gian ác, tàn bạo.
Cuộc đối chất trên khiến Chu Lệ hết sức ghét bỏ cha con Quí Ly, tuyên bố: “Từ quan tới dân đều dối trá. Đây là xứ toàn một bọn tội phạm. Không thể tha thứ được.” [Even the Ministers and people are deceitful. That is a country full of criminals. How can this be tolerated!”] (59)
Sau đó, Chu Lệ sai Lý Kỳ xuống An Tôn, để điều tra thêm về những lời tố cáo của Thiêm Bình và Bá Kỳ. Phó sứ Đĩnh được cử dẫn Kỳ về nước, trong khi Phạm Canh bị giữ lại kinh thành Minh.
A. Một Cuộc Đánh Lừa Ngoại Giao:
Chuyến đi của Lý Kỳ được sử Việt ghi vào năm 1404; trong khi Minh thực lục chép Lý Kỳ qua An Nam từ 16/2/1405 tới 6/3/1405. (60)
Trong khi Lý Kỳ đang trên đường xuống An Tôn (Tây Đô), Tổng binh Vân Nam Mộc Thạnh [Mu Sheng] chuyển lời khiếu nại của thổ hào châu Ning Yuan [Ninh Viễn], Vân Nam, về việc quân Quí Ly xâm lấn bảy [7] vị trí phòng thủ của Ninh Viễn. Ninh Viễn thực ra chỉ là một phần của châu An Tây, phủ Tuyên Hóa. Sau khi nhà Trần mất, thổ tù Đèo Cát Hãn mang sáu [6] trong mười [10] châu của An Tây xin được sát nhập vào Vân Nam. Vì cát địa sứ Hoàng Hối Khanh đang thảo luận việc trả đất Cổ Lũy hay Lộc Châu của Lạng Sơn cho phủ Tư Minh, ngày 6/3/1405, Chu Lệ sai bộ Lễ viết thư cho Hán Thương, yêu cầu báo cáo về việc chiếm đất Ninh Viễn. Đáng lưu ý là đòi hỏi này nằm trong văn thư nhắc đến chuyến đi của Lý Kỳ vào tháng trước để tìm hiểu về những lời tố cáo cha con Quí Ly giết vua, cướp ngôi. (61)
Cho rằng Hán Thương ngoan ngoãn, trung hiếu với ân đức [wei de, moral powers] của mình—như đã nhận lỗi việc xâm lấn Chiêm Thành, và trả lại phủ Tư Minh lãnh thổ đã xâm lấn, lên tới 59 xã thôn đất Lộc Bình vào tháng 3-4/1405— ngày 5/8/1405, Chu Lệ sai hành nhân Niếp Thông đi trao cho Hán Thương tờ sắc của Chu Lệ, hứa sẽ phong tước Thượng Công, và cắt cho một phủ lớn, cha truyền con nối, nếu nhận đón Thiên Bình về làm vua. Chu Lệ cũng chỉ định Nguyễn Cảnh Chân, cựu An Phủ sứ Thuận Hóa, người đã theo Lý Kỳ lên Kim Lăng ngày 22/7/1405, theo Niếp Thông về nước. Hán Thương bèn cử Cảnh Chân theo Niếp Thông trở lại Kim Lăng, tái xác nhận lòng thành. Niếp Thông cũng báo cáo Hán Thương rất thành khẩn. (42) 42. Ming shi lu, Taizong, (Wade, NUS database), juan 43:4ab [22/7/1405: Chân theo Lý Kỳ tới Kim Lăng, mời Thiêm Bình về nước]; juan 44:3a; ĐVSK, BKTT, VIII :46b, Lâu (2009), 2:261; Giu (1967), 2:.
Nhưng từ tháng 9-10/1405, Hán Thương sai Nguyên Trừng và Đông lộ thái thú Hoàng Hối Khanh phụ trách xây một đồn lớn tại đèo Đa Bang, tức núi Ba Vì, khoảng 50 cây số tây Hà Nội (thuộc địa phận Hà Tây, hiện nay). Thành đắp bằng đất, án ngữ hướng tiến quân từ ngã ba Bạch Hạc xuống phía nam. Từ chân thành tới bờ sông là một bãi cát được cải biến thành công sự phòng thủ, gồm các hào sâu sát chân tường, gài chông tre. Tử bờ hào ra bờ sông có những hố sâu khiến ngựa chiến khó xoay xở, dễ bị sa xuống, cũng trí chông gai. Trên tường thành quân Quí Ly đông như kiến, được trang bị các loại vũ khí phòng vệ như đá tảng, thân cây cùng giáo, nỏ và súng tay. Lực lượng chủ động còn có voi trận. Ngoài ra, chiến thuyền tập trung khá đông đảo, cùng hệ thống cừ, cọc đóng dọc theo bờ sông
Tả tướng quốc Nguyên Trừng cho lệnh vườn không nhà trống ở phía bắc sông Hồng, và chỉ lập tuyến phòng thủ ở ải Lãnh Kinh (Đáp Cầu). (62)
Phải chăng những quyết định này đều nằm trong kế hoạch chuẩn bị đánh lừa nhà Minh? Hoàng Hối Khanh và Nguyễn Cảnh Chân có vẻ đóng vai trò quan trọng trong màn lừa đảo ngoại giao sắp tới.
Ngày 8/1/1406, Chu Lệ cử Hàn Quan [Han Guan] làm Chinh Nam tướng quân [General for Subduing the South], và Đô đốc Hoàng Trung [Huang Zhong], Chinh Nam phó tướng [Assistant General for Subduing the South], cùng Lữ Nghị [Lu Yi] đem 5,000 quân Quảng Tây hộ tống “Trần Thiên Bình” về làm vua. Tung tin có 100,000 quân để thanh oai. Hàn Quan sẽ đóng ở biên giới điều động; Phó đô ti Quảng Tây Hoàng Trung cùng Lữ Nghị đích thân hộ tống Thiên Bình tới kinh thành. (43) 43. Ming Shi-lu, Taizong (Wade, NUS data base), juan 48:2a. 49:3a; MSL, vol 10, p 741.
Ngày 8/1 này, Chu Lệ cũng cho lệnh Thiên Bình về nước—nhưng không rõ là Đông đô (Hà Nội) hay Tây Đô (Thanh Hóa). Trong sắc dụ cho Thiên Bình, Chu Lệ ra sức khích lệ, và tuyên bố cho Hán Thương làm Tri phủ Thuận Hóa, hưởng thực ấp toàn phủ, cha truyền con nối. Tặng cho Thiên Bình bốn [4] bộ triều phục mới, và 10,000 quan tiền giấy. Hứa sẽ cho Bố Chính Quảng Tây Vương Lâm theo Thiên Bình về nước giúp đỡ. Ngày 26/1/1406, Thiên Bình dâng biểu tạ ơn, hứa sẽ giữ lòng trung hiếu đời đời.
Giải pháp của Chu Lệ có lẽ là giải pháp tốt đẹp nhất cho cha con Quí Ly. Sở dĩ Hán Thương được phong Vương vì lời man khai của Hán Thương, cùng các thân hào, kỳ lão là dòng giõi phái nam của họ Trần đã tuyệt; và, như một cháu ngoại, Hán Thương có quyền kế vị vì đa số dân chúng yêu cầu. Nhưng sự xuất hiện của Bá Kỳ và Thiên Bình làm thay đổi mọi việc, biến cha con Hán Thương thành những tội nhân lịch sử—nghi phạm giết vua cướp ngôi, truy sát tôn thất, ngược đãi dân lành. Chu Lệ muốn áp lực tối đa cha con Hán Thương, để đạt những mong muốn thay vì sử dụng vũ lực.
Điều cha con Quí Ly có vẻ không nghĩ đến là Chu Lệ từng giết cháu cướp ngôi, cần dùng chiến công đó đây để củng cố quyền lực. Hành động phục kích, giết Thiên Bình, quá đủ cho Chu Lệ một lý do ra tay. (44) 44. ĐVSK, BKTT, VIII:50a, Lâu (2009), 2:265-66; Giu (1967), 3:222; ĐVSKTB, The (1997), tr 520.
B. Cuộc Phục Kích Ở Cần Trạm:
Theo sử Việt, ngày 26/4/1406, Hàn Quan đóng ở địa đầu biên giới, Hoàng Trung và Lữ Nghị xâm phạm cửa ải Lãnh Kinh [Linh Kênh]. Quân Quí Ly thua to. Bốn hay hai tướng, kể cả Phạm Nguyên Khôi [Côi], Chu Bỉnh Trung, tử trận. Nguyên Trừng phải xuống thuyền bỏ chạy. May nhờ Hồ Vấn [Văn] mang quân Thánh Dực từ Vũ Cao tới tăng viện, đánh úp, khiến Hoàng Trung phải rút về hướng Chi Lăng (Lạng Sơn), cách ải Pha Lũy tại biên giới khoảng ba [3] ngày đi bộ. Nhưng hai cánh quân thánh dực của Hồ Xạ và Trần Dĩnh đã phục sẵn ở Cần Trạm [tức Kép, Bắc Giang], giữa Lãnh Kinh và ải Chi Lăng. Bọn Hoàng Trung phải điều đình dâng nộp Thiêm Bình để được an toàn về nước. (63)
Giữa Minh thực lục và sử Việt có khoảng cách hơn hai mươi ngày, khi xảy ra cuộc phục kích. Sử Minh khẳng định Thiên Bình chết ngay trong ngày 4/4, gần Chi Lăng. Nhưng sử Việt ghi sau khi bị vây hãm, Hoàng Trung đề nghị giao nộp Thiên Bình để xin thoát thân. Nội dung của hai thông tin trái ngược nhau như ngày và đêm này dường chẳng có giá trị gì hơn xác nhận trận phục kích đạo quân Hoàng Trung thực sự xảy ra
Theo Trung, ngày 4/4, Hoàng Hối Khanh tiếp đón Trung ở Khâu Ôn, mang cả rượu thịt đãi quân Minh. Trung hỏi tại sao Hu Di [Hán Thương] không đến, Khanh trả lời Thương bị bệnh đột ngột, nhưng sẽ nghênh đón ở Gia Lâm. Trung bèn phái người đi dò thám chung quanh, thấy chỉ có dân chúng tụ tập chào mừng từ Ải Lựu tới Kê Lĩnh [Ji ling]. Tạm yên tâm, Trung cho quân tiến về hướng Phú Lương, và yêu cầu Hối Khanh về trước để báo tin cho Hán Thương biết.
Khi quân Minh tới một đoạn dốc núi, ở Cần Trạm [Kép] giữa Chi Lăng và Pha Lũy, “100,000 quân phục kích” đột ngột xuất hiện. Trung muốn thúc quân tiến về phía trước, nhưng cầu bị phá. Thiên Bình bị giết. Án sát Xue Yan nào đó mới thuyên chuyển đến Quảng Tây, bị chết thảm. thay vì Bố chính sứ Vương Lâm như dự định. (65)
Cấp chỉ huy của Quí Ly từ xa nói vọng lại rằng Thiêm Bình chỉ là môt dân thường giả mạo tôn thất nhà Trần, đã chết. Sẽ sai sứ sang giải thích. Sau này Hán Thương mới điều tra biết được Thiên Bình tên Nguyễn Khang (Trần Khang theo sử Nguyễn), gia nô của Trần Nguyên Huy, đã trốn khỏi Đại Việt vào tháng 2- 3/1390 khi Quí Ly thanh trừng Tư đồ Trần Nguyên Đĩnh vì tội tư thông Chiêm Thành. Khang đã lưu lạc tới Lão Qua [Nam Chưởng], trước khi được vua Lão Qua đưa lên Kim Lăng (Nam Ninh, Quảng Tây). Mặc dù Khang không chịu thú tội, Hán Thương xẻo từng miếng thịt tới chết [lăng trì]. Sau đó Hán Thương gửi An Phủ Sứ Tam Giang Trần Cung Túc, và thông phán Ái Châu là Mai Tú Phu đi sứ Kim Lăng để giải thích. Chu Lệ giữ sứ lại, không cho về. (66)
Tin Thiên Bình bị phục kích chết ở Cần Trạm đến với Chu Lệ thật bất ngờ. Mặc dù cha con Quí Ly đã cố tránh đụng chạm đến quan tướng hộ tống Minh, nhưng đó chỉ là việc nhỏ. Thật rõ ràng, cha con Quí Ly đã chống đối Chu Lệ bằng một thủ đoạn thiếu ngay thẳng—hay lừa đảo như Chu Lệ cao giọng chỉ trích. Đây là một thách thức trực tiếp thói ngạo mạn nước lớn của kẻ tự ví mình uy đức [wei de] to lớn như trời đất, muốn gì được nấy. Phản ứng của Chu Lệ rất dễ hiểu là vô cùng cứng rắn. Ngày 29/4/1406, sau khi nghiên cứu tờ trình của bọn Hoàng Trung, Chu Lệ tuyên bố với Thành quốc công Chu Năng [Zhu Neng] là tội ác của cha con Quí Ly tày trời; lòng khoan hồng và thành khẩn của Chu Lệ đã bị lừa gạt. Chu Năng và các quan đồng thanh xin trừng phạt. Chu Lệ bèn cho lệnh Chu Năng lập một đạo quân chinh phạt bọn phỉ tặc họ Lê [“the Li bandits”] (67)
IV: Diệt Ác, Hưng Trần:
Chẳng những cho lệnh bắt giữ sứ thần do Hán Thương gửi qua giải thích về cái chết của Trần Thiêm Bình, Chu Lệ quyết “trừng phạt” hay xâm lăng An Nam. Cuộc xâm lăng phát động qua ba [3] phương diện:
– Phương diện quân sự, sai Chu Năng, Trương Phụ và Mộc Thạnh tụ họp, huấn luyện “800,000 [80 vạn]” quân—nhưng có thể chỉ khoảng 215,000—và trên 20 tướng sang xâm lược, dưới chiêu bài “hưng Trần, diệt ác.” tiến vào Đại Việt qua hai [2] ngả Lạng Sơn và Tuyên Quang. (68)
– Trên phương diện chính trị: Từ mùa Xuân 1407, bày kế cho bọn thổ quan Mạc Thúy [Mo Sui]—dòng giõi Mạc Đĩnh Chi, [tổ 4 đời Mạc Đăng Dung]—làm tờ biểu đại diện cái gọi là “1120 kỳ lão,” kể cả Yin Pei [?], bày tỏ sự trung thành và xin nội thuộc đế quốc Minh như cũ vì dòng giõi họ Trần đã tuyệt, do Trương Phụ và Hoàng Phúc vừa đạo diễn, vừa sản xuất. (55) 
Trong hiệp đầu của cuộc xâm lược, quân Minh chiến thắng quá rõ ràng. Đại Đồn chiến lược Đa Bang thất thủ sau vỏn vẹn một đêm chống giữ. Hai ngày sau, Hà Nội bỏ ngỏ. Bốn ngày sau nữa, khi Lý Bân và Trần Húc mang quân vào Thanh Hóa, quan lính Đại Ngu đốt cháy kinh thành An Tôn (khoảng 12 ngày đường trạm tới Hà Nội) và kho tàng rã ngũ, trốn chạy bằng đường sông trong khi Quí Ly và Hán Thương mang binh thuyền ra Hoàng Giang tăng viện. Cuộc kháng chiến của Đại Ngu chỉ còn lại ba trận đánh sông Lỗ (8-21/2/1407), Hàm Tử (4/5/1407), rồi Muộn Hải (6/5/1407) tại đồng bằng sông Hồng. Trận thứ tư, trên sông Lỗi Giang (1/6/1407), là một cuộc rã ngũ khác. Cha con, ông cháu Quí Ly, Hán Thương và Nguyên Trừng bị bắt sống trong hai ngày 16 và 17/6/1407 tại vụng biển Kỳ La (Hà Tĩnh ngày nay)—trong tay những đơn vị đánh thuê Việt, của những người đã theo Minh từ lúc quân Trương Phụ và Mộc Thạnh chưa vượt biên; hay khi quân Minh đang tiến mạnh như chẻ tre. Hai cá nhân được Trương Phụ và Minh thực lục hết lời khen ngợi là Mạc Thúy cùng nhóm thân thuộc, thủ hạ gốc Nam Sách, lên tới 10,000 người; và tiểu đoàn trưởng Trẩn Phong, được trao trách nhiệm bình định vùng duyên hải, hay Hải Đông. Ngoài ra, còn những cá nhân như Nguyễn Đại, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân [tức Mạc Huân], cùng thổ tù Quí Hóa, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thuận Hóa, v.. v… Cuộc kháng chiến được chuẩn bị cả chục năm bị tan vỡ trong vòng sáu, bảy tháng ngắn ngủi. Ngày 5/7/1708, Chu Lệ đã cảm khái khen Trương Phụ lập được chiến công vĩ đại mà Mã Viện cũng không hơn, rồi hứa “Trẫm sẽ ban thưởng nhiều hơn võ công bình định Vân Nam [thời Chu Đức Dụ].” (69)
– Phương diện tâm lý chiến: truyền hịch khắp nơi kể rõ 20 tội lỗi tày trời của cha con Quí Ly—đặc biệt là giết ba vua Trần, tàn sát tôn thất, cướp ngôi. Và, hứa tìm con cháu nhà Trần đặt lên làm vua. (70)
Đó là các điều :
  •  Hai lần giết vua và cướp đoạt vương quốc 
  •  Giết tôn thất nhà Trần 
  •  Không tuân theo lịch triều Minh, đổi niên hiệu
  •   Người chết đầy hào rãnh, người siêu tán khắp nơi.
  •  Lừa dối triều đình, tự nhận là con một công chúa họ Trần
  •  Bày mưu giết cháu nội một vua Trần
  •  Phục kích giết cháu nội vua Trần
  •  Lấn chiếm biên giới Chiếm cướp dân và lãnh thổ biên giới
  •  Hành hạ dân
  •  Chiếm đất của TH
  •  chiếm đất Ning Yuan [bảy [7] công sự phòng thủ [stockades] bằng thân cây sát mặt đất]
  •  hành hạ thổ dân 15. đánh chiếm 4 phủ của Champa, kể cả Ban Da Lang, Bai và Hei (hoặc Bai Hei) Hà hiếp vua Zhe Ba Di Lai Chiêm Thành Bắt 100 voi, cướp đất
  •  Mặc dù Champa là chư hầu của TH, the Li bandits bắt họ làm chư hầu. Hai lần đánh Chiêm vì dám kính hiếu nhà Minh Đánh cướp quà vua Minh tặng vua Chàm ở cửa biển Thị Nại [Shu Pinai].
  •  “Không chứng tỏ lòng kính trọng TH khi hiếu cống.
A. “Chinh di tướng quân” Chu Năng [Zhu Neng]
Từ 29/4 tới 11/5/1406, Chu Lệ cùng Chu Năng nhiều lần thảo luận kế hoạch “trưng phạt An Nam.” Mộc Thạnh, Tổng binh Vân Nam, được chọn chỉ huy cánh quân hướng tây mà nòng cốt là lực lượng cơ hữu của Vân Nam, được tăng cường kỵ mã và bộ binh Thành Đô, Vân Nam, Quí Châu và Tứ Xuyên.
Phó Đô ti Quảng Tây là Hàn Quan nhận lệnh dẫn 30,000 quân tới Bằng Tường trước ngày 22/11/1406. Ngày 20/5, bộ Lễ cho lệnh đúc ấn Chinh Di Tường Quân và Chinh Di Phó Tướng. cho Chu Năng và Mộc Thạnh. Bọn Chu Năng, Trương Phụ và Mộc Thạnh sẽ mang “800,000” quân Lưỡng Quảng và Vân Nam xuống An Nam“đánh kẻ có tội để tỏ rõ oai trời.” (71)
Ngày 1/6/1406, gọi Hoàng Trung và Lữ Nghị về kinh báo cáo tình hình, rồi ân xá cả hai, cho tham gia cánh quân Chu Năng để lập công. Bùi Bá Kỳ được phong chức tham chính Giao Chỉ, dưới trướng Chu Năng. (Ngày 4/6, Bùi Bá Kỳ cũng nhận được mũ và đai lưng Tham Chính. (61) 61. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan. 54:1a, 2a, 4a;
Ngày 15/7/1406, Chu Lệ làm lễ thái miếu về việc chinh phạt bọn Lê phản loạn. Ba ngày sau, 18/7, bổ nhiệm Bộ Tư lệnh chiến dịch: Thành quốc công Chu Năng giữ ấn Chinh Di Tướng quân, Bình Tây hầu Mộc Thạnh, Tả phó tướng; Tân thành hầu Trương Phụ, Hữu Phó tướng. Lưu Vân [Liu Jun], bộ Binh, làm cố vấn [Tham tán]. Ngoài ra còn hơn hai chục tướng thuộc các đơn vị đặc biệt như hai tướng pháo binh, ba tướng khinh binh, hai tướng thủy quân, bốn tướng kỵ binh và hai tướng “thủy quân lục chiến.” Ngày xuất quân sơ khởi dự trù vào 30/7/1406. (72)
Chu Năng phát hịch nêu lên 20 tội của, kẻ phản loạn Quí Ly. Tội nặng nhất của cha con Quí Ly là giết hai vua Trần, (tội 1) tàn sát tôn thất Trần, (tội 2, 3) rồi bày mưu hãm hại và giết “cháu nội một quốc vương Trần;” (tội 7, 8) trong khi đầy đọa, bóc lột dân chúng như kẻ thù. (tội 4) “Bọn phỉ tặc họ Lê” còn quay lưng lại với tổ tiên, thay tên, đổi họ, tự xưng là Thánh Nguyên hay Nguyên Thánh, đổi tên nước là “Đại Ngu,” tự đánh bóng là dòng giõi vua thánh. (tội 3, 5) Đối với lân bang như Chiêm Thành, không ngừng xâm chiếm; chẳng thèm đếm xỉa đến việc Chiêm Thành cũng là chư hầu của thiên tử Minh, được sắc phong (năm 1370), chặn cướp quà của thiên tử gửi cho vua Chiêm ở cửa Thị Nại. (tội 15, 17) Chưa hết. Bọn cướp họ Lê xâm lấn đất đai ở Tư Minh, Vĩnh Bình. (tội 9, 10), khinh thường thiên tử, gửi những tội phạm đi sứ, lừa gạt triều đình, muốn làm đảo lộn trật tự. (tội 20) (63) 63. Mingshilu, Taizong, (Wade, NUS database], juan 60:1a- 4a, 6a-7a,; MSL (Zhong Yang), vol 11, pp 866/71.
Chu Lệ cũng ra tuyên cáo sẽ lập dòng giõi họ Trần làm vua. (73)
B. Chinh Di Phó Tướng quân Mộc Thạnh & Trương Phụ:
1. Trương Phụ, 1406-1408:
 Tới Long Châu, phủ Thái Bình, Quảng Tây, nhưng quân chưa vượt biên, ngày 12/11/1406, Thái tử Thái phó Thành quốc công Chu Năng chết.
Theo đúng kế hoạch, chiến dịch xâm lấn “Đại Ngu” vẫn bắt đầu từ ngày 19/11/1406. Ngày 19/11 này Trương Phụ, cùng Vĩnh Dương Bá Trần Húc [Chen Xu], tả tham tướng; theo đường từ Bằng Tường (Quảng Tây) mang 400,000 [40 vạn] ra khỏi ải Pha Lũy [Po-lei, sau là Trấn Nam Quan] tiến vào lãnh thổ Đại Việt. làm lễ cúng tế thần sông, thần núi An Nam, xin phù hộ.
Ngày 20/11/1406, kị binh của Chu Vinh [Zhou Rong] tới Kê Lăng [Jiling, Chi Lăng]. Hơn 30,000 quân Đại Ngu đóng trên núi đối diện ải chưa đánh đã tan—dù trang bị súng [hỏa pháo], lao, nỏ [cung tên]. Chu Vinh cắt được 60 thủ cấp, bắt sống 10 tù binh, tiến thêm 40 lý [20 km]. Ngày 20/11, Chu Vinh tới Kê Lăng. Hôm sau, 21/11, chiếm Chi Lăng. Hiện tượng bỏ của chạy lấy người này thường xảy ra tại Á Châu tự cổ chí cận đại. Cuộc rã ngũ, tháo chạy hay đầu hàng tập thể của các đơn vị quốc quân trong hai năm 1948-1949 là những thí dụ tiêu biểu. Những ai đã trải qua hay chứng kiến Xuân 1975 buồn thảm cũng khó thể quên. (74)
Ngày 24/11, Trương Phụ, cùng đại quân tới Kê Lăng. Báo cáo có dấu vết công sự phòng thủ dài theo trục lộ tới Cần Trạm. Lực lượng xung kích của Lữ Nghị vả kỵ mã của Hoàng Trung, mới được Chu Lệ ân xá, tỏa ra truy diệt các ổ phục kích, tiến tới đầu cầu Si trên bờ sông Thương (Bắc Giang). Phương Chính [Feng Sheng] và Vương Thư [Wang Shu] tiến tới Gia Lâm, bờ bắc sông Phú Lương, đối diện Đông đô. Tin tình báo từ Bắc Giang cho biết kế hoạch phòng thủ của Quí Ly tập trung vào đại đồn Đa Bang, cùng Đông đô và Tây đô. Chiến thuyền, và voi trận cũng tập trung ở khu vực này. (75)
Phía Tây Bắc, Mộc Thạnh với hữu tham tướng Lý Bân, từ Mông Tự (Vân Nam) mang 40 vạn quân tấn công ải Phú Lệnh [thượng lưu sông Lô, Tuyên Quang, gần thị xã Hà Giang], kéo xuống sông Thao. (76)
Ngày 1/12, Trương Phụ chính thức lên thay Chu Năng chỉ huy, dù vẫn giữ ấn Chinh Di Phó Tướng quân. Sự hiện diện của Bùi Bá Kỳ tại hành dinh khiến chiêu bài “hưng Trần, phạt ác” được quảng bá mạnh mẽ hơn. Phụ cho khắc thẻ gỗ đàn hịch tội của Quí Ly, thả sông trôi xuống phía Nam. Tháng 12/1406, hai cánh quân Quảng Tây và Vân Nam bắt tay ở gần sông Bạch Hạc. Rồi đóng dài theo bờ sông lớn tới sông Chú.
Ngày 5/1/1407, Chu Lệ chỉ thị Trương Phụ và Mộc Thạnh cố gắng giải quyết trước tháng 3-4/1407, vì mùa mưa sắp tới, lam sơn, chướng khí sẽ gây nhiều trở ngại. Mặc dù không có cảnh “ngửng mặt lên trời, thấy diều hâu đang bay, bỗng lả tả rơi xuống nước,” lam sơn, chướng khí cùng các bệnh thổ tả, sốt rét là đồng minh của Đại Ngu. Chu Lệ không ngừng nhắc nhở các tướng phải cho binh sĩ tự đào giếng lấy nước uống và nấu cơm để giảm thiểu bệnh tật, hay âm mưu đầu độc của cha con Quí Ly. (77)
Được giao trách nhiệm chỉ huy cuộc kháng Ngô, Tả tướng quốc Nguyên Trừng lo tuyển quân, chế tạo chiến thuyền, đúc đại bác, tăng cường việc phòng thủ Tây đô, xây chiến lũy Đa Bang ở phía nam sông Hồng—trung tâm tuyến phòng thủ phía tây Hà Nội—đóng cọc cửa sông Bạch Hạc, mở hội nghị quân sự với các An Phủ sứ. Nhưng Trừng hiểu rằng chỉ “sợ lòng dân không theo.” (78)
Chiêu bài “hưng Trần diệt ác” của Chu Lệ khiến không ít tôn thất, công chúa nhà Trần chờ cơ hội hàng Minh. Số tôn thất nhà Trần ngả theo quân Minh không nhỏ. Mối thù cha con Quí Ly cướp ngôi, tàn sát tôn thất Trần là một trong những lý do. Con cháu Trần Nguyên Đán, người chủ trương “hiếu với nhà Minh” và “yêu nuôi Chiêm Thành” đều bỏ Quí Ly, theo Minh. Một số người khác thù ghét Quí Ly hay chỉ biết quyền lợi bản thân. Bọn cháu gọi Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi bằng ông nội này gồm Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn, cùng Nguyễn Huân (người Chí Linh, Nam Sách), và khoảng 10,000 thổ binh. Họ hăng say, kiêu hãnh tiếp tay quân Minh. Mạc Thúy còn nhận lệnh, hoặc đề nghị với Trương Phụ và Hoàng Phúc, soạn một tờ biểu van xin Chu Lệ ban ơn đặt Giao Châu trở lại địa đồ Trung Hoa, chia quận huyện như hơn 500 năm trước, dể giáo hóa khỏi phong tục man di, chóng thấm nhuần văn phong, tập tục “nội địa.” Trương Phụ và Hoàng Phúc phong Thúy chức Tri phủ Phú Lương. Sau đó, mùa Hè 1408, đưa qua Kim Lăng gia phong Tham chính, ban thưởng vàng bạc, tơ lụa gấp năm [5] lần đồng sự. Mạc Địch thay Trần Đại làm thổ chưởng Đô sứ ty; Mạc Viễn làm Diêm vận sứ.
Riêng Nguyễn Huân—dưới bí danh Mạc Huân—sẽ lên tới chức Bố chính sau ngày Thúy bị Nông Văn Lịch giết bằng tên độc tại Lạng Sơn đầu năm 1413. Ngoài ra, còn những nhân tài như Lương Nhữ Hốt, tri phủ Nghệ An; Đỗ Duy Trung và anh em, thân thuộc ở phủ Giao Châu và sông Thao. Tổng cộng hơn “9,000” nhân vật tài đức, được giao các chức vụ tri huyện, tri châu, v.. v. phụ giúp khoảng 100 quan tướng Minh và đạo quân viễn chinh thủy bộ.(79)
2. Đa Bang Thất Thủ:
Cuộc “kháng chiến chống Minh” thực sự khởi đầu từ tháng 7-8/1406, sau trận phục kích Hoàng Trung ở Cần Trạm. Hán Thương cho lệnh rào sông, đắp lũy phía nam sông Cái, từ thành Đa Bang tới sông Lỗ Giang; và từ Châu Lạng tới sông Chú. Nếu tin được Minh thực lục, cha con Quí Ly vận dụng đến “700,000 quân” bảo vệ hai kinh thành Tây đô và Đông đô. Ngày 24/11/1406, quân báo Minh từ Gia Lâm đưa tin từ nhóm Mạc Thúy ở Lạng Giang là “7 triệu người Việt có chiến thuyền” và voi tử thủ phía nam sông Phú Lương. (79) 
Ngày 10/1/1407 [2/12 Bính Tuất], quân Minh chiếm được Việt Trì. Hồ Xạ rút quân xuống bờ nam sông Cái. Ngày 14/1Mộc Thạnh kiểm soát sông Tuyên [Xuan]. Lập đồn phía bắc sông Thao. Bố trí lực lượng đối bờ đốn Đa Bang.
Trương Phụ cho lệnh Trần Húc bắc cầu nổi [pontoon bridges], trong khi Chu Vinh dẫn kị binh ngày ngày dương oai, diễu võ tại Gia Lâm, bờ bắc sông Hồng, đối diện Đông Đô, theo kế nghi binh—từ vài người lúc đầu, tăng dần lên tới hàng trăm
Hôm sau, 15/1, Trần Đĩnh đẩy lui quân giặc ở sông Thiên Mạc. Nhưng hai ngày sau nữa, đêm 17/1, quân Minh bất thần chiếm được đồn Mộc Hoàn ở bờ nam sông Cái, giữa Đa Bang và Hà Nội, không tốn một viên đạn, vì tướng thủ thành mê say tửu sắc, sao lãng việc phòng thủ, trong khi các đơn vị bạn bình chân như vại.
Đêm 19 rạng 20/1/1407 quân Minh bắc cầu phao qua sông Hồng, chia hai mặt tấn công Đa Bang. Theo sử Việt, Trương Phụ, Đô đốc Hoàng Trung và Đô sứ ti Thái Phúc [Cai Fu] tấn công phía tây bắc. Mộc Thạnh, Lý Bân tấn công phía đông nam. Quân Quí Ly hăng say đánh trả, xác quân Minh chất cao ngang thành, nhưng giặc không lùi bước. Tướng chỉ huy quân Thiên Trường khoét tường thành, lùa voi ra đánh. Quân Minh dùng mặt nạ hình sư tử chụp lên đầu ngựa, và tên lửa bắn vào nài voi hay vòi voi khiến voi bối rối, hỏang hốt chạy ngược vào thành khiến quân Quí Ly hỗn loạn. Quân Minh thừa thế tiến theo, chiếm đồn. (80)
Tư liệu Minh đưa ra một số chi tiết khác. Đêm 19 rạng 20/1/1407, quân Minh bắc cầu phao qua sông. Trương Phụ và Mộc Thạnh vượt sông Hồng bằng cầu nổi. Trương Phụ, đô đốc Hoàng Trung, và Đô sứ ti Thái Phúc tấn công hướng tây nam Đa Bang. Mộc Thạnh và Trần Tuấn [Lý Bân] tấn công hướng Đông Nam. Quân tướng được lệnh trú quân cách tường thành khoảng một dặm, rồi canh tư, bắt đầu tiến về sát chân thành. Hoàng Trung đưa được những dụng cụ như « thang mây» tới chân thành, và Thái Phúc [Cai Fu], Trần Trung [Chen Zhong] cùng một số người khác vượt lên được tường thành. Họ đồng loạt thắp đuốc và thổi kèn thúc quân.
Lực lượng phòng thủ không sử dụng vũ khí chống trả mà chỉ tìm cách chạy trốn. Các tướng của Quí Ly cố giữ đội hình, tái tổ chức lại tuyến phòng thủ. Nguyễn Tông Đỗ, chỉ huy lực lượng voi trận của Thiên Trường, mở cuộc phản công. Nhưng Xạ thủ súng ngắn và hỏa tiễn của La Văn [Ôn ?] Minh nhắm vào nài voi và vòi voi. Lực lượng kỵ mã của Chu Quảng [Zhou Guang] từ hai bên hông đánh kẹp tới. Cho ngựa chiến đội mặt nạ sư tử khiến voi hoang mang, quay đuôi chạy ngược vào tuyến phòng thủ, phá vỡ mặt trận. Quân Đại Ngu rút về phía nam hay những triền núi phía tây. Hai tướng Lương Dân và Thái Bá Lạc tử trận. Số lính Đại Ngu chết đếm không xuể. Mười hai thớt voi cùng rất nhiều khí giới bị quân Minh tịch thu. (81)
3. Hai đô bỏ ngỏ:
Thủy quân của Quí Ly cũng bị đô đốc thiêm sự Liễu Thăng [Liu Sheng] và Hoành hải tướng quân Lỗ Lân [Lu Lun] đánh tan vỡ, rút về giữ Hoàng Giang. Ngày 22/1, theo sử Việt, quân Minh tiến về Hà Nội. Hai ngày sau, 24/1, quân Quý Li đốt kho tàng, triệt thoái về Hoàng Giang, phía nam Hà Nội. Tiền quân của Chu Vinh cũng đốt cháy những nhà cửa ngoại thành; tranh nhau cướp đoạt của cải, phụ nữ, thiến hoạn thiếu niên. Đại quân Trương Phụ vào đóng ở đông nam thành. Mỗi ngày, hàng chục ngàn người tới xin hàng. (82)
Ngày 26/1/1407 Trương Phụ và Mộc Thạnh bắt đầu kế hoạch tiến vào Tây Đô (Thanh Hóa), Hai tham tướng Lý Bân và Trần Húc song hành đi đánh An Tôn. Ngày này, được tin Đa Bang thất thủ, quân Quí Ly tan rã, đốt phá kho tàng, bỏ chạy. Quí Ly và Hán Thương cũng từ An Tôn ra Hoàng Giang kháng Minh. Mười năm xây dựng một kinh đô kháng chiến chỉ thoáng chốc tan thành tro bụi. (83)
Phần vì hải quân Minh hơi yếu kém, phần vì thời tiết, nên cha con Quí Ly cầm cự ở Hoàng Giang và Cửa Muộn được hơn hai tháng. Trương Phụ phải rút quân về phía bắc sông Hồng, đặt hành dinh ở Phả Lại và Hàm Tử, giao cho Phương Chính [Feng Zheng] chỉ huy. Ngày 8/2/1407, tức Tết Đinh Hợi, quân Minh thắng lớn trên sông Phú Lương và Lỗ Giang. Tính đến ngày này, Trương Phụ đã giết được 37,390 binh sĩ Việt; (84)
Số thiệt hại của quân Minh cũng rất cao, nhưng Minh sử không đưa ra chi tiết thiệt hại của “quan quân.” Một tài liệu xuất hiện năm 1537 ghi số thương vong lên hàng trăm ngàn, do một đại thần đưa ra trong biểu gửi Chu Hậu Tổng, nhưng không có chi tiết thêm để kiểm chứng. Thực tế, quân số các đơn vị chủ lực đều giảm sút, khiến ngày 26/6/1407 Trương Phụ phải xin sử dụng địa phương quân hay thổ binh điền vào các đơn vị Quảng Đông, Quảng Tây. Rồi từ ngày 9/4/1408 dùng thổ binh trấn giữ các quan ải chiến lược Pha Lũy, Kê Lăng và Khâu Ôn. (85)
Thực ra, từ sau trận Đa Bang, Trương Phụ đã bắt đầu sử dụng bọn nội thù của Đại Ngu như Trần Phong và lực lượng đánh thuê giúp bọn Vương Hữu và Liu Cong [Lưu Thông] phá tan thủy quân Hồ Đỗ ở Vạn Kiếp, Phả Lại, dồn chạy xuống Muộn Hải]. tịch thu hầu hết chiến thuyền. Tiếp đó, được giao ổn định vùng duyên hải—đặc biệt là Đông Triều và Thái Bình—nơi một số tôn thất Trần bắt đầu tỏ ý nghi ngờ chính sách “hưng Trần.” Anh em Mạc Thúy tuyển mộ được hơn 10.000 thổ binh gốc Nam Sách để bình định vùng châu thổ sông Hồng, Ngày 21/2/1407, Trương Phụ và Mộc Thạnh thắng trận sông Muộn hải, phá 500 thuyền của Quí Ly trên sông Lỗ, gây thêm tổn thất trên 10,000 binh sĩ Đại Ngu. (86)
Ngày 20/4/1407, Nguyên Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn đưa quân lên đánh Hàm Tử. Quân thủy bộ gom lại được 7 vạn (70,000), nhưng phao lên là 210,000. Quân Minh chia hai đạo thủy bộ đánh ra. Ngày 4/5/1407 Bộ binh Đại Ngu bị thảm bại. Chỉ có thủy quân chạy thoát. Thuyền chiến và thuyền lương bị mất gần hết.(87)
Ngày 30/5/1407, Hán Thương chạy vào Thanh Hoa. Trương Phụ, Lý Bân đưa kị binh tiến gấp vào Thanh Hoa. Liễu Thăng cùng bọn thổ quan Mạc Thúy cưỡi chiến thuyền đuổi theo. Ngày 1/6 [25/4 Đinh Hợi], thủy quân Minh truy kích tới Lỗi Giang [dòng chính sông Mã, huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoa], quân Đại Ngu tan vỡ
Ngày 5/6, quân Minh tấn công cửa Điển Canh Quân Quí Ly bỏ thuyền lên bờ. Quí Ly định chạy vào Thâm Giang, tức Ngàn Sâu, phía tây nam Nghệ An, nhưng lại thôi. (88)
4. Ngày Tàn Của Cha Con Quí Ly:
Ngày 9/6/1407 [3/5 Đinh Hợi], Trương Phụ tới Trà Long, phủ Diễn Châu. Nghe tin cha con Quí Ly trốn ở Thâm Giang (Ngàn Sâu). Ngày 11/6/1407, quân Minh đánh chiếm cửa biển Kỳ La, châu Nhật Nam (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hoa [Hà Tĩnh đời Nguyễn]). Quân Hồ đại bại. Nguyễn Đại, mới hàng Minh, bắt được Hữu tướng quốc Quí Tì và con là Phán trung đô Nguyễn [Võ] Cửu.
Ngày 14/6/1407 Trương Phụ, Mộc Thạnh và Liễu Thăng chia ba [3] mũi tấn công Kỳ La [Qiluo Sea]. Ngày 16/6, quân Minh tấn công Vĩnh Ninh. Liễu Thăng bắt được 300 chiến thuyền. Quí Ly bị bọn Vương Sài Hồ [Nguyễn Đại] bắt ở ghềnh Chẩy Chẩy [bãi Chỉ Chỉ], gần Kỳ La (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hóa [đạo Hà Tĩnh đời Nguyễn, gần biên giới Bình Chính (Quảng Bình)]). Lê Nguyên Trừng và các con cũng đều sa lưới. Hôm sau, 17/6. bọn Nguyễn Như Khanh và Mạc Toại bắt được Hán Thương cùng con là Lê Nhuế.tại núi Cao Vọng. Đại tướng Hồ Đỗ và nhiều người khác cũng bị bắt. (89)
5. Mặt Trận Phía Nam:
Hoàng Hối Khanh cùng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, được Quí Ly và Hán Thương giao chỉ huy phía nam—tức hai châu Thuận và Hóa, cùng lãnh thổ mới chiếm được của Chiêm năm 1402 (tức châu Thăng Hoa).
Hiển nhiên, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Hoàng Phúc cùng Lý Bân đã không quên xúi dục vua Chiêm đòi lại các đất Chiêm Động, khiến cha con Quí Ly đôi bề thụ địch. Năm 1406, Chu Lệ còn điều 600 tinh binh của Quảng Đông xuống Chiêm Thành, đề phòng Quí Ly vượt biên, uy hiếp bang phía nam này. Năm 1415, Chu Lệ còn tuyên bố với vua Chiêm đã đánh An Nam để bênh vực Chiêm. Nhưng Phụ cũng có dã tâm riêng—tức nhân cơ hội diệt Quí Ly, sẽ đặt các châu biên giới bắc của Chiêm Thành vào bản đồ Minh. (90)
Ngày 24/6/1407, Trương Phụ rời Kỳ La đi giải quyết Hóa Châu. Thổ hào Phạm Thế Căng đón hàng ở Nghệ An, được phong Tri Phủ Tân Bình.
Trước đây, Quí Ly phong Chế Ma Nô Dã Nam [con Chế Bồng Nga] làm Thăng Hoa quận vương để phủ dụ người Chiêm. Lại sai Tuyên úy sứ lộ Thăng Hoa là Hoàng Hối Khanh chia một phần ba [1/3] di dân Việt giao cho Nguyễn Lỗ [Rỗ] để cần vương. Hối Khanh dấu việc này đi.
Sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu, quân Chiêm Thành tiến đánh Thăng Hoa mà không chỉ tăng cường phòng thủ biên giới như Chu Lệ mong muốn. Hối Khanh bèn rút về giữ Hóa Châu.
Đại quân Trương Phụ tới Bàn Thạch, Nghệ An, được tin Đặng Tất và Hoàng Hối Khanh mang thủy binh từ Thăng Hoa [Quảng Nam sau này] về Hóa châu. Nguyễn Lỗ [Rỗ] dẫn dân đi đường bộ, đến chậm. Trấn thủ Nguyễn Phong không cho vào thành, bị Đặng Tất đánh giết. Sau đó Tất lại đánh nhau với Lỗ.
Ngày 3/7/1407 [27/5 Đinh Hợi], đại quân Trương Phụ tới cửa biển Minh Linh, huyện Đơn Duệ, châu Minh Linh, phủ Tân Bình.
Đô đốc Hoàng Trung sai thiên hộ Lý Duy Thân báo cáo rằng bọn Nguyễn Rỗ và Hoàng Hối Khanh đánh giết lẫn nhau [ở Thuận Hóa]. Nguyễn Rỗ mang voi về hàng Chiêm Thành. Vua Chiêm nghe tin quân Minh tới sợ hãi rút về nước, mang theo Nguyễn Rỗ cùng voi, lính. [Sau nhà Minh đòi đưa Lỗ tới Kim Lăng, giết đi]. Bọn Diệu Cẩm và Nhạc Thăng viết thư báo đã tới Hóa Châu, vỗ về Đặng Tất và cho giữ Hóa Châu. (91)
Hoàng Hối Khanh có vẻ không được Trương Phụ khoan thứ vì từng tham dư màn kịch “mừng đón Trần Thiêm Bình về làm vua.” Ngày 6/7/1407 [2/6 Đinh Hợi] khi đang lẩn trốn, Hối Khanh bị đắm tàu, lọt vào tay thổ binh. Đặng Tất bắt giải Hối Khanh cho Trương Phụ. Hôm sau, tới cửa biển Đan Thai, tức cửa Hội, của sông Lam ở Nghệ An, Hối Khanh tự tử. Hai ngày sau nữa, 8/7, Trương Phụ về tới cửa biển Đơn Hay [cửa Hội] Nhật Nam. Ngày 10/7 được tin Khanh bị thổ binh bắt, Phụ chém đầu xác Hối Khanh, bêu ở chợ Đông Đô. Tháng 8/1407, Trương Phụ phong Nguyễn Đại—đã giúp bắt cha con Quí Ly—làm Giao Chỉ thổ Đô thống sứ [tusi]. Rồi giết đi vì kiêu ngạo. (92)
Trương Phụ cũng sai bọn đô đốc thiêm sự Liễu Thăng [Liu Sheng], Hoành Hải tướng quân Lỗ Lân [Lu Lin], Thần Cơ tướng quân Trương Thắng [Zhang Sheng] và ba người khác giải Hán Thương về Kim Lăng cùng với cha, anh, hai em và nhiều triều thần khác. Ngày 5/10/1407, Chu Lệ ra cửa Phụng Thiên [Feng-tian] làm lễ đón nhận tù nhân. Thị lang bộ Binh Fang Bin [Phương Bân] đọc một cáo trạng dài, kể lể các tội lỗi của cha con Quí Ly. Mỉa mai “Hồ Nhất Nguyên tự cho mình khôn ngoan hơn Ngũ Đế, trung thành với lời dạy của Văn và Vũ, kiến thức cao sâu hơn Chu, Khổng.” Cao giọng buộc tội “Hắn phạm pháp khi tự đặt quốc hiệu Đại Ngu, niên hiệu Nguyên Thánh.” Khi Bân đọc đến câu “bọn cướp họ Lê giết vua, cướp ngôi,” [they killed their ruler and usurped rule of the country;] và “chúng đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu” [They changed their dynastic and adopted a reign title] Chu Lệ hỏi Quí Ly và con trai: “Một đại diện Hoàng Đế có thể làm vậy không” [Is this a way of a minister]. Cả Quí Ly và Hán Thương đều không trả lời được. Chu Lệ cho lệnh nhốt Quí Ly, Hán Thương và Hồ [Trần] Đỗ vào ngục. Lê Nguyên Trừng [Li Sheng] được ân xá, làm việc tại bộ Công. Lúc đầu nghèo khổ. Sau được trả lương hoàn toàn bằng gạo. (93)
Cho rằng công lao Trương Phụ chẳng thua gì Mã Phục Ba [Ma Fu-po], tức Mã Viện, Chu Lệ đưa Phụ lên chức chỉ huy tối cao đạo quân xâm lược, và chấp nhận mọi đề nghị của Phụ, kể cả việc bỏ con cháu nhà Trần, sát nhập Giao Chỉ vào đế quốc Minh ngày 17/4/1407. Ngày 31/1/1408, Chu Lệ cho lệnh Trương Phụ và Mộc Thạnh chuẩn bị rút quân khải hoàn. (94)
Phải sáu tháng sau, ngày 3/7/1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh mới dẫn đạo quân xâm lược về tới Kim Lăng. Phụ nộp lên Chu Lệ một bản đồ Giao Chỉ, lãnh thổ trải dài 1760 dặm từ Đông sang Tây, 2800 dặm, Bắc xuống Nam. Hai ngày sau, 5/7, bộ Lại báo cáo Giao Chỉ sẽ tổ chức thành mười lăm [15] phủ, 41 huyện, 208 châu, xây dựng, tu bổ 12 thành trì. Tổng số dân hơn 3,120,000 người, và 2,087,500 man [barbarians]. (95)
Trong không khí lễ hội, ngày 29/7/1408, Chu Lệ phong Trương Phụ lên chức Anh quốc công,. Mộc Thạnh chức Kiềm quốc công, cả hai đều hưởng lương 3,000 thạch [shi] gạo hang năm. Phụ được thưởng bạc và tiền nhiều hơn Thạnh một chút. Li Bin [Lý Bân] và Chen Xu [Trần Húc] cũng được thăng tước, trọng thưởng. (96)
Nhưng niềm vui của Chu Lệ không kéo dài được lâu. Tin buồn từ Giao Chỉ bay về. Quyền Chưởng Đô thống sứ ti Lã/Lữ Nghị [Lu Yi] xin cấp tốc gửi viện binh vì loạn lạc khắp nơi. Khởi đầu là tàn dư Quí Ly ở Thái Nguyên khiến một chỉ huy trưởng đội sung ngắn chết.
Sau đó là các chi nhánh họ Trần, như Trần Quí Ngỗi (1/11/1407-16/12/1409), con thứ Trần Nghệ Tông. Trốn thoát khỏi một trại tập trung [cùng Nguyễn Súy, Trần Triệu Cơ [Chen Xi-Ge], Trần Ngỗi dầy binh ở Mộ Độ, phủ Trường Yên (tức Thiên Quan) ngày 1/11/1407. (Taizong, juan 82:5ab; MSL, vol 11, pp 1101/02) Bị Trương Phụ và thổ binh truy đuổi vào Thuận Hóa, Trần Ngỗi liên kết với các lãnh chúa—như Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Súy—giết quan lại Minh, cùng thổ tù Phạm Thế Căng (tháng 6-7/1408), đã hàng Minh, được chức tri phủ. Trong khi đó, sau hai mùa Hè ở Giao Chỉ khiến khoảng 22,700 chủ lực Minh mất đi khí thế ban đầu.
Các thổ tù địa phương, đặc biệt là phong trào “Giặc Cờ Đỏ”—từng giết chết thượng tướng Phạm Cự Luận của Quí Ly—hoạt động mạnh trong lãnh thổ Thái Nguyên, rồi chuyển dần vào Nghệ An, Thuận Hóa.
Ngày 31/8/1408, Chu Lệ cử Mộc Thạnh đưa 40,000 quân Vân Nam qua tăng viện. Giao Chỉ được lệnh đặt 20,000 hải quân dưới sự điều động của Mộc Thạnh. (Taizong, juan 82:5ab; MSL, vol 11, pp 1101/02) Đồng thời bí mật gửi thư cho Trần Ngỗi nên thuận theo ý trời; hứa sẽ ân xá, bồi hoàn tài sản cho những người “làm loạn. (8/9/1408, juan 82:6a-7a; MSL, vol 11, pp 1104/05). Mãi tới ngày 18/12/1408, Mộc Thạnh mới xuất quân.
Và chỉ hai chục [20] ngày sau, 9/1/1409, đạo quân tăng viện của Mộc Thạnh bị thảm bại trên sông Thanh Quyết—tức Bô Cô hãn, thuộc huyện Gia Viễn, phía nam Hà Nội không xa. Nghĩa quân trên đường tiến ra đánh Đông đô, và kiếm lương thực— vì quân Minh cấm nông dân ở phía nam Thanh Hóa trồng trọt, trong khi ra sức bảo vệ hơn 13 triệu thạch gạo mà Trương Phụ cướp đoạt được của cha con Quí Ly năm 1407—tiêu diệt gần trọn bộ chỉ huy của Giao Chỉ đô thống sứ ti. Quyền chưởng Đô thống sứ ti Lữ Nghị; tham tán Trần Vân [Liu Juan (?)] của bộ Binh, Phó đô ti Lưu Dục [Liu Yu] tử trận cùng khoảng 10,000 thủ hạ. (97)
Ngày 12/2/1409: Chu Lệ phải cử Trương Phụ mang 40,000 quân và 7,000 hộ tống sang Giao Chỉ, với chức Chinh Di Phó tướng; có Vương Hữu [Wang You] phụ tá. Nhưng Trương Phụ và Mộc Thạnh, cùng những tướng tài ba nhất rồi cũng bó tay.Đánh tan cuộc khởi nghĩa này, có đám khác nổi lên.
Taizong, juan 88:5b; MSL, vol , pp; 5/3/1409:
Có tin Đặng Tuất chết. Taizong, juan 88:7b;
2/4/1409: Trần Quí Khoáng lên ngôi ở Chi La, Nghệ An [Hà Tĩnh ngày nay]. 4/5/1409: Trần Ngỗi gặp Trần Quí Khoáng ở sông Tam Chế, Nghệ An. ĐVSK, BKTT, IX:13b, Lâu (2009), 2:284;
Tháng 8-9/1409, Mộc Thạnh sai Hoàng La tới Nỗ Giang gặp đại diện của Trần Quí Khoáng, tức Trùng Quang Đế tại Nỗ Giang, Thanh Hóa khi Trùng Quang và Giản Định kéo quân ra Bắc; Giản Định ở Hạ Hồng, Quí Khoáng ở Bình Than; Hào kiệt theo rất đông; ngoại trừ Tri phủ Tam Giang [Đái] Đỗ Duy Trung; ĐVSK, BKTT, IX:13b-14a, Lâu (2009), 2:281, 284-285; Giu (1997), 2:285. Tam Giang: Vĩnh Phúc hiện nay.
16/12/1409: Trương Phụ bắt được Đế Ngỗi ở Mỹ Lương, trên đường tới Thiên Quan. (Taizong, juan 98:11b-12a)
Tháng 6-7/1410: Hào kiệt theo Quí Khoáng rất đông: Đồng Mặc (Thanh Hóa), Nguyễn Ngân Hà, Lê Nhị (Thanh Oai), Lê Khang (Thanh Đàm), Đỗ Cối, Nguyễn Hiệu (Trường Yên) 20/1/1411: Chu Lệ phong Quí Khoáng làm Bố Chính sứ. (Taizong, juan 111:6a; MSL, vol 13, p 4a; Lạng Sơn: 24.
Nông Văn Lịch nổi dạy. Đến năm Vĩnh Lạc thứ 18 [1420], “mối loạn vẫn chưa bình định.” (ĐVSK, BKTT, IX:21a , Giu (1967), 2:244- 245, Lâu (2009), 2:292; CMCB, XII:36-37; (Hà Nội: 1998), I: 749-50. Thực Lục q 218, tr 2165; q 225, tr 2211. Sau bị dân giết vì thông dâm với vợ thuộc cấp. Lạng Sơn 25.
Huyện Lục Na, Nguyễn Liễu, người Lị Nhân, khởi nghĩa, hô hào dân các huyện Lục Na, Vũ Lễ đánh phá quân Minh hơn 4 năm. Sau nghe lời chiêu dụ của Thổ-quan Mạc Công Trai xin hàng. (Hoàng Văn Tập, q 4, tr. 9). Nguyễn Huân vờ kết thông gia rồi giết đi. (ĐVSK, BKTT, IX :21ab, Lâu (2009), 2 :292; Giu (1967), 2:244-45; CMCB, XII:36-37; (Hà Nội: 1998), I: 749-50.
Cha con Phan Quí Hựu [Fan Gui-you], Thiếu bảo của Trần Quí Khoáng, và con là Phan Liêu [Fan Liao] đầu hàng, chỉ điểm. Trương Phụ trọng dụng. Cho Quí Hựu làm Phó thổ Án sát, tiếp tục giữ Nghệ An; Liêu làm quan, coi thổ binh. Ít hôm sau, Quí Hựu chết, Liêu lên thay cha. (ĐVSK, BKTT, IX:23b- 24a, Lâu (2009), 2 :295;
Ngày 31/8/1419, Phan Liêu nổi loạn vì bị Mã Kỳ ngược đãi, hạch sách vàng bạc, cùng các hương liệu. (juan 215:1b) Ngày 23/11/1419, Phan Liêu chạy qua Lào cùng Trần Đài [hay Thái].
Sau này, Lô Văn Luật ngả theo Phan Liêu, lưu lạc sang Lào. (juan 215:1b)
VI. “Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti”:
Địa danh Giao Chỉ—chữ Giao [Jiao] bộ Ðầu nghĩa là gặp nhau [ThC, 12]; và Chỉ [zhi] bộ Phụ, cùng nghĩa với chữ chỉ bộ Thổ, có nghĩa cái nền. [ThC 12, 107, 743]. Theo cổ thư Trung Hoa, tên Giao Chỉ xuất hiện đời Lưu Triệt (Hán Vũ Ðế, 140-87 TTL) sau khi Lộ Bác Ðức (Lu Bo-de) xâm chiếm Nan Yue [Nam Việt], “giết [tru] Lữ Gia, mở chín quận” năm 112-110 TTL. Tuy nhiên, chẳng có bằng chứng khả tín nào về việc này. Rất có thể Giao Chỉ hàm ý một vùng đất đầy cá sấu, hay “giao long.” Tên Bến Nghé của Sài Gòn xuất xứ từ tiếng rống của cá sấu.
Sử cũ Việt thường thích nhắc đến huyền thoại “Việt Thường,” như Thanh Nhân Tông (Gia Khánh) đã nhắc đến năm 1804 khi đổi tên nước “Nam Việt” do Gia Long đề nghị thành “Việt Nam.” Có thông tin huyền thoại trên ghi trong truyền bản Hàn Thi ngoại truyện: sứ Việt Thường trải qua chín lớp thông ngôn mới tới cống hiến. Chu Cơ Ðán, phụ chính của Cơ Tụng đến năm 1104 TTL, hỏi vì duyên cớ gì mà đến, thì qua thông dịch, sứ đáp: Trời không có gió bão, không có mưa dầm, biển không có sóng dữ, đã ba năm, chắc là ở Trung Hoa có thánh nhân, nên tới chầu. Ðán cho rằng nước nào chính lệnh chưa đến thì quân tử không bắt họ phải thần phục; cấp cho sứ Việt Thường năm [5] cỗ xe có vải che, làm theo lối chỉ nam, để hồi hương. Ðoàn xe theo con đường tưởng tượng, không hề hiện hữu dài theo bờ biển tới Funan [Phù Nam, Kok Thlok], Linyi [Lâm Ấp], đi trọn một năm về đến nước. (98)
Trong khối văn sử cổ điển Tây phương, năm 100, một nhân vật Bà La Môn Kaundinya [Hỗn Điền] nào đó đến Funan [Kok Thlok], được nhận làm con rể, rồi xây dựng nên vương quốc thương mại này trong thế kỷ II-VI. Thịnh vượng về buôn bán, hải tặc với India và TH. Ranh giới mở rộng tới Malaysia. Năm 226, Thứ sử Giao Châu gửi một sứ đoàn tới Phù Nam. Trong thập niên 270, Phù Nam từng liên kết với Champa [Chàm] cướp phá Giao Châu. Khoảng năm 540 bị Bhava Varman của Kha Miệt [Khmer] chiếm; (99)
Khi những đoàn thám hiểm và truyền giáo Âu Châu khởi đầu toàn cầu hóa, thoạt tiên, nhà Minh vẫn cao ngạo xếp hạng thương mại như hiếu cống của tứ di “mũi lõ, mắt xanh,” mang lại lợi tức cho triều đình cũng như các quan lại. Càng ngày, thương gia Tây phương càng chứng tỏ không đến hiếu cống, và liên lũy tạo áp lực. Nhưng cả triều đình và quan lại đều quay mặt làm ngơ vì lợi nhuận.(100)
Theo Minh thực lục, 15 phủ gồm Giao Châu [Jiaozhou], Bắc Giang [Beijiang], Lạng Giang [Liang-jiang], Tam Giang [Đái] [San-jiang], Kiến Bình [Jianping, tên cũ Janxing], Tân An [Xin-an, cũ: Tân Hưng], Kiến Xương [Jianchang], Phụng Hóa [Feng-hua, cũ, Tianchang], Thanh Hóa [Qing-hua], Trấn Man [Zhen Man, tên cũ Long Hưng], Lạng Sơn [Liang-shan], Tân Bình [Xin-ping], Nghệ An [Yi-an], Thuận Hóa [Shun-hua], Diễn Châu [Yan-zhou] (không có trong bảng liệt kê các phủ của sử Nguyễn).
Hệ thống chính quyền phức tạp này—tiến hóa từ kiểu mẫu tusi nhà Nguyên (1260-1367) đã trắc nghiệm ở Quí Châu, và nhà Minh tiếp tục ở Đại Lý (Vân Nam-Tứ Xuyên) từ năm 1381-1382—nhằm mục đích khiến man, di quên dần vị thế một nước [guo hay vassal state] từng hiện hữu từ thế kỷ XII tới ngày 5/7/1407. (101)
Năm 1407, Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti mới chỉ có 14 phủ, và bốn phủ mới được đổi tên. Thái Nguyên và Tuyên Hóa lên hàng phủ năm 1408; và Thăng Hoa, do Chiêm Thành cai trị, chỉ vào bản đồ trên giấy tờ năm 1415. (102)
Hai huyện Thái Nguyên [Tai-yuan,] và [Tuyên Hóa [Xuan-hua, tức trán Tuyên Quang đời Trần] được nâng lên phủ năm 1408. Riêng Thăng Hoa bị Chiêm Thành chiếm năm 1407, nhưng năm 1414, Trương Phụ tái lập trên giấy tờ, đặt vào bản đồ Giao Chỉ.
Ngắn và gọn, quốc thống tưởng chừng đã tuyệt. May mắn, sau đợt khủng hoảng, thất thần đầu tiên, quốc thống được phục hồi. Từ 1407 tới cuối năm 1427, hơn 60 cuộc nổi dạy kháng Minh liên tục diễn ra, bác bỏ thứ ngụy biện chinh [punishment, teaching a lesson] mà không chiến [no war]. Đáng kể nhất có hai vua “hậu Trần,” con cháu Nghệ Tông, tức Đế Ngỗi hay Giản Định (1/11/1407- 16/12/1409) và Dế Khoáng, tức Trùng Quang (2/4/1409-31/3/1414); hay Trần Nguyệt Hồ ở Hạ Hồng, rồi sông Lỗi, Thanh Hóa. (1407, 1415)
Hai tướng cướp với tước quí phái “ hầu,” rồi “quốc công” Trương Phụ và Mộc Thạnh phải thêm ba, bốn lần mang chủ lực sang đàn áp. Những thủ đoạn như chất xác người thành gò đống, chặt đầu treo thủ cấp ở phố chợ, bến sông, bắt phụ nữ, thiếu nhi bán sang Trung Hoa làm nô lệ (kể cả con gái 9 tuổi của Lê Lợi), chỉ tạm ổn định tình hình vài năm để “thánh hóa” “hơn 3,120,000 di và 2,087,500 mán,” 13,600,000 shi [thạch] gạo, 235,900 voi, ngựa, trâu bò,” cùng một lãnh thổ trải dài “2800 dặm” từ bắc xuống nam, “1760 dặm” từ đông sang tây. Sử Minh ghi nhận là sau khi cha con Quí Ly bị đóng cũi gửi về Kim Lăng, phong trào kháng Minh khởi phát dữ dội từ bắc chí nam. Đây chẳng phải vì lòng thương tiếc cha con Quí Ly, mà vì quyết định sai lầm chiến lược của Chu Lệ, Trương Phụ, có sự tiếp tay của những kẻ nội thù tiềm ẩn ở Đại Việt, tiêu biểu là Mạc Thúy [Mo Sui], cháu nội Mạc Đĩnh Chi, và tổ bốn đời Mạc Đăng Dung—tức kế hoạch sát nhập Đại Việt vào đế quốc Minh, chia đặt quận huyện để tẩy rửa phong tục man di bằng “thánh giáo.” Trận đánh gây tiếng vang nhất là trận bến Bô Cô trên sông Thanh Nguyệt của Quốc công Đặng Tất [Deng Xi] và Giản Định [Jian Ding] vương— trong khoảng từ 30/12/1408 tới 9/1/1409—khiến bộ chỉ huy của Giao Chỉ đô sứ ti bị thiệt hại nặng. Tân Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh phải một người một ngựa thoát về thành Cách (Ninh Bình), khẩn cấp xin cứu viện. Trương Phụ, rồi Mộc Thạch, thêm ba lần dẫn quân Quảng Tây và Vân Nam vào các năm 1409, 1411, 1414 cũng chỉ đủ khả năng diệt phe đảng họ Trần bằng thủ đoạn giảo quyệt—nhất là chiêu bài giả ngụy “hưng Trần.” Khi những lãnh tụ khác trong đám đông xuất hiện—kể cả cựu thổ quan, thổ binh từ năm 1416—quân xâm lược Minh đi vào nửa đường xuống dốc, khiến cả “uy” [wei] lẫn “đức” [de] đều khánh kiệt. Hoặc nói theo cha con, ông cháu Chu Lệ, Cao Xí và Chiêm Cơ, các tướng chỉ biết đến bản thân, coi thường quốc thể. “trở thành trò cưới cho man di.” [“How can we not the laughing stock of the man and yi?”] (103)
Thoạt tiên, Tham tướng Lý Bân [Li Bin hay Ben], của Mộc Thạnh làm Chưởng Đô Ti; Lữ Nghị [Lu Yi] Phó Đô Ti (năm 1406 từng theo Hoàng Trung đưa Trần Thiên [Thiêm] Bình, hay Nguyễn Khang) về nước. nhưng thất bại). Sau đó, Lữ Nghị được cử làm quyền chưởng Đô thống sứ ty [tusi], và Hoàng Trung làm phó. Trương Phụ chịu trách nhiệm chọn thêm hai người phụ tá (104)
Án sát Hoàng Phúc—nguyên phụ trách việc tiếp vận từ Quảng Đông qua, được cử làm Bố chính sứ ty kiêm Án sát sứ ti Tại Bố chính ti, Hoàng Phúc có sáu [6] phụ tá, kể cả Bùi Bá Kỳ, với chức Hữu Tham nghị. Hai người Hoa—Zhang Xian-zong, và Wang Ping [Vương Bình] Hữu Tham chính, chết trận ngày 26/12/1413 khi cùng Hoàng Trung càn quét Thanh Hóa]. Án sát ti có hai phó Án sát và một tham nghị. Bộ Lại chịu trách nhiệm cử người khác cho đủ cấp số. (105)
472 nha sở thu dùng hàng ngàn quan lại Hoa, cùng trên 9,000 thổ quan, chia nhau các chức vụ thổ Tri phủ (dự trù lên tới 15 người), thổ tri châu, tri huyện, v.. v…
Ngày 24/1/1418, Giao Chỉ Đô sứ ti có tới 100 quan chức và lại viên: Đô sứ ti có 30 người, Bố chính ti, 50 người, và Án sát ti, 20. (106) Mười hai năm sau ngày “diệt trừ quỉ dữ, mang ánh sáng thánh giáo cứu giúp man di,” Chu Lệ và thuộc hạ—không ít những tội phạm được lấy ra khỏi nhà tù, gửi sang cho lập công chuộc tội—đưa Giao Chỉ xuống tận cùng đáy thẳm của địa ngục có thực. Dân chúng hàng năm chết đói đầy đường. Khói lửa loạn ly lan tràn từ thành thị tới nông thôn, rừng núi. Những tên cướp nước luôn miệng khoe khoang về văn trị, thánh đức không từ một cơ hội nào để chém giết, cướp bóc, mổ bụng đàn bà có thai, để khủng bố long người. Tổng Binh ăn gan, uống máu nghĩa quân kháng Minh. Sĩ quan thuộc cấp không thiếu kẻ bị đóng gông giải về kinh đô, nhưng chỉ ít lâu sau lại được ân xá gửi đến những chiến trường khác, và không ít kẻ trở lại Giao Chỉ để tiếp diễn những tội diệt chủng, hiếp dâm. Từ năm 1417, lại thêm một loạt những cuộc nổi dạy của thổ quan, thổ binh từ nam chí bắc, từ góc rừng, triền núi tới những thanh thị, phố xá
Những thành phần hợp tác [Collaborators]: Các bộ quốc sử Việt đã nói nhiều, dù không hẳn đầy đủ về thành phần hợp tác. 1. Thổ quan: Tháng 8/1407, Chu Lệ ra chiếu tuyển mộ nhân tài. “Những người hơi có tiếng tăm đều hưởng ứng, riêng có Bùi Ứng Đẩu bị tật ở mắt, và hạ trại học sinh là bọn Lí Tử Cấu vài người ẩn náu không ra mà thôi.” Lúc bấy giờ cũng có câu: Muốn sống vào ẩn trốn trong rừng. Muốn chết thì đi làm quan bên Tàu. [“Dục hoạt ẩn lâm san. Dục tử tố Bắc quan.”] (107)
Ý chính tờ sắc dụ gửi thổ quan và bô lão Việt tháng 1/1413 được lập lại vào tháng 1-2/1416, khi Chu Lệ thay bằng sắc hơn 9,000 quan lại tụ hợp ở Kim Lăng, do Tổng binh ký bằng bằng sắc thiếp vàng của Bộ, [như Tả Bố chính sứ Nguyễn Huân,Tham nghị Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung] cũng có câu này; “trời cũng giúp cho, lại hưởng nhiều phúc lộc, mãi đến đời con cháu, mà tiếng thơm của các người cũng mãi mãi còn trong sử sách” [của TH].(109)
Tháng 11/1415, Trương Phụ lại qua Giao Chỉ vì tình trạng ngày càng xấu đi. Tháng 1-2/1416, Phụ sử dụng, nói theo giáo mục Ki-tô Paul Puginier, những “chiếc càng cua” bản xứ như Nguyễn Huân làm Bố chính sứ, Lương Nhữ Hốt và Đỗ Duy Trung làm tham chính. (ĐVSK, BKTT, IX :26b, Lâu (2009), 2 :298 ; CMCB, XII:44- 45 ; (Hà Nội : 1998), I:757).
Tháng 1-2/1416, Chu Lệ triệu tập quan lại, bô lão về Kim Lăng, ban cho bằng sắc do chính triều đình Minh ấn ký. Trên 9,000 người, theo Minh thực lục. Sử dụng bọn trung gian bản xứ Nguyễn Huân [Ruan [Mo] Xun], người Chí Linh, Nam Sách [Hải Dương], làm Tả Bố chính sứ, Lương Nhữ Hốt [Liang Ru-hu], người Hoằng Hoá, Thanh Hóa] và Đỗ Duy Trung [Du Wei Zhong] người phủ Tam Đái (sông Thao, Cấm Khê, Sơn Tây), làm tham [nghị] chính. (ĐVSK, BKTT, IX:26b-27a, Lâu (2009), 2:298; Giu (1967), 2:251-52; CMCB, XII:44- 45; (Hà Nội: 1998), I:757)
Chu Lệ hạ chiếu huấn dụ quan lại, thuộc ti Bố Chính, có câu “trời cũng giúp cho, lại hưởng nhiều phúc lộc, mãi đến đời con cháu, mà tiếng thơm của các người cũng mãi mãi còn trong sử sách;” (ĐVSK, BKTT, IX:27ab, Lâu (2009), 2:298; ĐVSKTB, BK X:32ab, The (1997), tr. 548; CMCB, XII:44-45; (Hà Nội: 1998), I: 757-58
Một số không nhỏ đã bị cuốn hút và khích động về chiêu bài diệt ác, hưng Trần. Nếu tin được Minh thực lục, Trần Ngỗi có mặt trong h2ng ngũ này. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi dẫn về Kim Lăng, Trần Ngỗi đã cùng một số người trốn về Mộ Độ, phủ Thiên Trường, phất cờ “kháng Ngô.” Trần Quí Khoáng hay Quí Khách, vua hậu Trần thứ hai, cũng hơn một lần tìm cách hợp tác với quân Minh. Đế Ngỗi và tùy tùng hai lần gửi sứ và tuế cống [gồm hai tượng người bằng vàng bạc] đến Kim Lăng. Năm 1411, Chu Lệ giả vờ đồng ý, phong Quí Khoáng làm Bố Chính sứ, và đề cử những cận thần của Đế Ngỗi vào ba ti. Nhưng những quan tướng ngoài mặt trận được quay mặt làm ngơ để ra tay tiêu diệt. Cơ quan mật vụ Đông Sở của các thái giám đả sử dụng cả con trưởng Quí Ly để dò xét tin tức từ các sứ thần của Trùng Quang tại Kim Lăng, khiến vua giết Hành khiển Hồ Ngạn Thần sau khi phó sứ Bùi Nột Ngôn tố cáo sự việc. (110)
Đại đa số những người hợp tác chủ trương bá đạo, tư lợi. Chính nghĩa, đạo đức, và ngay cả hạnh phúc thu gọn trong vòng quyền lợi cá nhân và phe đảng.
Đáng ngạc nhiên là trong số này có ba cháu nội của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi—chẳng những thông minh, văn hay chữ tốt, giỏi ứng biến [nhưng cũng có nghĩa chậm tiến, tưởng lầm chim sẻ thêu thành chim thực], hai lần đi sứ Nguyên, mà còn là một đại quan thanh liêm, tiết tháo, được liệt vào hạng danh nhân của Hải Dương trong Đại Nam Nhất Thống Chí. Phải chăng vì sự cảm phục Mạc Đĩnh Chi, [hay đã bị nịnh thần nhà Mạc sửa chữa, cắt bỏ] sử quan đời sau chỉ nhắc rất sơ lược về hành động phản quốc của anh em Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn—đã tự nguyện đầu hàng, tuyển mộ 10,000 thổ binh dẫn đường quân xâm lược đánh phá thành trì, lùng bắt nghĩa quân, và nhất là lưu lại hậu thế chứng từ thành văn tội phản nghịch, xin Chu Lệ ban ơn đặt Giao Chỉ vào nội địa, như hơn 400 năm trước; và góp công vào việc tung tin con cháu nhà Trần đã tuyệt, khiến năm 1409 Trương Phụ ngạo nghễ tuyên bố với sứ giả của Trần Quí Khoáng—tức Trùng Quang Đế— là “không thể còn sót một cháu nội cua Nghệ Tông,”
Bảng nhãn Lê Quí Đôn có lẽ đã sai lầm khi chỉ liệt kê những Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, hay Đỗ Duy Trung vào hàng ngũ “nghịch thần.” Mạc Thúy còn đứng đầu sổ công thần của xâm lược Minh. Mạc Thúy cũng góp phần không nhỏ trong việc tuyển chọn “hơn 9,000” nhân tài bản xứ ra làm quan theo triết lý “dĩ di trị di” của Hán tộc. Từ năm 1436, An Nam được khôi phục quốc thống [guo], nhưng chỉ một thế kỷ sau, cháu chắt Mạc Thúy và Mạc Tung—người năm 1418 được thừa kế chức tước và lương bổng của cha—sẽ tạo nên một tiền lệ khác, tức “An Nam đô thống sứ ti;” và, chưởng đô thống sứ ti với hạng tùng nhị phẩm, cha truyền con nối
Chẳng hiểu anh em Mạc Thúy và Nguyễn Huân đã chọn quan điểm trên vì nguồn gốc Hoa—nên mơ ước “châu hoàn Hợp Phố,” hay thù ghét gì nhà Trần. Cũng có thể vì thấm nhuần sách vở Trung Hoa—bị đầu độc bằng luật kẻ mạnh, và những chi tiết lịch sử ngụy tạo như “từ thời Chuyên Húc, Đường, Nghiêu ánh sáng thánh giáo Trung Hoa đã chiếu rọi mọi hang động “Giao Chỉ,” “Giao Châu” hay “An Nam.” Thực tế, cho tới năm 1414-1415, Hoàng Phúc còn muốn dạy bảo thêm “man di” cách thờ phụng thần gió, thần mây,” “thần mưa,” “thần sấm sét,” cùng cả một hệ thống bái vật của Hán tộc.
Hay truyện cổ tích “Phục Ba tướng quân Mã Viện” từng dựng trụ đồng khoa trương công lao tái xâm lăng, khuất phục man di,” và phân định biên giới” chỉ có trong những giấc mơ hay tại các trung tâm hành quân, vắt óc, mài trán tìm cho được cơ hội xâm lăng lân bang. Vì, trên thực tế, 20 tội của cha con Quí Ly chưa hề bén gót tội lỗi vượt thời gian và không gian của Chu Lệ cùng những Trương Phụ, Hoàng Phúc, hay Chu Vinh. Vì chiếc ngai vàng nhà Minh, chẳng hạn, Chu Lệ đã giết cháu đích tôn của cha, ám hai anh em, họ hàng.
2. Thổ quân:
Thổ quan và thổ binh là một trong những giai tầng thống trị xã hội Giao Chỉ đô thống sứ ti. Thổ quân chỉ chính thức thành lập từ tháng 2-3/1416, khi Trương Phụ cho lệnh mỗi hộ phải cung cấp ba [3] hay hai [2] đinh. (111)
Trước đó, mới chỉ có lính đánh thuê bảo vệ ba ải Pha Lũy, Chi Lăng và Lưu, cùng hệ thống trục lộ tiếp vận thủy bộ (bảy [7] trạm ngựa, tám [8] trạm thuyền). Từ năm 1406-1407, khoảng hơn 10,000 thổ binh tình nguyện chỉ đường, dẫn lối cho quân Minh đánh chiếm các đồn trại, công sự, và truy đuổi cha con Quí Ly. Thành lập 10 đơn vị bảo vệ [guards], 1 sở kiểm soát hải thương, 100 trạm tuần kiểm, 92 sở thuế buôn bán; xây tường [walls], đào hào [moats] 12 thành (112)
Tháng 2-3/1410, Trương Phụ cũng đặt đồn điền, và các kho mua thóc ở Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam Giang [châu Phong và châu Chân Đăng cũ; tức Lâm Thao, Đoan Hùng và Quảng Oai tỉnh Phú Thọ hiện nay] làm lương. Hơn 8,000 thổ binh ở các đồn điền, và các kho trên. (113)
Cuộc tấn công Mông Cổ do đích thân Chu Lệ chỉ huy ở miền bắc khiến quân số Hán, Tartar hay thổ dân Vân-Quí và Lưỡng Quảng bị thiếu hụt. Lý Bân và Trần Trí ngày càng phải trông cậy ở lực lượng thổ quân Giao Chỉ.
Năm 1426, Kim Lăng cho lệnh tam ti Giao Chỉ đặt 30,000 thổ binh dưới quyền Vương Thông; cho phép Mộc Thạnh đóng cửa các mỏ để có đủ thổ binh tăng viện Giao Chỉ. Ngày 29/6/1426: Trần Trí xin bỏ đồn điền, rút 5,000 thổ binh đánh giặc. (114)
Đáng ghi nhận là không thiếu các quan lại của Quí Ly, vì lý do này hay lý do khác, đã can đảm từ bỏ chức vụ, chống lại quân Minh. Những nhân vật lừng lẫy nhất có Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Súy, v.. v..Họ đã giết quan tướng Minh, phò Giản Định vương, đập tan lòng tự cao, tự đại của Chu Lệ qua những chiến thắng Bô Cô từ 30/12/1408 tới 9/1/1409. Lê Lợi—người anh hùng áo vải Lam Sơn, có thể xuất thân từ hàng ngũ tuần kiểm—nhưng từ năm 1416 đã thu đón nhân tài, hào kiệt ; trong vòng 12 năm nằm đất, gối sương. It khi có một bữa no, nhưng cuối cùng phục hồi được quốc thống. Nhiều nữa, những anh hùng vô danh. Không ai còn ghi nhớ tên tuổi họ. Những cái chết âm thầm, vô danh của họ—của hàng triệu người, ngày này qua tháng khác—biểu trưng cho niềm kiêu hãnh và quốc thống Việt Nam.
3. Chính sách bóc lột kinh tế :
Mục tiêu tối hậu của việc thánh hóa Giao Chỉ là vơ vét thật nhiều, càng nhiều càng tốt, những sản phẩm địa phương. Ngay trong ba [3] năm miễn thuế đầu tiên, Trương Phụ cùng Hoàng Phúc đã thực hiện nhiều cuộc vơ vét, cướp đoạt tài nguyên.
Thứ nhất là kho tàng quí kim và châu ngọc của Đại Ngu mà cha con Quí Ly cướp được của họ Trần. Theo báo cáo của bộ Lại nhà Minh mùa Hè 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh cướp được 1,360,000 shi [thạch] gạo; 235900 voi, ngựa, trâu bò; 8,677 thuyền; 2,539,852 khí giới. Đó là chưa kể số quí kim, cùng các mỏ vàng, bạc, ngọc trai, gỗ quí, lâm sản, hồ tiêu, v.. v.. Từ đầu năm 1407, Chu Lệ cho lệnh Trương Phụ và Mộc Thạnh sử dụng chiến lợi phẩm này một cách tằn tiện, và sẽ ngưng đưa gạo từ Quảng Đông sang. Nhưng cũng đã có dấu hiệu khan hiếm gạo, rồi đến nạn đói trầm trọng vào cuối năm. Qua năm 1408, Bố chính sứ ty đưa ra biện pháp cần kiệm, giảm thiểu số lương thực mọi cấp. Từ nhất tới tam phẩm, lương tháng là một thạch gạo. Tứ phẩm tới ngũ phẩm, lương tháng 8 đấu. Lục phẩm-thất phẩm, mỗi tháng 7 đấu. Bát phẩm trở xuống, 6 đấu. Trung đội trưởng, 5 đấu. (114)
Đáng chú ý là do tình trạng động loạn khắp nơi, cùng những biện pháp chiến tranh kinh tế—hạn chế và cắt đứt lương thực cho các phong trào kháng Minh—đời sống đắt đỏ, vật giá leo thang. Một lạng vàng chỉ mua được 30 yến muối, trong khi 1 lạng bạc mua được 3 yến. (116)
Thứ hai, mở trường thu vàng bạc. Tháng 9-10/1415, bắt dân lên rừng bắt tê. voi, kiếm hương liệu, săn bắn chồn trắng, hươu trắng, rùa chin đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc má; xuống biển mò ngọc trai, hay sống lay lất, bệnh tật trong các mỏ quí kim ở bảy quân Thái Nguyên, Gia Hưng, Quảng Oai, Thiên Quan, Hoàng Giang, Lâm An, Tân Ninh. (118)
4. Về thương mại,
Giao Chỉ sản xuất được một số sản phẩm tiểu công nghệ như tơ mỏng (1668 tấm năm 1417, 1668 tấm năm 1418); sơn mài [lacquer] (2,000 jin năm 1417, 2400 jin năm 1418); Sapan-wood (1500 jin năm 1417, 5,000 jin năm 1418); lông chim bột cá [King-fisher feathers] (2000 bộ một năm 1417, và 1418); và quạt giấy (10,000 cái mỗi năm).
Trong nhiệm kỷ cuối ở Giao Chỉ từ ngày 9/5/1415 tới 26/2/1417, Trương Phụ thực hiện được một số việc công ích. Phụ mở đường bộ tới Hoành Châu [Nam Ninh, Quảng Tây]; đường thủy tới Khâm Châu—đặt các trạm chuyển vận [relay stations] bằng ngựa trên đường bộ, trạm bến thuyền trên đường thủy. (119)
5. Văn hóa:
Để đồng hóa dân bản xứ, Chu Lệ ban hành hai [2] chỉ dụ.
a. Thu hết “sách vở” man di mang về Yên Kinh; Tháng 8/1418, bắt đầu sai người sang thu sách vở của Đại Việt. (ĐVSK, BKTT, X:3ab, Lâu (2009), 2:302 ; Giu (1967), 2:252;
b. Một chỉ dụ khác, cho lệnh bọn Trương Phụ: thăm dò rộng rãi khắp nước, để tìm người tài đức, hoặc có một điều hay, một nghề giỏi. Dùng lễ để sai khiến, tìm cách đưa về kinh đô.” Ít nhất ba quan chức gốc Giao Chỉ được bổ nhiệm phục vụ ở Bắc Kinh, rồi di chuyển lên Sơn Đông. Chu Lệ cũng phong chức tước cho bảy [7] con cháu họ Trần. (120)
6. Tháng 8-9/1414, Hoàng Phúc xin lập văn miếu và đền thờ bách thần. (121) ĐVSK, BKTT, IX:25b, Lâu (2009), 2:296; Giu (1967), 2:249; ĐVSKTB, BK X:31a, The (1997), tr 547; CMCB, XII:41; (Hà Nội: 1998), I:754
Nên ghi nhớ văn miếu thời Minh có hai đặc điểm : chỉ thờ Khổng Khâu và các đệ tử, hay thánh hiền; và, không thờ tượng g ỗ, hay tượng đất. Để chứng tỏ lòng tôn kính bậc Chí Thánh, người ta mang chôn các tượng. [Xem Phụ Bản II]
Trong vòm cung thần thánh, ngoài Ngọc Hoàng thượng đế, Phật tổ, được thêm vào các thần sông, núi, hồ, ao, sấm, chớp, mây, mưa, gió, v.. v..
7. Giáo dục:
Tháng 11-/12/1414, Bành Đạo Tường xin mở trường học.Tại Giao Chỉ có năm [5] loại trường chính: trường thuốc, trường âm dương, trường Phật học, trường đạo Lão và trường Nho giáo.
Nho sinh tại 12 trường cấp phủ, 19 trường cấp huyện, nhưng phải dùng thày giáo bản xứ. Các trường đạo Lão, đạo Phật, đạo quan, thiền viện, trường thuốc còn để lại rất ít thông tin. (122)
Tháng 2 Kỷ Hợi [1419]: Phát tứ thư ngũ kinh, truyền kinh Phật, v.. v .. (123)
Theo sự đánh giá của phái đoàn kiểm soát năm 1419, trình độ các học sinh rất kém. Một trong những lý do là vẫn phải sử dụng các thày người bản xứ. (124)
Từ tháng 7 Đinh Hợi [1407], kén chọn những người tài giỏi, học thức, đưa về Kim Lăng huấn luyện. Mỗi châu, phủ phải lựa những học sinh xuất sắc để gửi vào đại học Kim Lăng, hay Bắc Kinh [do nhà Nguyên thành lập].
Tháng 10-11/1415 [9 Ất Mùi, 3/10-1/11/1415], Hoàng Phúc còn đưa các tăng đạo, nhà nho, thày thuốc qua Kim Lăng. (125)
Năm 1418, có 30 du học sinh Việt tại Kim Lăng. (200:3b) Mười năm sau, ít nhất 160 du học sinh Việt ở Bắc Kinh phải về nước. (126)
8. Năm 1419 [Kỷ Hợi], lập chế độ “hộ thiếp” để kiểm soát dân chúng về thuế má và sưu dịch. Mỗi 110 hộ lập ra 1 lý trưởng, có 10 giáp trưởng giúp việc. (127)
9. Cho lệnh dân không được cắt tóc. Phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài như người phương Bắc. (128)
Ngày 26/7/1419, bắt man di để tang cha mẹ ba năm; (theo yêu cầu của Lu Wen-zheng]; (129)
Kết Từ:
Năm 1428, sau mười hai năm hưng binh đuổi giặc ngoại xâm—một loại giặc cướp nước tàn nhẫn nhất, đứng đầu bảng tội phạm diệt chủng trong lịch sử thành văn của nhân loại—Bình Định vương Lê Lợi (10/9/1385-5/10/1433) khôi phục được giang sơn, giành lại tự chủ, lập nên nhà Hậu Lê (29/4/1428-12/7/1527). Mặc dù cá nhân Lê Thái tổ không được Chu Chiêm Cơ (Tuyên Tông, 1425-1435) phong vương, mà chỉ được tạm quyền việc nước, và phải cống lễ hang năm rất cao, kể cả hai tượng người bằng vàng, bạc, cúi đấu, khoanh tay—nhưng Đại Việt được thực sự tự trị. Rồi năm 1436, Chu Kỳ Trấn (Minh Anh Tông, 7/12/1435-1449, 11/2/1457-23/2/1464) gia phong cho Lê Thái Tông chức An Nam Quốc Vương— tức trả lại vị thế nước chư hầu như cũ.
Thật khó ngờ, chỉ một thế kỷ sau, tới lượt tội phạm lịch sử Mạc Đăng Dung (12/7/1527-1530-TTH, 11/9/1541) và con cháu, viết thêm những trang sử ô nhục hơn nữa của “An Nam đô thống sứ ti”—tức một đơn vị quân chính cấp phủ, gồm 13 lộ, do một man soái được ban chức quan tùng nhị phẩm, trông coi. Đơn vị quân chính này liên hệ với hai quân khu đông bắc và tây bắc (bao gồm lãnh thổ Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, và Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên). Tình trạng “mất nước” này kéo dài tới tháng 3-4/1647, gần ba năm sau ngày Mãn Thanh xóa bỏ Đại Minh trên bàn cờ chính trị Á Châu ngày 6/6/1644. Rất ít người biết rằng đích thân Thanh Đô vương Trịnh Tráng đã gửi biểu xin phong vương cho Lê Thần Tông, nhưng bị Chu Do Kiếm (Si-zong, 2/10/1627-24/4/1644) chối từ, lần cuối vào ngày 18/11/1640. (127)
Đọc kỹ những trang Minh thực lục, điều đáng chú ý nhất là vai trò chủ động của Chu Lệ trong cuộc xâm lăng An Nam, nhưng được tô hồng chuốt lục là trừng phạt bọn tội phạm cha con Quí Ly, và cứu khổ cho “man di” Giao bị hành hạ. Man di là thuật ngữ được hầu hết viên chức Minh, từ Chu Đức Dụ, Chu Lệ trở xuống sử dụng. Lời so sánh võ công của Trương Phụ với Mã Viện gần 1400 năm trước nói lên ít nhất hai điều. Thứ nhất là sự thiếu hiểu biết lịch sử và/hay thói quen xuyên tạc lịch sử của Chu Lệ nói riêng, và vua quan Trung Hoa nói chung (kể cả Chu Đức Dụ). Nếu võ công Mả Viện quả thực to lớn, những người như Tiết Tông, Sĩ Tiếp hay danh nhân tị nạn ở Giao Chỉ cuối thời Đông Hán đã ít nhiều nhắc đến. Mã Viện thực ra được thần thoại hóa để biện minh [justify] cho hành động xâm lăng cổ Việt và Lâm Ấp [Lin-yi] từ đời Tùy-Đường [hoặc trước 446, khi Phạm Việp, soạn giả nguyên bản Hậu Hán Thư [Hou Hanshu] mất]. Năm 1950, khi tiếp đón những cố vấn quân sự Trung Cộng sắp sang Việt bắc, giúp sáu [6] đại đoàn Việt Minh lớn mạnh lên trong thời gian đánh Pháp, Mao Nhuận Chi (Trạch Đông, 1949-1976) cũng nhắc đến Mã Viện, nhưng thêm rằng họ đã được Linov Nguyễn Sinh Côn (1892-1969) và Đảng Cộng Sản Việt Nam mời sang; cửa Mục Nam quan (tức Trấn Nam Quan trước 1885-1897) sẽ mở rộng đời đời, không giống Mã Viện, bị lên án là xâm lược, và dính líu vào việc trộm cắp châu ngọc, sừng tê giác, v.. v… (128)
Điểm nổi bật thứ hai là Chu Lệ đã tích cực theo dõi và điều khiển cuộc chiến từ xa. Với những lão tướng như Mộc Thạnh hay Trương Phụ, Chu Lệ chỉ chú trọng đến khía cạnh chính trị—như cách sử dụng thổ binh, thổ quan, hay ra những lệnh ân xá nhằm phục vụ những mục tiêu quân sự nhất thời. Một mặt, Chu Lệ trang trọng đại xá, và cho những thái giám thuộc Đông Sở như Mã Ký [Ma Qi], Sơn Thọ [Shan Shou] đích thân tiếp xúc các lãnh tụ kháng chiến đang lên. Ngay đến Trần Quí Khoáng, hay Trùng Quang Đế, đã bí mật xin hàng Mộc Thạnh từ năm 1408, và nhận chức Bố Chính sứ vào tháng 1/1411. Khi thông báo cho Trương Phụ việc này, Chu Lệ vẫn mở đường cho Phụ khi qua Giao Chỉ lần thứ ba là có thể tùy nghi hành động. Bởi vậy, sau khi dâng biểu nói Trùng Quang Đế là kẻ hai mặt, Phụ thẳng tay tàn sát thuộc hạ của vương. Các sử quan Việt đã qui mọi tội ác dã man cho cá nhân Trương Phụ, Sư Hữu, Trần Trí hay Phương Chính, nhưng thực tế họ chỉ ở mức thừa hành, kẻ gây tội ác lớn nhất là chính Chu Lệ, một sát nhân gian xảo, dùng bất cứ phương tiện nào để đạt mục tiêu xâm chiếm, và đồng hóa “man di.” Hình như Chu Lệ không chút ưu tư về cảm nghĩ và ước muốn của hàng triệu người không muốn bị đồng hóa, và tôn quí sự tự chủ của đất nước, dân tộc. Che dấu tội ác diệt chủng của mình bằng những khẩu hiệu rỗng tuếch kiểu hoằng dương thánh giáo, và luật pháp của xã hội đội mũ, mắc áo, đi giày, ngồi ghế, di chuyển bằng kiệu võng, chiến xa. Tất cả 20 tội ác của cha con Quí Ly đều hiển lộ qua cuộc xâm lược thất bại Đại Việt năm 1406-1428 của Chu Lệ.
Đáng ghi nhớ là từ năm thứ 17 của cuộc xâm chiếm Đại Việt, cuộc chiến kháng Minh ngày một mãnh liệt, trong khi tinh thần phản chiến lan tràn trong xã hội Minh. Nhiều quan tướng Minh đào ngũ, hay tìm cách trì hoãn ngày vào Giao Chỉ. Quan tướng chỉ huy nhiều người bị trừng phạt vì quá tàn bạo, hay thất trận. Một số tướng từng được trọng thưởng từ 1407 tới 1415, như Phương Chính, Trần Trí, đã bị Cẩm y vệ và hành nhân xích giải về Bắc Kinh; rồi gửi trả lại Giao Chỉ để lập công chuộc tội. Có người, như Sư Hữu, trên đường giải giao về kinh đã tự tử vì quá lo sợ hay phẫn nộ. Nhiều tướng dày dạn kinh nghiệm chiến trường theo nhau tử trận (như Trần Húc, Trần Trung, Hoàng Trung, Trần Hiệp) hay bị thời tiết đốn hạ (trường hợp Hàn Quan năm 1414, Lý Bân năm 1422). Những người mới tới đều chỉ lo tự bảo toàn. Ngay đến Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh—Tổng binh quân khu Vân Nam, ba lần mang ấn Chinh Di tướng quân tại Giao Chỉ—cũng mất dần tự tin, lo tự bảo vệ hơn tích cực “dẹp giặc.” Vương Thông, Tổng Binh thứ sáu, theo nhận xét của sử thần Minh, cũng thay đổi hẳn mắt nhìn về cuộc chiến, không thể “hoàn hồn” từ sau các trận Ninh Kiều, Tốt Động vào cuối năm 1426, hai lần tự ý xin giảng hòa với Bình Định vương Lê Lợi—và cuối cùng, vì thấy không thể có viện binh, đã làm lễ hội thề ngày 10/12/1427 (theo tài liệu Việt), hoặc 12/11/1427 (theo Minh thực lục), để an toàn rút lui. Mặc dù Chu Chiêm Cơ [Xuanzong, Tuyên Tông, 16/6/1425-31/1/1435] sau này trừng phạt Vương Thông và năm thuộc hạ, tịch thu tài sản, tống giam, cách làm thường dân—hay ngày 12/7/1428 xử tử, tịch thu tài sản của chưởng Giao Chỉ Đô thống sứ ti Thái Phúc[Cai Fu], chỉ huy trưởng kỵ mã Chu Quảng và bốn [4] người khác về tội đầu hàng và khuyến khích đồng đội đầu hang địch quân—nhưng họ mới chính là ân nhân cứu mạng của gần 90,000 binh sĩ và quan lại Minh được về nước. Thất bại nào cũng cần những vật tế thần như Vương Thông, Mã Anh, Phương Chính; hay những loại ruồi nhặng chiến tranh vo ve chính nghĩa bảo vệ thuộc địa, như những đại thần Minh ký vào tờ biểu xin Chiêm Cơ xuất quân đánh Lê Lợi, và trừng trị Vương Thông cùng thuộc hạ, sau cuộc thảm bại 1428.(129)
Dù, đã hẳn, như Vương Thông viết trong tờ biểu ngày 22/2/1428, Lê Lợi đã “thành khẩn xin hàng, xin tiếp tục cống lễ, theo điều kiện đời Đức Dụ.” (130)
Bài toán “Đại Ngu” cho thấy Kim Lăng đang có cơ hội bằng vàng đánh chiếm “đất cũ,” hay “lấy lại đất,” nếu muốn. Các vua cuối nhà Trần hèn kém đến độ thua trận cả Chiêm Thành—một xứ có nghề chuyên nghiệp là cướp biển. Cha con Quí Ly thì có lẽ mắc chứng tâm thần, tự xưng là dòng giõi Ngu Thuấn mà ngay một nho sinh mời nhập môn cũng hiểu chỉ là thần thoại. Chẳng phải do vô tình mà Chu Lệ nhắc đến tội bất kính với tổ tiên, thay tên đổi họ, tự vinh danh mình bắng liên hệ huyết thống với vua thánh—và cá nhân Quí Ly cùng Hán Thương cho rằng mình còn tài giỏi hơn Tam hoàng, Ngũ đế. Ngắn và gọn, Chu Lệ muốn nhân cơ hội động binh, đặt Giao Chỉ hay Giao Châu trở lại bản đồ. Mở mang bờ cõi và uy thế là một thứ thuốc phiện tinh thần, rồi sẽ khiến Chu Lệ chết ở một hoang vực đất bắc, âm thầm đưa về Bắc Kinh mới phát tang năm 1424. Lối lý luận rằng cướp đất, cướp dân, trộm cắp tài nguyên thiên nhiên của Đại Việt chỉ vì không muốn thấy kẻ phạm tội không bị trừng trị, hay đám dân chúng khổ sở không được cứu giúp chỉ là ngụy biện. Trương Phụ có thể giết được Nguyễn Biểu, hay bắt Bùi Bá Kỳ về Kim Lăng, nhưng sự thật chỉ là sự thật. Những tên bạo chúa, thực dân, tội phạm chiến tranh như Lưu Triệt, Chu Lệ, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình v. v.. sẽ chịu tiếng nhơ muôn đời trong lịch sử nhân loại. Chỉ trong ba năm 1407-1409, nỗi khổ sở, tang thương của người dân Việt chất chồng thêm nhiều lớp. Gạo không có mà ăn vì hơn 13 triệu thạch gạo đã bị trộm cướp để nuôi dưỡng đạo quân viễn chinh, cùng đám thổ quan, thổ binh lên tới khoảng 30,000 người. Và giao bán cho những Hoa thương. Sở kiểm soát ngoại thương ở Vân Đồn cho thấy thị trường phục vụ chiến tranh của Giao Chỉ phát triển khá mạnh trong những năm đầu. Trong khi đó, từ Thanh Hóa vào nam, cấm dân trồng lúa, khiến nghĩa quân phải làm những chuyến phiêu lưu ra bắc tìm thực phẩm. Từ đầu năm 1408, Hoàng Phúc còn cho lệnh khai thác mỏ vàng, mỏ bạc ở bảy tiểu khu. Giao cho hai đô ty và bốn phó đô ty, cùng 21 án sát huyện và hai tri phủ điều khiển. (131)
Dân chúng bị cưỡng ép đi mò ngọc trai, trồng hồ tiêu, cùng sưu cao, thuế nặng—thuế ruộng, chẳng hạn, tăng 300% bằng cách tự động nhân gấp ba số ruộng mà mỗi hộ làm chủ, khiến số người lang thang, vất vưởng, vô gia cư, vô nghề nghiệp ngày một tăng. Đó là chưa kể bản tính độc ác, khát máu của Trương Phụ cùng tùy tướng. Chỉ nguyên một trận Đa Bang đêm 19 rạng 20/11/1406, và trận thủy chiến trên sông Lỗ ngày 8/2/1407 Trương Phụ cùng đồng đảng đã giết gần 40,000 người..Tiếp đến các trận Hoàng Long, Muộn Hải hay Hàm Tử, trận nào số lính Việt chết trận cũng tính gọn 5,000 hay 10,000 thủ cấp. Số người chết đuối thì luôn luôn không thể kiểm kê. Trương Phụ và tùy tướng còn rất thích bêu đầu người chết, hay chất xác thành đống để dọa nạt dân Việt về “sức mạnh và quyết tâm của quan quân”— nhưng thực tế chỉ là những tên cướp nước, ỷ thế mạnh, người đông, sống ngoài vòng luật pháp quốc tế, tự tô son trát phấn những nhân, nghĩa, mệnh trời, mệnh đất cai trị “thiên hạ,” giáo hóa di mọi bốn phương. Sau này, năm 1428, Nguyễn Trãi đã cảm khài viết lên những lời đại cáo ngắn gọn, xúc tích như “Tát cạn nước biển Đông cũng không đủ rửa sạch vết nhơ; Chặt hết trúc núi Nam không đủ thẻ ghi tội ác.” (132)
Người chép sử Việt sau này hẳn sẽ còn nhiều cơ hội ghi thêm những tội ác diệt chủng [genocide], tội ác chống nhân loại [crimes against Humanity], tội ác chống nhân quyền [crimes againsr Human Rights], xâm lược [aggression], sát nhân [murder], tra tấn [torture], hãm hiếp [rape], trộm cướp [theft], trấn lột [roberry] của những kẻ chỉ biết dùng gươm đao, thương, giáo, cung tiễn, rồi đại bác, bom chùm, bom nổ cao, hay bom nổ chậm; ở các vùng biên giới, những tiểu quốc mà Hán tộc tự nhận là “đất cũ” để có cớ khởi binh, cướp bóc. Trong suốt hơn 1,000 năm qua, lịch sử thành văn của Đại Việt và thế giới đã liệt kê khá đầy đủ tội ác của bầy tội phạm quốc tế ở Bắc Kinh. (133)
Madison, Wisconsin, 4/1979- Houston, Texas 7/2015.
Vũ Ngự Chiêu
Chú thích:
1. Geoffrey Wade, Southeast Asia in Ming shi-lu [Minh thực lục], An Open Access Resource, trans into English (National University of Singapore database: 2005), Taizong [Thái Tông], juan [quyển] 65:1b-2a, 65:5ab, 67:4b, MSL (bản Zhongyang), vol 11, pp 0916/17, 0923/24. 942. [Sẽ dẫn Ming shi-lu, [reign title] (Wade, NUS database)]. Một kho tài liệu quí báu, nhưng cần thận trọng, vì những sai lầm sơ đẳng như kỷ “Taizong,” tức Chu Lệ, thay vì Zhengzu; Hongwu [Hồng Vũ] 35 tương đương 1402; Đặng Cảnh Chân, Đặng Cảnh Dị thay vì Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị.
2. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan 68:1a-3b, 3b-7a; MSL, vol 11, pp 0943/48, 0948/55; [q. 68, tr 943];
3. Quốc sử quán nhà Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM], Chính Biên [CB], XII:20-21, XXVII:32-34; bản dịch Hoa Bằng, Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm, et al., 2 tập, (Hà Nội: Giáo Dục, 1998), I:733-737, II:118-120; Ming shi-lu, Shizong (Wade, NUS database), juan 221:6a-7a [14/3/1539], 248:1b-5a [29/4/1541], MSL, vol 82, pp 4966/73], 268:3ab [16/12/1542], & Shenzong, 315: 4ab [25/11/1597]; Quốc sử quán nhà Lê, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [ĐVSK, BKTT], Nội các quan bản, IX:2b, XVI:6a, bản dịch Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long, et al (2009), 2:273, 3:152; & Quốc tử Giám tàng bản, Cao Huy Giu, et al (Hà Nội: 1967), 2:286-287n10 [không đúng ngày]; Quốc sử quán nhà Nguyễn [Tây Sơn], Đại Việt Sử Ký Tiền Biên [ĐVSKTB], BK X:2ab, bản dịch Dương Thị The, et al (Hà Nội: 1997), tr 525 [không đúng ngày]; Lê Quí Đôn, Đại Việt thông sử, bản dịch Ngô Thế Long (Hà Nội: 1978), tr 272, 280 [bị khuyết, không rõ ai kiểm duyệt . Nhắc đến việc môi giới đầu hàng, nhưng không nêu rõ Mạc [Nguyễn] Như Quế v.. v.. đứng tên trong tời biểu cầu phong]. Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí [LTHCLC] ghi đầy đủ chi tiết; q 46: Bang giao chí (Hà Nội: 1992), 3:203-204 [biểu ngày 30/11/1540 của Mạc Đăng Dung (12/7/1527-28/1/1530, TTH 11/9/1541)], 204-206 [biểu của Nguyễn Như Quế], 206 [chiếu của Chu Hậu Tổng, ANĐTST], 207 [biểu tạ ơn của Mạc Phúc Hải], 207-209 [25/11/1597, chiếu phong Lê Thế Tông (2/2/1573-12/10/1599) làm Đô thống sứ ti, Shizong, juan 315:4ab; 1647, Lê Thần Tông (1619-1643, 1649-1662) làm ANQV; 3-4/1667, Lê Huyền Tông (1662-16/11/1671) làm ANQV; 1788, Lê Duy Kỳ (1786-1789), ANQV]. [Sẽ dẫn Thông sử, Long (1978)]; LTHCLC (1992)]; Lý Văn Phượng [Li Wenfeng], Việt kiệu thư [Yue qiao shu] (1540), reprint, 2 vols, via ĐVSK, BKTT, Giu (1967), phần cước chú;
4. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan 56:4b [25/7/1406, Lão Qua gửi 4000 lính theo Mộc Thạnh]; 84:1a; MSL, vol 11, p 1117 [19/10/1408: trọng đãi cháu nội vua Chiêm];
5. Về giá trị đích thực các rác phẩm cổ thời Trung Hoa, xem Richard E. Strassberg, A Chinese Bestiary: Strange Creatures from the Guideways through Mountains and Seas (Berkeley, CA: Univ of California Press, 2002) [xxii, 314 pp.]. [Shanhaijing [SHJ, Sơn Hải Kinh] [Bestiary: A collection of stories providing descriptions of real and imaginary animals with moral interpretations of their behavior]. 1597 reprint of the Wang Chongqing edition [Vương Trùng Khánh?]. From the Song onward, was variously classified as a work of geography, travel account, religious than topographic [SHJ, p. 36]. [detailed precise description of a place or region]
6. Xem, chẳng hạn, John K Whitmore, Vietnam, Ho Qui Ly and the Ming (1371-1421), New Haven: Yale Univ Southeast Asia Studies, 1987); & “Chiao Chih and Neo-Confucianism: The Ming Attempt to Transform Vietnam;” Ming Studies, No 14 (1977), p 52; Keith W Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley, CA: Univ of California Press, 1983); Wei Yuan (Ngụy Nguyên, 1794-1854), Sheng Wuji [Thành Vũ Ký] (1842), [“Càn Long Chinh vũ An Nam ký;” pp 187-88];
7. Xem thêm John E. Herman, Amid the Clouds and Mist: China’s Colonization of Guizhou, 1200-1700 (Cambridge, Mass: Harvard Univ. Press, 2007); C Paterson Giersch, Asian Border-lands: The Transformation of Qing China’s Yunnan Frontier (Cambridge, Mass: Harvard Univ. Press, 2006). Nasu Yi Mu’egu là vùng trái độn giữa Bắc Kinh và Yunnan. Xem thêm Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia; được trích dẫn trong Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang [Sima Guang], và Cương Mục thông giám của Chu Hy [Zhou Xi].
8. ĐVSK, BKTT, VIII:38ab, 40a, Lâu (2009), 2: 251, 253; Giu (1967), 2:211; Đại Nam Nhất Thống Chí [ĐNNTC], VI: Thanh Hóa, bản dịch Đào Duy Anh, et al. (1997), 2:224, 269-70 [thành nhà Hồ]. Không rõ còn chăng hậu duệ Hồ Hưng Dật, và gia phả cùng tư liệu có khả năng thuyết phục.
9. Ngu : Thiều Chửu, 583, bộ Hổ ; Sima Qian, Shiji [Records of the Grand Historian of China], Benji [Annals] 1: Năm đế; 65-67; Biao [Tables], 13, 3-4, Liezhuan [Biographies], 61 [Shun], (Sima-Burton Watson, 1958), pp 183 [the virtue of the Five Emperors” and “the successions of the Five States” are genuine], 184, 187-188; ĐVSK, BKTT, VIII:33ab, Lâu (2009), 3:244-245.
10. ĐVSK, BKTT, II:2ab, Thọ (2009), 1:396; BKTL, XI:35b-36a, 47b-49a, 52a-56a, Lâu (2009), 2:422, 434-436, 439-443. Năm 1371, Chế Bồng Nga đã xin Chu Đức Dụ ban khí giới và nhạc cụ để chứng tỏ với An Nam rằng Chiêm Thành cũng là một chư hầu của Đại Minh. Đức Dụ chỉ chấp thuận cho Chiêm Thành gửi nhạc công đến Kim Lăng học âm nhạc; Ming Shilu, Taizong, (Wade, NUS data base], juan 67:4b-5a; MSL (Zhongyang), vol 3, pp 1260/61.
11. Quốc sử quán nhà Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Chính Biên [ĐNTLCB], Đệ Nhất Kỷ [I], bản dịch Viện Sử học (Hà Nội: 1963-1978), tập 4:1809-1820, 1963:398; Đệ Tam Kỷ [III], tập 26: 1846-1847, 1972:368-374 [Ca ngợi công lao gìn giữ Cao Miên. Vua phê: Được [Khả].
12. Tội thứ ba [3], năm [5] và 20 trong hịch chinh phạt ngày 19/11/1406, chiếu ngày 5/7/1407 về lý do lập Giao Chỉ đô thống sứ ti [tusi], chia quận huyện và đặt quan lại để giáo hóa mọi rợ [yi] theo văn hóa và pháp luật nội địa; Ming Shilu, Taizong, (Wade, NUS data base], juan 60:1a-4a; MSL (Zhongyang), vol 11, pp 866/71; [19/11/1406, 20 tội ác của cha con “the Li bandits,” Li Ji-li and his son]
13. ĐVSK, NKTT, IV:3a, Thọ (2009), 1:198; Giu (1967), 1:104-5; Nhượng Tống (1944), tr. 167-68,170-72; ĐVSKTB, NK IV:5-6a, The (1997), tr 86-7; CMTB, III:5b-8a; (Sài Gòn: 1970), 3:22-5 [20-35]; (Hà Nội: 1998), I:139-42; Lê Tắc, Annan zhi-luo [An Nam Chí Lược, ANCL], q. V, VII, bản dịch Trần Kính Hòa, (Đại học Huế: 1961), tr 112-13, 147-48 [Lã Đại],148 [Tiết Tông]:
14. Ming Shi-lu, Taizu, (Wade, NUS data base), juan 51:8b-9a, 88:5b; MSL (Zhong Yang) vol 3, pp 1006/07, vol 4, p 1566.. Sử Việt đánh giá thấp ông “vua chơi bời” này. Tên Trần Hạo hay Dụ Tông gắn liền với thuật châm cứu của thày thuốc gốc Mông Cổ Trâu Canh, cùng cách chữa bệnh liệt dương bằng mật người và “loạn luân” [incest]; ĐVSK, BKTT, VII: 1a-10b, 15ab, 20ab, Lâu (2009), 2: 147-159, 165-166, 171-172, 244-245;; ĐVSKTB, BK VII:16b- 17b, 25a, 32a, The (1997), tr 443, 449-450, 455; CMCB, X:1-2, 18 (Hà Nội: 1998), I:624, 639;
15. ĐVSK, BKTT, VIII: 13ab, Lâu (2009, 2:219-220; ĐVSKTB, BK VIII:29b-31b, The (1997), tr 484-485; CMCB, X:39-40, (Hà Nội: 1998), I:666-667. Sử Nguyễn đặt nghi vấn về cái chết của ni sư họ Lê (Gia Từ) năm 1381, và việc Quí Ly giết Đại vương Ngạc, con Nghệ Tông, người mưu cùng Trần Hiện kềm chế Quí Ly. Ming shi-lu hàm ý cả Nghệ Tông lẫn Quí Ly đều có tội giết hai vua Dương Nhật Lễ, được Đức Dụ phong vương, ban ấn năm 1370; rồi Trần Hiện, hay Phế Đế. Thực ra, cha con Quí Ly còn giết thêm Trần Thuận Tông, con út Nghệ Tông, năm 1399. Năm 1406, cơ quan tuyên truyền của Chu Lệ đưa ra “hai chục [20] tội tày trời” của cha con tặc phỉ Lê; Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS data base), juan 60:1a-4a; MSL (Zhong Yang) vol 11, pp 866/71.
16. ĐVSK, BKTT, VII:43b-44b, Lâu (2009), 2:201-202; Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 47:4b-5a. Đỗ Tử Bình là người đưa ra cách thu thuế mới để vơ vét của dân.
17. Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 128:5ab [tháng 12 Canh Thân, 1-2/1380]; MSL, vol 15, pp 2039/40.
18. ĐVSK, BKTT, VIII:13b-14a, Lâu (2009), 2:220; Giu (1967), 2:185; ĐVSKTB, BK VIII:32b, The (1997), tr 486; CMCB, X:41- 42; (Hà Nội: 1998), 1:660; LTHCLC, q XLVI: Bang Giao Chí (1992), 3:191) 
19. Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 194:6b-7a; 196:3a; MSL, vol 7, p 2791. [Xem Phụ Bản I: Các Vua Trần, 10[20]/1/1226- 23/3/1400].
20. ĐVSK, BKTT, VIII:10b-11b, Lâu (2009), 2:216-18; CMCB, XI:4-7 (Hà Nội: 1998), I:674-677;
21. ĐVSK, BKTT, VIII:12b-14a, 20b, Lâu (2009), 2:219-20, 228.
 22. Ming shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 194:6b-7a , 198:3a; MSL, vol 7, pp 2930/31, 2971
23. ĐVSK, BKTT, VIII:22ab, Lâu (2009), 2:230; Giu (1967), 2:194. ĐVSKTB, BK VIII:12b-13a, The (1997), tr 496-497; CMCB, XI:18; (Hà Nội: 1998), 1:688-689; Xem Phụ Bản II: Lược sử tế lễ Khổng Khâu
24. ĐVSK, BKTT, VIII:22ab, Lâu (2009), 2:230-31; Giu (1967), 2:194. Lý học Tống Nho: của Chu Đôn Di chia làm hai [2] phe: Chu Hy cầm đầu phái tả; Lục Cửu Uyên cầm đầu phái hữu. Trong khi đó, Trương Lượng chống lại cả hai, chủ trương bá đạo, công lợi.
25. ĐVSK, BKTT, VIII:22b-23a, Lâu (2009), 2:231; Giu (1967), 2:194; ĐVSKTB, BK IX:13a, The (1997), tr 496-97.
26. CMCB, XI :18; (Hà Nội: 1998), I:688-89. Về Hán Văn đế, xem Shiji [Sử Ký], banji [bản kỷ], 3. Điều tâm đắc của Hường Nhiệm là thư Lưu Hằng gửi Triệu Đà.
 27. Ming shi-lu, Taizu (Wade, NUS data base), juan 72:2a [Ngày 13/2/1372: Nguyễn Nhữ Lâm [Ruan Ru-lin] nhìn nhận Trần Phủ đã giết cha con Nhật Lễ], 78:7ab [Tháng 1-2 1373: sứ mang biểu nhận lỗi của Nghệ Tông; Đức Dụ trả lại cống lễ]; juan 88:5b [Tháng 4-5/1374: Nghệ Tông xin từ chức vì tuổi già; nhường ngôi cho em là Trần Kính, tức Duệ Tông. Thực ra Trần Kính đã lên ngôi từ ngày 4/12/1372].
28. ĐVSK,BKTT, VIII:33b [14a-34a], 38b, Lâu (2009), 2:245 [220-245], 251;.Giu (1967), 2:205; ĐVSKTB, The (1997), tr 506; CMCB, XI:33-34, (Hà Nội: 1998), I:704-5.
29. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan 12A:7b; 19:1a, 3a-b; 25:1b, 8b, hay, MSL (Zhong Yang) vol 11, pp 866/71; ĐVSKTB, BK IX:36a, The (1997), tr 515; CMCB, XII:2, (Hà Nội: 1998), I:716-717. ĐVSK, BKTT, VIII:43b, Lâu (2009), 2:257. Truyền bản LTHCLC không chép.
30. ĐVSK, NKTT, I:1a, Thọ (2009), 1:150; ĐVSKTB, NK I:1a, 7ab, The (1997), tr 39, 43; CMTB, I :5b-7a (Sài Gòn: 1967), 2: ; (Hà Nội : 1998), I :76- 78. [Xem Phụ Bản III]
31. Tắc, ANCL, I: Cổ tích, 1961:39-41; ĐVSK, BKTT, V:33b, VIII:13b, Lâu (2009), 2:47, 162; ĐVSKTB, BK V:46b, VII:14b-15a, The (1997), tr 353, 441; CMCB, VII:14, IX:46, (Hà Nội: 1998), I:501-502, 618-619. Đa tạ ông bà Triệu Vũ mua tặng một ấn bản ANCL do Đại học Huế ấn hành năm 1961.
(15/3/1329-10/3/1357). (32) .32. ĐVSK, BKTT, V:33b, VII: 10b,13a; Lâu (2009), 2:47 [tháng 4-5/1272, 4 Nhâm Thân],, 159, 162 [tháng 8-9/1345, 8 Ất Dậu]; Giu (1967), 2:38 2:136; ĐVSKTB, BK , V:46b. The 1997), tr 353; LTHCLC, q. 49: Việc biên cương, (1992), 3:280; CMCB, VII:14; (Hà Nội: 1998), I:500-1 [Lâu (2009), 2: ĐVSKTB, BK VII:14b-15a, The (1997), tr 440-441; CMCB, IX:46 (Hà Nội: 1998), I: 618-619.
Sử Lê tỏ ý hoài nghi việc này; vì tháng 9 năm Bính Tuất [16/9- 14/10/1346], Mạnh được thăng chức Chưởng bạ thư, kiêm Khu Mật Tham chính; nhà Nguyên sắp loạn to]; Sư Mạnh được thăng chức, tại sao có thể đi về nhanh như vậy; (ĐVSK, BKTT, VII:13a, Lâu (2009), 2:162; Giu (1967), 2:136) Ngô Thì Sĩ giải thích rằng có thể Phạm Sư Mạnh chỉ tới Quảng Đông rồi trở về, và thăng chức; ĐVSKTB, The (1997), tr. 442 LTHCLC, (1992), 3:261; CMCB, IX:46; (Hà Nội: 1998), I:619).
33. Fan Ye, Hou Han Shu [HHS/HHT], zhuan 86/76; Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS data base), juan 43:3ab, 51:8b-9a; MSL, vol 3, pp 1006/07 [10/5/1370, nhắc đến Mã Viện].
34. Mingshi-lu , Taizu (Wade, NUS database), juan 250:3b-7a ; MSL (Zhongyang), vol 8, pp 3620/27; ĐVSK, BKTT, VIII :47b-48a, Lâu (2009), 2:262 [Lộc Châu, Lạng Sơn]; Giu (1967), 2:219 ; CMCB, XI:13, (Hà Nội: 1998), I:720-21 [I:683-84]); ĐNNTC, q XXIV: Lạng Sơn (1997), pp 366-367
35. Ming Shi-lu, Taizu, (Wade, NUS data base), juan 250:3b-7a; MSL, vol 8, pp 3620/27; .ĐNNTC, XXIV: Lạng Sơn, (1997), 4:366-367.
36. Ming Shi-lu, Taizong, (Wade, NUS data base), juan 38:3b-4a. 43:4ab, 44:3a.
Sử Việt: Tháng 9-10/1405 [Tháng 9 Ất Dậu, 29/9-10/1405], Hán Thương sai Phạm Canh và Lưu Quang Đĩnh theo Niếp Thông lên Kim Lăng; ĐVSK, BKTT, VIII:48b-49a, Lâu (2009), 2:263; Tháng 8-9/1405 [Tháng 8 Ất Dậu, 25/8-28/9/1405], Chu Lệ sai Nguyễn Tông Đạo đi An Tôn; Tháng 9-10/1405, Hán Thương biếm Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cử Nguyễn Ngạn Quang làm Tuyên phủ sứ kiêm tri sự Tân Ninh. (ĐVSKTB, BK IX:41a, The (1997), tr 519; CMCB, XII:8-9, (Hà Nội: 1998), I:722). Đông lộ thái thú Hoàng Hối Khanh đắp thành Đa Bang [khoảng núi Ba Vì, tây Hà Nội 50 cây số]; ĐVSK, BKTT, VIII:49ab, Lâu (2009), 2:264-265, 264chú1; ĐVSKTB, BK IX:41b, The (1997), tr 519; CMCB, XII:9, (Hà Nội: 1998), I:723;
37. Ming shi-lu, Yingzong (Wade, NUS database), juan 72:5ab ; MSL,vol 25, pp 1397/98 [300 lý bắc Phân Mao, 200 lý đông trụ đồng; Fenmao Range in Qin prefecture has marked the north-west border. An Nam occupied 300 ly this side of the Fen-mao Range, and over 200 ly this side of the bronze pillar]. Nguyễn Trãi, et al, Dư Địa Chí (1434), Nguyễn Trãi Toàn Tập [NTTT], 1976, tr 225-226.
38. ĐVSK, BKTT, XII:1b, Lâu (2009), 2:575.
39. Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS data base), juan 250:3b-7a; Shizong, juan 248:1b-5a, MSL, vol 82, pp 4966/73 [trả lại hai đô Như Tích [Ru Xi] và Chiêm Lăng [Tie Lang], cùng bốn động Tê Phù [To Fu/Si-lim], Kim Lặc [Jinle], Cổ Sâm [Gu-sen], Liễu Cát [Liao-ge]; LTHCLC, q 49: Việc biên cương, 3:291; ĐNNTC, XVIII: Quảng Yên (1997), 4:7-9; XXIV: Lạng Sơn, 4:366- 367. ANCL:.q. IV, 1961:92.
40. Ming shi-lu, Shizong (Wade, NUS database], juan 193:8ab, 195:1a-2a; MSL, vol 80, pp 4115/17;
41. Ming shi-lu, Shizong (Wade, NUS database], juan 197:2b-3a; MSL, vol 80, pp 4156/57;
42. Ming shi-lu, Yingzong, (Wade, NUS database), juan 199:2a-3a; ĐVSK. BKTB, XVI:3ab, 4a-5b, 6a, Lâu et Long (2009), 3:149, 150-51, 152; CMCB, XXVII:31-33; (Hà Nội: 1998), II:113-115; LTHCLC, 46: Bang Giao Chí, (1997), 3:203;
44. Ming Shi-lu, Shizong (Wade, NUS data base), juan 210:5b; 221:16a- 17a [14/3/1539]; 227:8a-9a [8/9/1359], MSL, vol 80, p 4344, vol 81, pp 4593/95, 4719/21 (Tên Trấn Nam Quan xuất hiện lần đầu trong chỉ thị của Mao Bá Ôn gửi Nguyễn Văn Thái [Ruan Wen-tai] ngày 26/4/1538; Jiajing 221:1b-7a; nhưng chỉ ghi trong sử Việt từ 1540; ĐVSK, BKTT, XVI:3ab (Lâu et Long (2009), 3:149).
45. ĐVSK. BKTB, XVI:3ab, 4a-5b, 6a, Lâu et Long (2009), 3:149, 150- 51, 152; CMCB, XXVII:31-33; (Hà Nội: 1998), II:113-15)
46. Mingshi-lu, Taizong, (Wade, NUS, database) juan 63 (2ab), 64 (1a, 2a), 65 (1b-2a, 3ab), 66 (4ab), 79 (2a), 82 (6b-7a) .; MSL, vol 11, pp 0916/17; entry 17/4/1407]. Học giả thế giới đã sử dụng các tài liệu này từ thập niên 1970 và 1980, như chi tiết “hơn 1100 kỳ lão” hay “hơn 9,000 hiền tài” làm quan cho xâm lược Minh]; [Mac Thuy and 1100 gentry came to Zhang Fu’s camp and told him that the Tran family have all killed by “the Le thief.” There was no heir left to inherit the throne. Please revert Annam as a prefecture like before so that we can gradually eradicate barbarian culture and forever immerse in Saintly culture”]; John K Whitmore, “Chiao Chih and Neo-Confucianism: The Ming Attempt to Transform Vietnam;” Ming Studies, No 14 (1977), p 52 Ming shi-lu, Taizong, vol 66, p 0917]; & Idem., Vietnam, Ho Qui Ly and the Ming (1371-1421), New Haven: Yale Univ Southeast Asia Studies, 1987); Keith W Taylor, The Birth of Viet Nam (Berkeley, CA: Univ of California Press, 1983), Xem thêm, Truong Buu Lam, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnam Relations, 1788-1790;” in John King Fairbank, (ed) The Chinese World Order: Traditional Chinese Foreign Relations (Cambridge, Mass: Harvard Univ Press, 1968), pp 165-179, 321-26 [notes] [sử dụng Đại Thanh Lịch Triều Thực Lục (Tokyo: 1937-1938), 1315:7ab [có lẽ là ngày lịch ta, 21/10 Mậu Thân, tức 16/11/1788].
48. Ming Shi-lu, Shizong (Wade, NUS data base), juan 36:2a-3a [11/5/1540], 238:9a-b [31/7/1540]; MSL, vol 81, pp 4815/17, 4849/50.
49. Ming Shi-lu, Shizong (Wade, NUS data base), juan 241:4b [20/10/1540]; MSL, vol 81, p 4880.
50. Ming shi-lu , Shizong (Wade, NUS database), q 248:1b-5a; 249:2b- 3a ; MSL,vol 82, pp 4966/73 [trả lại hai đô Như Tích [Ru Xi] và Chiêm Lăng [Tie Lang], cùng bốn động Tê Phù [To Fu], Kim Lặc, Cổ Sâm [Sum], Liễu Cát]; ĐNNTC, q. XVIII: Quảng Yên, (1997), 4:8-9. LTHCLC, 46: Bang Giao Chí, 3:203; ÐVSK, BKTB, XVI:2b, 3b, Lâu et Long (2009), 3:148-149, Giu (1967), 3:132-33; CMCB, XXVII:32-33; (Hà Nội: 1998), II:115-16). Minh sử (q.32) [Thông sử của Lê Quí Ðôn thiếu đoạn này;
Thông sử, Long (1978), tr 272 [truyện Mạc Ðăng Dung không dịch hay tự kiểm duyệt] (Hậu Lê sử chép là 1 châu, 6 động (thêm hai động Yên Lãng và La Phù; nhưng. Khâm Châu Chí ghi một [1] châu, bốn [4] động. Vương Tương nhà Minh lấy sông Đàm Lân làm ranh giới Kim Lặc; sông Mang Khê làm ranh giới Liễu Cát; ngã ba sông làm ranh giới Tư Lẫm [Tư Phù]; sông Cổ Sâm làm ranh giới Cổ Sâm]). 42. Ming shi-lu, Shizong (Wade, NUS database],juan ;
51. ĐVSK, BKTB, XVIII :40b, Long & Lâu (2009), 3 :292 [291-292] ; CMCB, XXXII :3-4 (Hà Nội : 1998), II :257-258.
[Tháng 5 Đinh Hợi [3/6- 1/7/1647], Quế vương phong Lê Thần Tông (1619-1643, TTH 1643-1648, 1648-1662) làm ANQV. Chấm dứt tình trạng An Nam Đô sứ ti. “Trẫm nghĩ cột đồng nhà Hán dựng lên, cõi nam yên vui.”]
Tháng 10 Tân Mão [13/11-12/12/1651]: Quế vương phong Trịnh Thanh Vương làm An Nam Phó Quốc Vương ; ĐVSK, BKTT, Lâu & Long (2009), 3:294; CMCB, XXXII :18 (Hà Nội : 1998), II :261-262;
5/2/1647: Đinh Hợi, Quế vương bỏ chạy ra Quế Lâm; đổi niên hiệu Vĩnh Lịch. ĐVSK, BKTT, Lâu & Long (2009), 3:291; 1651 : Quế vương ở Nam Ninh. Xin nhà Lê tiếp viện
52. ĐVSK, BKTB, XIX:16ab, Lâu & Long (2009), 3:332; CMCB, XXXIII:21 (Hà Nội : 1998), II :317. Năm Vĩnh Trị 10 [tháng 10 Kỷ Tị, 1689], Khang Hy trả lại châu Lộc Bình Na Oa. Năm 1723, hay Ung Chính 1, [đời Ải Tân Giác La Dẫn Chân (Thanh Thế Tông, 1723-1735), Tổng đốc Quảng Tây chỉ thị cho thổ quan châu Tư Lăng Vi Thế Hoa trả cho Vi Phúc Kiêm, thổ quan châu Lộc Bình, 400 lạng bạc. (ĐNNTC, (1997), 4:366-367. Sử Nguyễn ghi là 4,000 lạng bạc; CMCB, XXXIV:23-24; (Hà Nội: 1998), II:360-362)
53. Xem, chẳng hạn, Chính Đạo, “Trụ Đồng Mã Viện: Sự Đàn Hồi Của Biên Giới Đế Quốc Trung Hoa;” Hợp Lưu Magazine (Fountain Valley, CA), số 110 (Tháng 6-7/2010), tr 5-36; tu chỉnh năm 2014]; Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ, “Hai Bà Trưng: Một Gương Sáng Ngàn Đời;” hopluu.net; minhtrietviet.net; & vietnamvanhien.net.
54. Như Thuần: Nhật trung ư đầu, ảnh tại kỳ hạ, cố hựu danh tỉ ảnh; CMTB, II:5b, 6a; (Sài Gòn: 1967), 2:160-63; (Hà Nội: 1998), I:110. Cũng có tin huyện Tượng Lâm, Nhật Nam, được Ma Yuan [Mã Viện] lập ra sau khi đả bại cuộc nổi dạy của hai bà Trưng (40-43). ĐVSKTB, The (1997), tr78.
55. TKCS, ch 36, Mão, (2004), tr. 364-65; ĐVSK, NKTT, III, Giu (1967), 1:99-100, 320n22; CMTB, II:6a; (Sài Gòn 1967), 2:162-63; 246-49; (Hà Nội: 1998), I:110. [Theo Trương Bửu Lâm, Từ Hải chép rằng tác giả Ngũ Sùng Diệu, không phải Âu Đại Nhâm. (Ibid., II:47,chú 1)]. [ĐVSKTB ghi vào đời Tấn Minh Đế] Đến đời nhà Minh (1368-1644), Ngũ Sùng Diệu [Âu Đại Nhâm?] tác giả Lĩnh Nam di thư còn nhắc lại sự cố trên.
56. TKCS, ch 36, Mão (2004) tr 364, 373. Xem thêm lời chú của Ngô Sĩ Liên trong Dư Địa Chí, số 54: bóng thước đo ngày 5/5 âm lịch tại Giao Châu là 3 tấc, 3 phân về phía nam; vì đường thẳng từ Đại La tới Kim Lăng chỉ có 60 lí [sic]; NTTT, 1976:246
57. ĐVSK, BKTT, VI:20a, 22ab, VII:17a, Lâu (2009), 2:111, 113, 157, Giu (1967), 2:162, 168-170, 178.
58. ĐVSK, BKTT, VIII:17ab, 18ab, Lâu (2009), 2:224-225; Giu (1967), 2:175 ; CMCB, XI:11-13 (Hà Nội: 1998), I:681-683;.
59. ĐVSK, BKTT, VIII:39b-40a, Lâu (2009), 2: 252; Giu (1967), 2:211 [ghi là Hồ Tùng]; ĐVSKTB, The (1997), tr 509-510 ghi là tháng 12 năm Canh Thìn [16/12/1400-14/1/1401]; CMCB, XI:37-38; (Hà Nội: 1998), I:708- 9.
60. ĐVSK, BKTT, VIII: 40b-42b, Lâu (2009), 2: 253-256; Giu (1967), 2:212-213; CMCB, XII:1 (Hà Nội: 1998), I: 711-715.
61. ĐVSK, BKTT, VIII :44ab, 47b-48a, Lâu (2009), 2:258, 262; Giu (1967), 2:219 ; CMCB, XI:42, 43, XII:1, 3-4 (Hà Nội: 1998), I:712-13, 715, 717-18 [9 thuyền nhà Minh can thiệp năm 1403, sứ đoàn dâng voi năm 1404] ; ĐVSKTB, BK IX:36ab, The (1997), tr 518;: Ming shi-lu, Taizong, (Wade, NUS database), juan [68]:1a-3b;
53. Ming Shi-lu, Taizong, (Wade, NUS data base), juan 33:10b-11b; MSL, vol 10, pp 594/96.
(Phần sau do tác giả đánh số thứ tự nhầm lẫn, ai muốn tra cứu xin xem tại link gốc )