XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

Thông tư Liên Bộ Tài chính-Thuỷ Lợi về vay vốn Kuwait để xây dựng công trình Ayun Hạ


BỘ TÀI CHÍNH, BỘ THUỶ LỢI
...............
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - tự do - hạnh phúc
------------------------------
Số : 74 KH/TL-TC
Hà nội ngày 14 tháng 2 năm 1990

THÔNG TƯ LIÊN BỘ
Về việc vay vốn quỹ Kuwait để xây dựng công trình thuỷ lợi Yazun hạ tỉnh Gia Lai-Kon Tum
..........................................
Công trình thủy lợi YaZun hạ, tỉnh Gia lai Kon tum được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt LCKTKT từ cuối năm 1986. Trong hai năm 1988 -1989 Bộ Thủy lợi và UBND tỉnh Gia Lai Kon tum đã làm công tác chuẩn bị xây dựng như khảo sát, thiết kế kỹ thuật lập tổng dự toán, chuẩn bị mặt bằng thi công xây dựng một số hạng mục công trình ở cụm đầu mối và hệ thống kênh tưới.
Là một công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, có hiệu ích rõ rệt, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Gia lai Kon tum và Tây nguyên đã được ghi là trọng điểm của Nhà nước, nhưng trong 2 năm 1988 -1989 mới thực hiện được 2 tỷ đồng; kế hoạch năm 1990 được cân đối 4 tỷ đồng trên tổng số vốn đầu tư toàn bộ công trình (tính từ kênh cấp 2 trở lên) là 84 tỷ đồng (theo giá quý 2/1989). Nếu không được Nhà nước tập trung đầu tư, công trình sẽ kéo dài thời gian xây dựng, nên cần phải vay vốn của Kuwait để có nguồn vốn đầu tư rút ngắn thời gian xây dựng công trình.
Được sự đồng ý của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tại văn bản số 1575 KTĐN ngày 24/8 năm 1989 cho phép lập các thủ tục vay vốn quỹ Kuwait để xây dựng công trình YaZun hạ, Bộ Thủy lợi đã trực tiếp làm việc với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, Ngân hàng Nhà nước, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia lai Kon tum.
Liên Bộ Thủy lợi - Tài chính trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc vay quỹ Kuwait cho công trình YaZun hạ như sau:
1/ Về đối ngoại: Giao cho Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước chủ trì cùng với Bộ Thủy lợi đàm phán với quỹ Kuwait vay từ 28 - 30 triệu đô la.
2/ Về đối nội:
a/ Nguồn vốn vay được tính vào cân đối ngân sách của Nhà nước, Bộ Tài chính và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cân đối vốn đầu tư hàng năm cho công trình theo tiến độ cam kết.
b/ Nguyên tắc quản lý vốn vay:
1- Phần vốn để mua thiết bị thi công: các xí nghiệp trực thuộc Bộ Thủy lợi cam kết vay và trả vào Ngân sách Nhà nước ngay sau khi thực hiện. Mức lãi được tính theo mức lãi xuất vay của quỹ Kuwait, thời gian trả nợ (vốn và lãi) khoảng 8-10 năm.
Bộ Tài chính và Bộ Thuỷ lợi sẽ có quy định cụ thể.
2- Phần vay đưa vào cân đối ngân sách để đầu tư xây dựng công trình đầu mối, kênh cấp 1 và cấp 2 sẽ do Ngân sách Nhà nước trả, tỉnh Gia lai Kon tum có trách nhiệm vận động nhân dân đóng góp thêm vào việc xây dựng công trình khoảng 10% để dùng cho xây dựng công trình này.
c/ Số tiền đàm phán được với quỹ Kuwait vay bằng tiền mặt sẽ đưa vào quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước để sử dụng theo kế hoạch chung.
d/ Bộ Thủy lợi là cơ quan chủ quản đầu tư và là chủ đầu tư công trình sẽ cùng với địa phương có trách nhiệm thực hiện tốt công trình để sớm phát huy hiệu quả.
3/ Để việc đàm phát vay vốn quỹ Kuwait được thực hiện có hiệu quả, đề nghị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sớm có quyết định để triển khai đàm phán.
BỘ TRƯỞNG BỘ THUỶ LỢI
(Đã ký)

NGUYỄN CẢNH DINH
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
(Đã ký)

HOÀNG QUY


Nơi nhận:
- Như trên, VPHĐBT (V6, V7, V2) - UBKHNN, NHNN
- Bộ KTĐN, NgoạI giao - Lưu HC 2 Bộ và các Vụ có liên quan.







Văn bản liên quan:



Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 50 năm xây dựng và phát triển

1- Sự lớn mạnh và hoàn thiện dần về tổ chức qua những chặng đường phát triển. 


Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (KHTLVN) được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập ngày 10 tháng 5 năm 2007, nhưng Viện vinh dự được thừa hưởng và kế tục truyền thống của tổ chức tiền thân đầu tiên thành lập cách đây đúng 50 năm, là Học viện Thủy lợi - Điện lực. Với nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, đồng hành qua những giai đoạn lịch sử đầy biến động, nhiều khó khăn, nhưng cũng đầy vinh quang của đất nước, Viện KHTLVN hôm nay đã mang một tầm vóc mới, chứa đựng rất nhiều sự kiện đáng được nhắc đến trong ngày lễ kỷ niệm trọng đại này



- Giai đoạn từ 1959 -1963, chặng đường đầu tiên: 



Năm 1959, gần như đồng thời với sự kiện thành lập binh đoàn 559, "xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước ", Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định thành lập Học viện Thủy lợi - Điện lực.  Đến năm 1963, Từ Học viện Thủy lợi - Điện lực, Viện Nghiên cứu Khoa học Thủy lợi (NCKHTL) được tách ra thành một đơn vị độc lập. Đây là thời kỳ đặt nền tảng cho sự nghiệp phát triển khoa học thủy lợi của Viện cũng như của Việt Nam và là thời kỳ khởi đầu gắn công tác nghiên cứu khoa học thủy lợi với thực tiễn sản xuất để khôi phục kinh tế Miền Bắc mới được giải phóng, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Giai đoạn từ 1963 - 1975, chặng đường hoạt động trong hoàn cảnh chống .
Viện đã từng bước hình thành và phát triển hệ thống các phòng, ban chuyên ngành, phục vụ các nhiệm vụ nghiên cứu đa dạng trong thực tế. Đặc biệt, Viện tiến hành các nghiên cứu, thí nghiệm về hàn khẩu đê chống lụt để chủ động đối phó với thủ đoạn tội ác ném bom phá hoại đê điều mùa lũ trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc. Cũng vào thời kỳ này, Viện đã  tổ chức hàng loạt những hoạt động nghiên cứu về thủy nông, chống xói mòn đất, xử lý nền đất  yếu, chỉnh trị sông, nghiên cứu các loại vật liệu xây dựng phục vụ việc tu sửa các công trình như đập Đô Lương, đập Đáy, Vân Cốc, xây dựng mới công trình thủy điện Thác Bà… Đây là những công trình thủy lợi, thủy điện có quy mô lớn và kỹ thuật phức tạp nhất thời bấy giờ.
- Giai đoạn từ 1975- 1990, chặng đường đất nước thống nhất trước thời kỳ đổi mới.
Sau ngày giải phóng miền Nam, công tác nghiên cứu khoa học thủy lợi đã nhanh chóng được triển khai trên cả nước. Năm 1978, với sự ra đời của Phân Viện NCKHTL Nam Bộ, trực thuộc Viện NCKHTL đã triển khai kịp thời nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về cải tạo đất chua phèn, mặn, về xây dựng công trình cống, đập, đê, kè v.v… trên nền đất yếu vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1990, Phân Viện được nâng cấp thành Viện KHTL miền Nam.
+Giai đoạn từ 1990 đến nay, chặng đường đổi mới cùng đất nước:
 Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Viện KHTL và Viện KHTL miền Nam đã phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động, đáp ứng  yêu cầu ngày càng cao của công tác thủy lợi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Ngày 10 tháng 5 năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam (KHTLVN) và được giao phó những chức năng, nhiệm vụ mới đặc biệt quan trọng, để  tham gia trực tiếp và có hiệu quả  vào chiến lược phát triển thủy lợi cũng như  chiến lược phát triển khoa học của ngành, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cơ cấu mới tạo cho Viện cơ chế tự chủ và tinh thần trách nhiệm mới phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức và hợp tác quốc tế sâu rộng. Hiện nay, Viện KHTLVN với gần 1500 cán bộ, viên chức, bao gồm 2 Viện vùng, 7 Viện chuyên ngành, 3 Trung tâm, một Công ty, một Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và một phòng thí nghiệm khu vực phía Nam, với nhiều trang thiết bị thí nghiệm hiện đại đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất cho giai đọan trước mắt và tương lai lâu dài.
2- Sự lớn mạnh nhanh chóng về lượng và về chất trong các hoạt động chuyên môn.
Trải qua nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, những thành tựu mà Viện đạt được luôn gắn bó mật thiết với sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn, phòng chống thiên tai, khai thác tài nguyên nước phục vụ phát triển các ngành kinh tế, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng và  toàn vẹn lãnh thổ.
Chỉ tính trong 20 năm gần đây (giai đoạn 1990 - 2009), Viện đã chủ trì 03 chương trình KHCN cấp Nhà nước, cấp Bộ, tổ chức thực hiện 78 nhiệm vụ nghiên cứu cấp Nhà nước, 157 nhiệm vụ nghiên cứu trọng điểm cấp Bộ, hơn 200 nhiệm vụ nghiên cứu cấp cơ sở. Viện chủ trì biên soạn, sửa đổi nhiều bộ tiêu chuẩn Ngành. Bộ Sổ tay Kỹ thuật thủy lợi (xuất bản 2005) do Viện chủ trì biên soạn là tài liệu tra cứu, hướng dẫn, tham khảo khi thiết kế xây dựng cũng như quản lý khai thác công trình thủy lợi trên phạm vi cả nước, đáp ứng  yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy lợi Việt Nam giai đoạn 2000-2020.
Các đề tài nghiên cứu khoa học của Viện tập trung hầu hết vào các lĩnh vực khoa học mũi nhọn như: Khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước và bảo vệ môi trường; thủy nông cải tạo đất, quản lý khai thác công trình thủy lợi; phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai; ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới phục vụ xây dựng và bảo vệ công trình thủy lợi, thủy điện, năng lượng tái tạo. Cải tiến, thiết kế, chế tạo nâng cao hiệu suất hàng loạt máy bơm, máy chuyên dụng thủy lợi.
●Viện là một trong những đơn vị  đứng đầu trong KHCN về lĩnh vực chỉnh trị sông, phòng chống lũ lụt. Kết quả nghiên cứu của Viện đã cung cấp cơ  sở khoa học, giải pháp kỹ thuật cho việc củng cố đê điều, phòng chống vỡ đê, xây dựng hành lang thoát lũ, góp phần ứng phó, giảm nhẹ thiệt hại qua các trận lũ lịch sử đã xảy ra. Các nghiên cứu của Viện đã được ứng dụng có  hiệu quả cho trên 230 công trình chỉnh trị sông, bảo vệ bờ trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình,  đặc biệt là những công trình chống sạt lở trên sông Cửu Long và nhiều điểm nóng khác trên các tuyến sông biên giới… Góp phần đắc  lực cho việc giữ vững an toàn đê điều phòng chống lụt, an ninh biên giới suốt từ 1971 đến nay.
Viện KHTLVN là cơ quan đầu tiên nghiên cứu ảnh hưởng của hồ chứa NMTĐ Hoà Bình đến lòng dẫn hạ du và đã dự báo những khu vực có khả năng bị xói lở  nghiêm trọng, từ đó nghiên cứu đề xuất các phương án ứng phó, phòng chống kịp thời. Gần đây, Viện được Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao chủ trì, phối hợp cùng các cơ quan khoa học thuộc Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên-Môi trường, xây dựng quy trình điều tiết liên hồ chứa: Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang và Sơn La phục vụ chống lũ hạ du, phát điện, cấp nước. Kết quả nghiên cứu “Quy trình vận hành liên hồ thủy điện Tuyên Quang, Hoà Bình, Thác Bà”đã  được Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào trước mùa mưa lũ năm 2006. Đây là quy trình vận hành liên hồ chứa có ý nghĩa rất lớn đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống công trình đầu mối, phát huy tối đa hiệu quả  kinh tế - xã hội của cả một vùng đất có vị trí quan trọng bậc nhất nước ta.
Về lĩnh vực thủy nông-cải tạo đất, Viện KHTLVN cũng là đơn vị đi đầu trong nghiên cứu đề xuất các quy trình công nghệ, sơ đồ tưới tiêu, cải tạo đất, chế độ tưới tiêu cho lúa và các loại cây trồng cạn. Nhiều mô hình canh tác phù hợp cho các vùng sinh thái khác nhau đã được đề xuất, hàng loạt công trình tạo nguồn như: bơm va, bơm thủy luân, hồ treo v.v…đã được xây dựng để cung cấp nước cho các vùng khan hiếm nước, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo. Kết quả nghiên cứu của Viện về lĩnh vực này đã được áp dụng rộng rãi cho nhiều địa phương trên cả nước, góp phần cải tạo hàng triệu hecta đất chua phèn, mặn vùng Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán đảo Cà Mau v.v.., đưa năng suất và sản lượng lương thực, cây ăn trái tăng lên gấp nhiều lần, cải tạo thành công trên 30 vạn hecta đất vùng trũng đồng bằng Bắc Bộ bị nhiễm chua, mặn, sình lầy thành đồng ruộng 2 vụ, góp phần vào chiến lược đảm bảo an ninh lương thực và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Lĩnh vực KHCN xây dựng công trình thủy lợi, Viện tiến hành rất hiệu quả việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới  đồng bộ, đạt tới sản phẩm cuối cùng. Chính vì vậy, nhiều kết quả nghiên cứu của Viện đã được ứng dụng thực tế, sau đó nhân rộng trên phạm vi cả nước. Hàng loạt đập dàn cọc, đập trụ đỡ, đập sà lan di động, đập cao su v.v.,  là những sản phẩm công nghệ mới của Viện, có giá thành xây dựng chỉ bằng 50-60% so với các công trình truyền thống cùng chức năng nhiệm vụ. Trong loại hình này, phải kể tới các đập trụ đỡ lớn nhất Đông Nam Á, như đập ngăn mặn giữ ngọt Đò Điệm, tỉnh Nghệ An dài 160 m; đập ngăn măn giữ ngọt sông Hương, tỉnh Thừa Thiên-Huế, dài 480 m, cửa đóng mở tự động thủy lực, hơn 30 đập xà lan đã xây dựng và đang hoạt động tốt, 80 đập xà lan di động đã được Bộ phê duyệt ở  các vùng phân danh mặn ngọt ĐBSCL; đập cao su Nam Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị, đập cao su Krongbuk Hạ v.v…đã thực sự làm sống lại và trù phú nhiều vùng đất rộng lớn. Nhiều nhà máy thủy điện mang thương hiệu Viện KHTLVN đã và đang lần lượt ra đời như: Nhà máy thủy điện  Suối Tân, tỉnh Sơn La; nhà máy thủy điện Nậm Mu, tỉnh Hà Giang; nhà máy thủy điện Sông Côn 1&2 với công suất 65 MW v.v…Nhiều trạm bơm, máy bơm, máy vớt rác v.v… do Viện thiết kế chế tạo đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển chung của ngành. Số lượng bơm va, bơm thủy luân do Viện KHTLVN chế tạo, được chuyển giao sang các nước bạn Lào, Campuchia tuy chưa nhiều nhưng đã hé mở một tương lai tốt đẹp, góp phần đảm bảo khả năng tự chủ kinh phí hoạt động của Viện. 
 ● Nghiên cứu thực nghiệm các vấn đề KHCN trên mô hình vật lý đang là lĩnh vực ưu thế của Viện KHTLVN.
Được sự quan tâm từ rất sớm của Nhà nước, với sự giúp đỡ quốc tế, Viện đã và đang sở hữu một cơ sở thí nghiệm đa dạng, hiện đại, ngang tầm khu vực và một đội ngũ cán bộ thí nghiệm mạnh. Kết quả nghiên cứu bằng mô  hình vật lý  của Viện đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề khoa học phức tạp, như chỉnh trị sông Hồng qua Hà Nội, thiết kế các tuyến thoát lũ; xác định phương án bố trí, kết cấu và thi công  các loại công trình biển ở Trường Sa, Dung Quất, Vũng Áng...; giúp những đơn vị thiết kế điều chỉnh quy mô, hình thức, kết cấu của  hàng loạt công trình thủy lợi thủy điện lớn như: Hơn 20 cống ngăn mặn giữ ngọt vùng ĐBSCL, đập cao su Trà Sư, Tha La, công trình thủy lợi Phước Hoà, Văn Phong, nhà máy thủy điện Sơn La, Srokpumieng, Đồng Nai 1,2,3, Yaly, v.v… Hiện  nay, các cơ sở thí nghiệm như: Phòng thí nghiệm trọng điểm Quốc gia về động lực sông, biển, phòng thí nghiệm quy mô lớn về phòng chống thiên tai ở Hòa Lạc, phòng thí nghiệm thủy động lực khu vực phía Nam tại Bình Dương đã cơ bản hoàn tất, chắc chắn sẽ mở ra nhiều triển vọng mới trong tương lai.
Lĩnh vực công nghệ  tin học chuyên ngành thủy lợi được phát triển chậm hơn, song cũng đã kịp  đưa Viện lên vị  trí  hàng đầu hiện nay của  ngành. Nhiều cán bộ, đặc biệt là các cán bộ khoa học trẻ của Viện đã làm chủ, đã khai thác, ứng dụng thành công các phần mềm tiên tiến và hiện đại nhất thế giới như: bộ phần mềm đa năng họ MIKE, phần mềm mô  phỏng chế  độ  mưa, dòng chảy NAM, phần mềm Geoslop, flaxis, GIS, SCADA v.v. để dự báo sạt lở, dự báo biến hình lòng dẫn, dự  báo lũ, dự  báo  mặn, lan truyền ô nhiễm v.v… Đặc biệt, nhiều phần mềm do cán bộ của Viện đề xuất như: Phần mềm tính toán thiết kế, kiểm tra ổn định, tính thấm cho công trình thủy lợi; mô phỏng  quá  trình  lan truyền sự cố tràn dầu; dự báo lan truyền dịch bệnh cúm gia cầm, sâu bệnh, mô phỏng ô nhiễm môi trường từ nhiều nguồn tác động (KOD), phần mềm hỗ trợ quản lý vận hành tự động hệ thống công trình thuỷ lợi … đã được ứng dụng vào thực tế, được thực tế chấp nhận, được các địa phương, các cơ  quan quản lý, các nhà  khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao.
Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ  là hoạt động xuyên suốt trong các thời kỳ của Viện.
 Phát huy truyền thống gắn kết khoa học với sản xuất, Viện là cơ quan đi đầu trong chuyển giao công nghệ tiên tiến vào phục vụ phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phát triển thủy lợi, thủy điện nhỏ miền núi, phục vụ định canh định cư, góp phần xóa đói giảm nghèo ở những vùng còn nhiều khó khăn và ổn định an ninh biên giới. Do xác định đúng yêu cầu thực tế, nên sản phẩm nghiên cứu của Viện ngày càng được ứng dụng rộng rãi vào thực tiễn như:  Công nghệ cấp nước sạch cho miền núi, hải đảo; Cửa van tự động cống vùng triều, công nghệ đập trụ đỡ và đập xà lan di động, đập cao su; Công nghệ Jet-grouting tạo cọc xi măng đất để xử lý nền; Các loại bơm  hút sâu, bơm HT 3600-5, bơm 4000 trục ngang, bơm thuỷ luân; Thiết bị vớt rác tự động; Các kết cấu mới bảo vệ bờ như: Công nghệ cọc bản bê tông cốt thép dự ứng lực, thảm FS; phụ gia bê tông; Thiết bị thuỷ điện nhỏ v.v... Với thành tích trong việc ứng dụng kết quả  nghiên cứu KH vào sản xuất, trong 10 năm gần đây, Viện đã được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp 10 bản quyền sáng chế, được các Bộ ngành, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và nhiều địa phương trao 20 giải thưởng cho các sản phẩm khoa học của Viện, trong đó có 2 giải thưởng quốc tế (Giải thưởng cúp vàng của Hiệp hội sáng tạo quốc tế và giải thưởng công trình tiêu biểu của Hiệp hội kỹ sư xây dựng châu Á - Thái Bình Dương).
● Nghiên cứu khoa học phục vụ các vấn đề thời sự bức xúc.
Bên cạnh những đóng góp của Viện vào sự nghiệp phát triển nông nghiêp, nông thôn và các ngành kinh tế - xã hội của đất nước, trong thời gian qua Viện còn được Bộ Nông nghiệp và PTNT giao thực hiện một số nhiệm vụ  chính trị quan trọng, trong đó phải kể đến, dự án đo đạc phân giới cắm mốc sông biên giới Việt Nam – Trung Quốc, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh biên giới với Trung Quốc và Cămpuchia.
Trước tình hình biến đổi khí hậu đang có những diễn biến phức tạp, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, an toàn sản xuất và đời sống cho các vùng bị ảnh hưởng là những hướng nghiên cứu trọng điểm được Viện quan tâm. Với tinh thần đó Viện đã tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc tính toán dự báo diện tích ngập, thời gian ngập úng kéo dài, diện tích mặm, độ mặn xâm nhập vào ĐBSCL ứng với các kịch bản nước biển dâng, các kịch bản sử dụng nước của các nước thượng nguồn. Viện là một trong những đơn vị chủ chốt thực hiện các dự án chống úng ngập cho thành phố Hồ Chí Minh, cho thành phố Cần Thơ, Cà Mau, Hải Phòng, đã chủ trì thực hiện và được Thủ  tướng chính phủ  phê  duyệt dự án tu bổ nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang. Để chủ  động ứng phó với tình trạng thiếu hụt nguồn nước do biến đổi khí hậu, do khai thác quá mức nguồn nước của các nước vùng thượng nguồn, Viện đã và đang tổ  chức nghiên cứu đề xuất giải pháp xây dựng công trình ngăn sông lớn, với nhiệm vụ ngăn mặn, trữ ngọt, thoát lũ đảm bảo ổn định đời sống kinh tế  cho các vùng đồng bằng có cao độ  thấp ven biển nước ta.
3- Sự lớn mạnh không ngừng của đội ngũ cán bộ khoa học và vị thế quốc tế của Viện.
Về phát triển nguồn nhân lực của Viện, chỉ tính 10 năm gần đây số cán bộ có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ, GS, PGS của Viện đã tăng từ 78 người lên 295 người, những cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn của Viện đã tăng  lên gấp 3 lần. Hiện nay, tổng số cán bộ Viện gần 1487 người (trong đó biên chế 350, hợp đồng với Viện 867, hợp đồng với các đơn vị  270), trong đó có 4 GS, 16 PGS, 1TSKH, 58 TSKT, 216 Ths.
Cùng với những kết quả nghiên cứu triển khai, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho việc đào tạo nguồn nhân lực của Ngành. Trong 10 năm gần đây Viện đã và đang đào tạo 93 nghiên cứu sinh (NCS), trong đó 31 NCS đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ thuộc các chuyên ngành được giao. Viện đã liên kết đào tạo sau đại học với Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội,  Trường đại học Cologne (CHLB Đức) về quản lý tài nguyên nước do cơ quan trao đổi hàn lâm Đức - DAAD tài trợ. Đây là cơ hội tốt để đào tạo toàn diện cho đội ngũ cán bộ của ngành nói chung và của Viện nói riêng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nhằm tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng nghiên cứu, tiếp thu kịp thời những công nghệ mới để ứng dụng vào điều kiện Việt Nam, trong những năm qua, Viện đã không ngừng mở rộng hợp tác quốc tế. Đến nay, Viện đã có mối quan hệ hợp tác với các nhà khoa học thủy lợi  trên 20 nước và nhiều tổ chức quốc tế như Đan Mạch, Hà Lan, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Pháp, Australia, tổ chức IRRI, FAO, WB, ICID, IPTRID, UNDP… Viện là cơ quan được chọn là đối tác thường trực Chương trình quốc tế về nghiên cứu công nghệ tưới tiêu và là nơi đặt văn phòng thường trực của Mạng lưới cộng tác vì nước của Việt Nam. Viện đã được các nước hỗ trợ một số dự án lớn như: Dự án quản lý nước tổng hợp trên các hê thống tưới (1995-2005) do ACIAR (Úc) tài trợ, dự án tăng cường năng lực quản lý tài nguyên nước (2001-2006) do DANlDA (Đan Mạch) tài trợ, Dự án tăng cường năng lực về quản lý tưới (2005-2010) có sự tham gia của ngư­ời dân do JICA (Nhật Bản) tài trợ … Thông qua hoạt động HTQT đã gắn đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao với nghiên cứu khoa học một cách hiệu quả, nhờ đó Viện đã và đang được các tổ chức quốc tế quan tâm, hỗ trợ và mong muốn phát triển hợp tác. Trong những năm qua, từ các dự án hợp tác quốc tế Viện đã phối hợp cùng với nhiều đối tác nước ngoài đào tạo hàng 1000 lượt cán bộ khoa học, cán bộ  quản lý chuyên ngành của nhiều địa phương.
4- Phát huy nội lực, tranh thủ sức mạnh tổng hợp từ nhiều nguồn
       Trong phạm vi một bài viết không thể nào điểm hết mọi hoạt động của Viện trong 50 năm đầy biến động đã qua. Tóm lại, được sự quan tâm đầy đủ của Nhà nước, với sự phấn đấu tích cực của toàn thể cán bộ trong các thời kỳ, đến nay Viện KHTLVN đã phát triển về nhiều mặt. Với những thành tích đạt được, Viện đã được nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu và  phần thưởng cao quý, như Huân chương Lao Động hạng 3, hạng 2, hạng nhất; Huân chương Độc Lập hạng 3, hạng 2 (năm 2000, 2008) và được Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng trong thời kỳ đổi mới năm 2005. Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 50 năm xây dựng và phát triển, Viện lại vinh dự được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất.
Nhân dịp này, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn về sự quan tâm lớn lao của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo toàn diện và trực tiếp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện nay, của Bộ Thủy lợi trước đây đối với sự phát triển khoa học-công nghệ thủy lợi vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước  của Viện KHTLVN chúng tôi.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu và có hiệu quả của Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Kế hoạch Đầu tư; Bộ Ngoại giao; Bộ Tài chính; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Nội vụ; Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, Ban, Ngành Trung ương trong công tác xây dựng  phát triển Viện.
Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của các Tỉnh, Thành phố trong cả nước đã giúp đỡ, phối hợp với Viện trong quá trình triển khai các hoạt động khoa học công nghệ,  phục vụ có hiệu quả và kịp thời cho sản xuất trong nhiều năm qua.
Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác mật thiết, quý giá và có hiệu quả trong nghiên cứu, đào tạo cán bộ khoa học giữa Viện và Trường Đại học Thủy lợi, Công ty Tư vấn xây dựng Thủy lợi I, II, các Viện nghiên cứu khoa học trong Ngành nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự cộng tác chặt chẽ của nhiều đơn vị và các nhà khoa học, các đơn vị và chuyên gia tư vấn trong và ngoài nước, đặc biệt là các Viện Cơ học, Vật lý, Khí tượng thủy văn;  các trường ĐH Xây dựng, ĐH Nông nghiệp 1, ĐH Bách Khoa, ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh…và các tổ chức quốc tế từ Đan Mạch, Nhật Bản, Australia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Đức, WB, ADB, FAO … cùng các tổ chức phi chính phủ khác.
Sự trưởng thành của Viện KHTLVN hôm nay gắn liền với sự nỗ lực vượt bậc, ý chí phấn đấu không mệt mỏi của tập thể cán bộ, công nhân viên của Viện qua các thế hệ; không tách rời với những đóng góp to lớn của nhiều đồng chí lãnh đạo và cán bộ khoa học đầu ngành của Viện NCKHTL, Viện KHTL, Viện KHTLMN qua các thời kỳ như các cố Viện trưởng Trần Đăng Khoa, GS. Đào Khương và các cố phó viện trưởng  các thời kỳ, nguyên viện trưởng GS. Nguyễn Thanh Ngà; GS. TS. Nguyễn Tuấn Anh; Anh hùng lao động GS. TSKH. Nguyễn Ân Niên, GS. TS. Lê Sâm và nguyên các phó viện trưởng. Đặc biệt là những đóng góp của Thứ trưởng Đào Xuân Học, kiêm Giám đốc Viện KHTLVN, đã có nhiều công lao trong công tác tổ chức và ổn định hoạt động của Viện trong giai đoạn đầu chuyển đổi tổ chức.
5- Viện KHTLVN vững tin trước những cơ hội và thách thức mới.
Nhìn lại chặng đường nửa thế kỷ đã qua, mỗi cán bộ, viên chức của Viện có thể tự hào về những thành tựu đạt được, song không quên rằng phía trước còn có nhiều cơ hội  và cả những thách thức mới đang chờ đợi chúng ta. Để hoàn thành những nhiệm vụ quan trọng này, hoạt động khoa học của Viện cần bám sát những mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước, cùng những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như: Chiến lược đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia; Chiến lược phát triển thủy lợi; Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020; Chương trình đổi mới công nghệ Quốc Gia; Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và VSMT nông thôn; Chương trình mục tiêu Quốc gia về biến đổi khí hậu; Đề án tam nông; Chương trình cũng cố và nâng cấp đê biển; Dự án chống úng ngập cho các thành phố. Đặc biệt, với cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực được đầu tư lớn hiện nay, Viện ta cần tham gia nhiều hơn có hiệu quả hơn nữa trong chiến lược khai thác, nâng cấp tiềm năng kinh tế biển. Sản phẩm khoa học của Viện phải nhanh chóng đưa vào thực tiễn sản xuất và đời sống, sớm phát huy hiệu quả nhằm góp phần đắc lực phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội của nước nhà.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm xây dựng và phát triển, tập thể lãnh đạo và cán bộ, viên chức Viện KHTLVN xin hứa tiếp tục phấn đấu vươn lên, cải tiến sắp xếp tổ chức và đội ngũ, nâng cao bản lĩnh và năng lực nghiên cứu khoa học, với tinh thần trách nhiệm cao, phát huy tối đa tài năng của mỗi cá nhân và sự đồng tâm, nhất trí của mỗi tập thể, để nhanh chóng thích ứng với cơ chế mới, nâng cao vai trò trách nhiệm trong giai đoạn mới. Với chức năng, nhiệm vụ được Bộ trưởng giao cho, trên cơ sở những bài học kinh nghiệm đúc kết được, tập thể cán bộ, viên chức Viện KHTLVN nguyện tiếp tục phấn đấu và tin tưởng sẽ vượt qua những thách thức trong giai đoạn cách mạng mới, tiếp tục phát huy và nâng cao năng lực sẵn sàng đón nhận những cơ hội mới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả khoa học, công nghệ thủy lợi, góp phần  xứng đáng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh cho đất nước Việt Nam thân yêu.

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Thủy lợi Việt Nam, thành tựu và những thách thức trong phát triển

Trong những thập kỷ qua đặc biệt sau ngày thống nhất đất nước được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đã đầu tư xây dựng được hệ thống công trình thuỷ lợi đồ sộ: 1967 hồ chứa, 10.000 trạm bơm, 8.000 km đê sông đê biển phục vụ phát triển các ngành kinh tế, phát triển nông nghiệp, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, đào tạo gần trăm nghìn cán bộ làm công tác thuỷ lợi từ Trung ương đến địa phương ...  
THUỶ LỢI  VIỆT NAM, THÀNH TỰU
VÀ NHỮNG
THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN
GS. TS. Đào Xuân Học 
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT

Trong những thập kỷ qua đặc biệt sau ngày thống nhất đất nước được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đã đầu tư xây dựng được hệ thống công trình thuỷ lợi đồ sộ: 1967 hồ chứa, 10.000 trạm bơm, 8.000 km đê sông đê biển phục vụ phát triển các ngành kinh tế, phát triển nông nghiệp, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, đào tạo gần trăm nghìn cán bộ làm công tác thuỷ lợi từ Trung ương đến địa phương ... do vậy góp phần quan trọng đưa Việt nam từ chỗ thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Bộ mặt nông thôn mới không ngừng đổi thay, an ninh lương thực, an toàn trước thiên tai, ổn định xã hội, sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường được cải thiện. Tuy nhiên, do tốc độ nhanh của quá  trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đã khiến cho nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không đáp ứng kịp kể cả về quy mô lẫn sự lạc hậu của nó. Trước một thách thức mới của nhân loại là cuộc chiến chống biến đổi khí hậu mà Việt Nam là một trong 5 nước được đánh giá là ảnh hưởng nặng nề nhất, đòi hỏi cái nhìn toàn diện, một giải pháp tổng thể kể cả trước mắt và lâu dài. Báo cáo đề cập đến hiện trạng hệ thống công trình thuỷ lợi, những thách thức và đề xuất các giải pháp phát triển thuỷ lợi Việt Nam trong điều kiện mới.
I. Hiện trạng phát triển thuỷ lợi ở Việt Nam
1. Hiện trạng đầu tư xây dựng thuỷ lợi
Đã xây dựng 75 hệ thống thủy lợi lớn, 1967 hồ chứa dung tích trên 0.2 triệu m3, hơn 5.000 cống tưới, tiêu lớn, trên 10.000 trạm bơm lớn và vừa có tổng công suất bơm 24,8x106m3/h, hàng vạn công trình thủy lợi vừa và nhỏ.
Đã xây dựng 5.700 km đê sông, 3.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao và hàng ngàn cống dưới đê, hàng trăm km kè và nhiều hồ chứa lớn tham gia chống lũ cho hạ du, các hồ chưa lớn thuộc hệ thống sông Hồng có khả năng cắt lũ 7 tỷ m3, nâng mức chống lũ cho hệ thống đê với con lũ 500 năm xuất hiện một lần. Tổng năng lực của các hệ thống đã bảo đảm tưới trực tiếp 3,45 triệu ha, tạo nguồn cho 1,13 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha; cấp và tạo nguồn cấp nước 5-6 tỷ m3/năm cho sinh hoạt, công nghiệp, du lịch, dịch vụ...; Cấp nước sinh hoạt nông thôn đạt 70-75% tổng số dân.
2. Hiệu quả đầu tư phát triển thủy lợi
a. Tạo điều kiện quan trọng cho phát triển nhanh và ổn định diện tích canh tác, năng suất, sản lượng lúa để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu.
Các công trình thủy lợi đã góp phần, cải tạo đất chua, phèn, mặn, cải tạo môi trường nước như vùng Bắc Nam Hà, Nam Yên Dũng; vùng Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười...
Phát triển thuỷ lợi đã tạo điều kiện hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi như lúa, ngô ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, cao su và cà phê ở miền Đông nam Bộ, Tây Nguyên, chè ở Trung du và miền núi Bắc Bộ...
Nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững tại những vùng có hệ thống thủy lợi bảo đảm nguồn cấp và thoát nước (nước ngọt, mặn) chủ động.
b. Phòng chống giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai (lũ lụt, úng, hạn, sạt lở ...), bảo vệ tính mạng, sản xuất, cơ sở hạ tầng, hạn chế dịch bệnh:
Hệ thống đê biển ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có thể ngăn mặn và triều tần suất 10% gặp bão cấp 9. Hệ thống đê Trung Bộ, bờ bao đồng bằng Sông Cửu Long chống được lũ sớm và lũ tiểu mãn để bảo vệ sản xuất vụ Hè Thu và Đông Xuân.
Các công trình hồ chứa lớn và vừa ở thượng du đã từng bước đảm bảo chống lũ cho công trình và tham gia cắt lũ cho hạ du.
Các công trình chống lũ ở ĐBSH vẫn được duy tu, củng cố.
c. Hàng năm các công trình thuỷ lợi bảo đảm cấp 5-6 tỷ m3 nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác:
Cấp nước sinh hoạt cho đồng bằng, trung du miền núi. Đến nay khoảng 70-75% số dân nông thôn đã được cấp nước hợp vệ sinh với mức cấp 60 l/ngày đêm.
Cấp nước cho các khu công nghiệp, các làng nghề, bến cảng.
Các hồ thuỷ lợi đã trở thành các điểm du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế như: Đại Lải, Đồng Mô - Ngải Sơn, hồ Xuân Hương, Dầu Tiếng...
d. Góp phần lớn vào xây dựng nông thôn mới: thủy lợi là biện pháp hết sức hiệu quả đảm bảo an toàn lương thực tại chỗ, ổn định xã hội, xoá đói giảm nghèo nhất là tại các vùng sâu, vùng xa, biên giới.
e. Góp phần phát triển nguồn điện: hàng loạt công trình thuỷ điện vừa và nhỏ do ngành Thuỷ lợi đầu tư xây dựng. Sơ đồ khai thác thuỷ năng trên các sông do ngành Thuỷ lợi đề xuất trong quy hoạch đóng vai trò quan trọng để ngành Điện triển khai chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhanh và hiệu quả hơn.
f. Góp phần cải tạo môi trường: các công trình thủy lợi đã góp phần làm tăng độ ẩm, điều hòa dòng chảy, cải tạo đất chua, phèn, mặn, cải tạo môi trường nước, phòng chống cháy rừng.
g. Công trình thuỷ lợi kết hợp giao thông, quốc phòng, chỉnh trang đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn; nhiều trạm bơm phục vụ nông nghiệp góp phần đảm bảo tiêu thoát nước cho các đô thị và khu công nghiệp lớn.
3. Những tồn tại chính
a. Thuỷ lợi chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của các đô thị lớn:
5 tỉnh, thành phố lớn đang bị ngập lụt nặng do ngập triều (TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, Hải Phòng và Vĩnh Long). Thành phố Huế và các đô thị khu vực Trung Bộ, ngập úng do lũ. Thành phố Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng sông Hồng ngập úng nặng do mưa.
b. Các công trình phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, mặc dù cũng đã đầu tư xây dựng nhiều hồ chứa thượng nguồn kết hợp hệ thống đê dưới hạ du nhưng hiện nay hệ thống đê biển, đê sông và các cống dưới đê vẫn còn nhiều bất cập, phần lớn đê chưa đủ mặt cắt thiết kế, chỉ chống lũ đầu vụ và cuối vụ, chính vụ (miền Trung), các cống dưới đê hư hỏng và hoành triệt nhiều.
Hiện tượng bồi lấp, xói lở các cửa sông miền Trung còn diễn ra nhiều và chưa được khắc phục được.
c. Nước thải không được xử lý hoặc xử lý không triệt để đổ vào kênh gây ô nhiễm nguồn nước trong hệ thống thủy lợi: Bắc Đuống, Sông Nhuệ...
d. Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nuôi trồng thủy sản làm thay đổi diện tích và cơ cấu sự dụng đất tạo ra những yêu cầu mới đối với công tác thuỷ lợi. Nhu cầu cấp nước sinh hoạt ở nông thôn, thành thị, nhu cầu tiêu thoát tại nhiều khu vực tăng lên nhanh chóng.
e. Mâu thuẫn quyền lợi, thiếu sự phối kết hợp giữa các ngành, địa phương nên công trình chưa phát huy hiệu quả phục vụ đa mục tiêu. Nhiều công trình hồ chứa lớn trên dòng chính có hiệu quả cao về chống lũ, phát điện, cấp nước đã được nghiên cứu, đề xuất trong các quy hoạch thủy lợi nhưng sau này do yêu cầu cấp bách về năng lượng nên nhiệm vụ của công trình tập trung chủ yếu vào phát điện mà bỏ qua dung tích phòng lũ cho hạ du (chi phí đầu tư xây dựng công trình, giải phóng mặt bằng, tái định cư ... rất lớn).
f. Một số hệ thống thuỷ lợi có hiệu quả thấp do vốn đầu tư hạn chế nên xây dựng thiếu hoàn chỉnh, đồng bộ. Nhiều công trình chưa được tu bổ, sửa chữa kịp thời nên bị xuống cấp, thiếu an toàn.
g. Việc thực thi Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, Luật Đê điều và Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão còn xem nhẹ.
h. Tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi chưa tương xứng với cơ sở hạ tầng hiện có, nhất là các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
i. Nguồn nhân lực còn hạn chế về trình độ, phân bố không hợp lý, thiếu hụt nghiêm trọng kỹ sư thủy lợi ở địa phương, vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu điều tra mẫu trên phạm vi 5 tỉnh thành toàn quốc:
- Ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tập trung trên 70% lực lượng lao động thuỷ lợi được đào tạo, trong khi đó ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, Tây nguyên và duyên hải miền Trung chiếm tỷ lệ rất nhỏ (nhất là ở các huyện và xã), có huyện không có kỹ sư thuỷ lợi phụ trách công tác thuỷ lợi.
- Theo số liệu thống kê, trình độ kỹ sư thuỷ lợi/1 vạn dân ở Hà Nội là 1,64, thành phố Hồ Chí Minh 0,89, Hà Giang 0,56, Quảng Bình 0,09 và Đăk Lăk là 0,21.
II. Biến đổi khí hậu và thách thức đối với ngành thuỷ lợi
1. Biến đổi khí hậu
Trong 10 năm qua, các yếu tố khí hậu Việt Nam có nhiều biến đổi: Số trận bão hàng năm vào ven biển nước ta tăng 0,4 trận.
Theo kịch bản của Bộ Tài Nguyên và Môi trường: Đến năm 2010 nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 2,3oC (so với trung bình thời kỳ 1980-1999). Tính chung cho cả nước, lượng mưa năm tăng khoảng 5% (so với thời kỳ 1980-1999).
2. Nguồn nước
Theo đánh giá của ADB, đến năm 2070, dòng chảy vào tháng cao điểm của sông Mekong dự báo tăng 41% ở đầu nguồn và 19% ở vùng đồng bằng. Còn vào các tháng mùa khô, dòng chảy giảm khoảng 24% ở thượng nguồn và 29% ở vùng Đồng Bằng. Dòng chảy mùa kiệt ở lưu vực sông Hồng giảm 19%; mực nước lũ có thể đạt cao trình +13,24 xấp xỉ cao trình đỉnh đê hiện nay +13,40 (Báo cáo Viện Quy hoạch Thuỷ lợi). Điều đó có nghĩa là khả năng lũ trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa khô đều trở nên khắc nghiệt hơn.
Do chế độ mưa thay đổi cùng với qúa trình đô thị hoá và công nghiệp hoá dẫn đến nhu cầu tiêu nước gia tăng đột biến, nhiều hệ thống thuỷ lợi không đáp ứng được yêu cầu tiêu, yêu cầu cấp nước. Cùng với tác động của biến đổi khí hậu, nguồn nước sạch sẽ trở nên khan hiếm, có khoảng 8,4 triệu người Việt Nam thiếu nước ngọt vào năm 2050.
3. Mực nước biển dâng
Nếu mực nước biển dâng 0,75-1,0m, ngoài 5 thành phố lớn như đã nói ở trên sẽ bị ngập úng do triều thì hầu hết các thành phố ven biển khác sẽ bị ngập triều, đặc biệt là các ấp, xã ở ĐBSCL. Về mùa lũ, vào những năm lũ lớn khoảng 90% diện tích của ĐBSCL sẽ bị ngập lũ với thời gian khoảng 4-5 tháng.
Hai khu vực được đánh giá có nguy cơ ngập triều gây mặn nặng nhất là Bến Tre và Cà Mau. Theo dự báo của ADB, diện tích ngập triều thường xuyên có thể ở trên mức 20% và khoảng 20 triệu người bị ảnh hưởng đến nơi ở. Cũng do nước biển dâng, chế độ dòng chảy sông suối sẽ thay đổi theo hướng bất lợi, các công trình thuỷ lợi sẽ hoạt động trong điều kiện khác với thiết kế, làm cho năng lực phục vụ của công trình giảm.
Nước biển dâng làm mặn xâm nhập sâu vào nội địa, các cống hạ lưu ven sông sẽ không có khả năng lấy nước ngọt vào đồng ruộng (xem Hình 1); vào mùa khô sẽ có khoảng trên 70% diện tích ĐBSCL sẽ bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4g/l.
Mực nước biển dâng làm hệ thống đê biển hiện tại có nguy cơ tràn và vỡ đê ngay cả khi không có các trận bão lớn. Ngoài ra, do mực nước biển dâng cao làm chế độ dòng chảy ven bờ thay đổi gây xói lở bờ.
Vùng đồng bằng sông Hồng hiện có khoảng 55 hệ thống thủy nông, thủy lợi vừa  đảm bảo tưới cho 765.000 ha (trong đó, tưới lúa mùa khoảng 580.000 ha, màu và cây công nghiệp dài ngày 7.000 ha), diện tích được tiêu khoảng 510.000 ha. Tuy nhiên,  các công trình tiêu nước vùng ven biển hiện nay hầu hết đều là các hệ thống tiêu tự chảy; khi mực nước biển dâng lên, việc tiêu tự chảy sẽ hết sức khó khăn, diện tích và thời gian ngập úng tăng lên tại nhiều khu vực.
Vùng miền trung khoảng 5.500 ha sẽ bị ngập, thời gian ngập lũ sẽ dài hơn, lũ đén sẽ khốc liệt hơn và dòng chảy kiệt sẽ suy giảm đáng kể.
Đối với hệ thống đê sông, đê bao và bờ bao, mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm, kéo theo mực nước các con sông dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ làm cho đỉnh lũ tăng thêm, uy hiếp sự an toàn của các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao ở các tỉnh phía Nam.
4. Nhu cầu nước và khả năng cân bằng nước trong tương lai
- Nhu cầu nước: Tổng nhu cầu nước năm 2000 khoảng 78 tỷ m3, năm 2010 khoảng 103 tỷ m3, năm 2020 khoảng 122 tỷ m3 và lưu lượng duy trì môi trường sinh thái hạ du trong mùa khô khoảng 4.300 m3/s. Dự báo nhu cầu nước:
+ Nông nghiệp: năm 2010 tăng 11-12 % so với năm 2000, năm 2020 tăng khoảng 12 % so với năm 2010.
+ Sinh hoạt: năm 2010 tăng 90-100% so với năm 2000, năm 2020 tăng 60-70 % so với năm 2010.
+ Công nghiệp: năm 2010 tăng 70-80% so với năm 2000, năm 2020 tăng 40-50% so với năm 2010.
+ Chăn nuôi: năm 2010 tăng 50-60% so với năm 2000 và năm 2020 tăng 25-35% so với năm 2010.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu nước: Tổng nhu cầu nước năm 2000 chỉ bằng 9-10% tổng lượng dòng chảy mặt, năm 2010 bằng 12-13%, năm 2020 bằng 15-16% tổng lượng dòng chảy mặt. Như vậy về tổng lượng dòng chảy năm vẫn có thể thoả mãn nhu cầu nước ở mức an toàn nhưng về mùa khô, hầu hết các lưu vực đều rất thiếu nước.
III. Quan điểm, mục tiêu phát triển thuỷ lợi
1. Quan điểm
a. Phát triển thuỷ lợi đảm bảo phát triển biền vững, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, làm cơ sở để phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá, thâm canh cao, đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu.
Khai thác sử dụng nước hợp lý, đa mục tiêu, thống nhất theo lưu vực sông và hệ thống công trình thủy lợi. Khai thác sử dụng đi đôi với bảo vệ, chống suy thoái, cạn kiệt, bảo vệ môi trường nước và thích ứng với biến đổi khí hậu.
b. Nâng cao mức bảo đảm an toàn phòng chống thiên tai: bão, lụt, lũ, lũ quét, hạn hán, úng ngập, xâm nhập mặn, sạt lở...
c. Quản lý, khai thác sử dụng và phát triển nguồn nước đảm bảo các yêu cầu trước mắt và không mâu thuẫn với nhu cầu phát triển trong tương lai.
d. Chú trọng phát triển thuỷ lợi cho miền núi, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn về nguồn nước.
e. Quản lý, sử dụng và phát triển nguồn nước phải luôn gắn với nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng, tác động của biến đổi khí hậu đến nguồn nước ngày càng mạnh mẽ.
2. Mục tiêu
a. Mục tiêu chung
- Đảm bảo ổn định an toàn dân cư cho các thành phố, các vùng, miền, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, Tây Nguyên...
- Phát triển thủy lợi theo hướng bền vững, hiện đại hoá, tăng mức đảm bảo cấp  nước cho các ngành kinh tế; đảm bảo sản xuất nông nghiệp ổn định, an ninh lương thực quốc gia; đảm bảo 3,8 triệu ha đất canh tác lúa hai vụ.
- Chủ động phòng, chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra, từng bước thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
b. Mục tiêu đến năm 2020
Mục tiêu 1: Cấp nước phục vụ dân sinh kinh tế.
- Đáp ứng nguồn nước phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt cho dân cư đô thị và  nông thôn theo tiêu chuẩn đã được ban hành.
- Đáp ứng nguồn nước phục vụ phát triển công nghiệp, quan tâm vùng khan hiếm nước: các tỉnh miền Trung, Ninh Thuận, Bình Thuận...
- Cấp đủ nguồn nước để khai thác 4,5 triệu ha đất cây hàng năm (riêng đất lúa 3,8 triệu ha), tiến tới bảo đảm tưới chủ động cho 100% diện tích lúa 2 vụ (3,3 triệu ha), nâng tần suất đảm bảo tưới lên 85%.
- Đảm bảo tưới, tiêu nước chủ động phục vụ phát triển vùng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất muối tập trung.
Mục tiêu 2: Tiêu thoát nước và bảo vệ môi trường nước.
- Chủ động và nâng cao tần suất đảm bảo tiêu nước cho các đô thị lớn như TP. Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau...có tính đến tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
- Tăng cường khả năng tiêu thoát ra các sông chính, tăng diện tích tiêu bằng động lực, đảm bảo tiêu thoát nước ở những vùng đồng bằng:
+ Vùng đồng bằng Bắc Bộ: đảm bảo tiêu cho các khu dân cư, vùng sản xuất nông nghiệp.
+ Vùng ven biển miền Trung: tăng cường khả năng thoát lũ cho các vùng dân cư, tiêu cho sản xuất nông nghiệp vụ Hè Thu và đầu vụ Đông Xuân.
+ Vùng đồng bằng sông Cửu long: ở vùng ngập nông đảm bảo tiêu cả năm, ở vùng ngập sâu tiêu cho vụ Hè Thu và đầu vụ Đông Xuân.
- Đảm bảo môi trường nước trong các hệ thống đạt tiêu chuẩn nước tưới.
Mục tiêu 3: Chủ động phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
- Nâng cao mức bảo đảm an toàn phòng chống thiên tai bão lũ, lụt. Triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020.
- Có giải pháp công trình đảm bảo an toàn cho nhân dân, bảo vệ 3,8 triệu ha lúa trong điều kiện biến đổi khí hậu.
- Từng bước nâng cao khả năng chống lũ của các hệ thống đê sông tại các lưu vực sông lớn ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ với tần suất thiết kế
- Chủ động phòng, tránh lũ và thích nghi để bảo vệ dân cư ở các lưu vực sông thuộc Trung bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, đảm bảo sản xuất vụ Hè Thu, Đông Xuân với tần suất đảm bảo 5¸10%.
- Kiểm soát lũ triệt để ở vùng ngập nông đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo các điều kiện thích nghi và an toàn cho dân sinh, sản xuất ở vùng ngập sâu.
- Hệ thống đê biển, đê cửa sông đảm bảo mức tối thiểu chống được bão cấp 9 và thủy triều ứng với tần suất 5%, phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
- Đảm bảo an toàn công trình hồ chứa, đê, kè, cống, ổn định bờ sông, bờ biển.
Mục tiêu 4: Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác các công trình thủy lợi, đảm bảo phát huy trên 90% năng lực thiết kế.
Mục tiêu 5: Đưa trình độ khoa học công nghệ thủy lợi đạt mức trung bình của Châu Á vào năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 đạt trình độ trung bình tiên tiến trên thế giới.
IV. Các giải pháp phát triển thuỷ lợi thích ứng với biến đổi khí hậu
1. Giải pháp chung
- Nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến hệ thống công trình thủy lợi.
- Nghiên cứu, áp dụng các chỉ tiêu thiết kế nhằm nâng cao mức đảm bảo cấp nước, tiêu thoát nước, chống lũ thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu
- Rà soát, bổ sung quy hoạch, từng bước xây dựng các công trình ngăn sông lớn.
- Đầu tư xây dựng, nâng cấp các hệ thống đê biển, đê sông, đê cửa sông bảo đảm an toàn cho dân sinh và sản xuất.
- Xây dựng các chương trình nâng cấp các hệ thống thủy lợi phục vụ cấp nước, tiêu thoát nước, đảm bảo an toàn công trình.
- Nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp, công nghệ khoa học tiên tiến hạn chế tác động bất lợi do biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây ra.
2. Đối với các thành phố lớn
Thành phố Hà Nội: Bộ Nông nghiệp đã hoàn thiện quy hoạch tiêu thoát nước cho hệ thống sông Nhuệ trong đó có Thành phố Hà Nội và đã được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 937/QĐ-TTg ngày 01/7/2009, trong đó có đề xuất hệ thống CTTL nhằm giảm úng ngập cho thành phố cụ thể:
- Xây mới cống, trạm bơm Liên Mạc làm nhiệm vụ tưới tiêu kết hợp (170m3/s) và tiếp nước cải thiện môi trường sông Tô Lịch.
- Xây dựng mới các trạm bơm: Nam Thăng Long (9m3/s); Trạm bơm Yên Sở II (45m3/s), Yên Sở III (55m3/s); trạm bơm Đông Mỹ (35m3/s).
- Xây dựng mới các trạm bơm: Yên Nghĩa (120m3/s); Trạm bơm Yên Thái (54m3/s) kết hợp trạm bơm Đào Nguyên (15m3/s).
Thành phố Hồ Chí Minh: Bộ Nông nghiệp đã hoàn thiện quy hoạch chống ngập úng cho Thành phố và đã được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1547/QĐ-TTg ngày 28/10/2008.
Bộ Nông nghiệp và PTNT với tư cách là Trưởng ban Chỉ đạo đang chỉ đạo các đơn vị tư vấn của Bộ, thành phố Hồ Chí Minh và Long An sớm hoàn thiện báo cáo đầu tư xây dựng các cống ngăn triều lớn trong vùng (xem Hình 2).
Thành phố Cần Thơ: Bộ Nông nghiệp và PTNT đang chỉ đạo đơn vị tư vấn lập Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập úng thành phố Cần Thơ làm cơ sở để đầu tư xây dựng công trình chống ngập úng cho thành phố. Ngoài ra quy hoạch thuỷ lợi cho các tỉnh thành phố khác sẽ được triển khai sớm theo chỉ đạo của Chính phủ.
3. Đối với đồng bằng sông Hồng: Hoàn thành xây dựng các hồ chứa trên thượng nguồn để cùng tham gia cắt lũ cùng với việc nâng cấp hệ thống đê sông đảm bảo an toàn cho hạ du (theo chương trình nâng cấp đê sông vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Tiếp tục tiến hành nâng cấp và hoàn thiện hệ thống đê biển, đê cửa sông và các cống dưới đê, kết hợp bổ sung diện tích rừng ngập mặn ven biển. Xây dựng các đập ngăn sông để chống nước biển dâng và xâm nhập mặn sâu vào đất liền. Đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống công trình thủy lợi bao gồm: các trạm bơm tưới, tiêu, các cống, …
4. Duyên hải miền Trung: Ngoài những biện pháp công trình ở trên trong vùng này cần tập trung sắp xếp phân bố lại quy hoạch dân cư, phát triển kinh tế xã hội xa những vùng có nguy cơ rủi ro thiên tai. Xây dựng các công trình tránh trú an toàn khi có thiên tai xảy ra như các tuyến đường vượt lũ, nhà tránh trú bão, …Thành lập các Trung tâm phòng tránh thiên tai ở các địa phương để chỉ huy trực tiếp trước, trong và sau khi có thiên tai. Xây dựng các hệ thống cảnh báo, bản đồ dự báo rủi ro: ngập lụt, hạn hán, các kịch bản nước biển dâng, xâm nhập mặn, … đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.
5. Đồng bằng sông Cửu Long: Vùng này được đánh giá là chịu ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu từ hai phía thượng nguồn và từ phía biển. Đối với thượng nguồn tiếp tục tham gia tích cực trong Ủy hội sông Mê Công cùng cam kết sử dụng hợp lý tài nguyên nước và bảo vệ môi trường. Xây dựng hệ thống đê biển kết hợp với các cống ngăn mặn tại các cửa sông lớn. Trước mặt quy hoạch xây dựng các cống trên sông Cái Lớn – Cái Bé nhằm ngăn mặn, giữ ngọt cho vùng BĐCM; xây dựng các cống ngăn mặn: Giao Hòa, Bến Tre tại tỉnh Bến Tre bảo đảm cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và phát triển nông nghiệp; bờ bao khép kín tại một số vùng (Đồng Tháp, An Giang) kết hợp với các cống điều tiết để lấy nước thau chua rửa phèn, lấy phù sa vào chủ động.
V. Kết luận
            Nhìn lại phát triển thủy lợi trong nhiều năm qua kể từ khâu quy hoạch, xây dựng đến quản lý vận hành còn có nhiều hạn chế, chẳng hạn như hệ thống tiêu của Đại công trình Bắc Hưng Hải khi có mưa lớn trong nội đồng cũng phải tính đến chuyện bơm tiêu ra các sông lớn do quá trình đô thị hóa đã nâng hệ số tiêu lên nhiều lần; mặn đã xâm nhập sâu vào trong sông khiến việc lấy nước rất khó khăn; các công trình đầu tư dang dở, không khép kín ở ĐBSCL đã không phát huy được tác dụng; mưa lũ lớn kết hợp với triều cường khiến cho việc tiêu thoát và thời gian ngập kéo dài, mức độ trầm trọng đặc biệt trong các thành phố lớn và các thành phố ven biển ĐBSCL. Vùng duyên hải miền Trung và miền núi phía Bắc luôn phải đối mặt với rủi ro khi có thiên tai xảy ra mà chưa có giải pháp thật căn cơ. Hệ thống quản lý vận hành chậm đổi mới, cùng với hệ thống công trình lạc hậu, chưa quan tâm đến công tác sử dụng đội ngũ kỹ sư thủy lợi ở một số địa phương, ngoài ra còn nhiều yếu tố khác đã kìm hãm sự phát triển của thủy lợi. Trước những thách thức mới trong điều kiện công nghiệp và đô thị hóa, biến đổi khí hậu đòi hỏi chúng ta phải nhìn lại từ khâu chiến lược, quy hoạch, … quản lý vận hành cho tất cả các hệ thống công trình thủy nông, lưu vực. Các giải pháp được đề xuất ở đây đều xem xét cả trước mắt và không mâu thuẫn với lâu dài. Hệ thống đê biển Nam Trung bộ đến đồng bằng sông Cửu Long đã được Chính phủ phê duyệt là một minh chứng rõ nhất về giải pháp trước mắt và lâu dài. Tuy nhiên, tính lồng ghép, phối hợp giữa các Bộ và giữa các địa phương còn nhiều hạn chế, dẫn đến nhiều công trình không được kết hợp (thủy lợi, giao thông, quốc phòng, Công Thương …), làm đi làm lại nhiều lần, kém hiệu quả, chưa tuân thủ theo các văn bản pháp luật. Trước những yêu cầu và thách thức mới đó, đòi hỏi người làm công tác quản lý thủy lợi phải đổi mới để phát triển không ngừng, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới vào thực tiễn Việt Nam. Kết hợp, lồng ghép chặt chẽ với các ngành khác đảm bảo lợi dụng tổng hợp mang lại hiệu quả cao (xem Hình 3).  Ngoài ra không thể có được những giải pháp hữu hiệu nếu không có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, các tổ chức nước ngoài và sự tham gia của tất cả người dân./.