XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt

*Book Hunter:  Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
ĐỘC LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có` tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phu, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.
Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?
TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhómSiêu rẻ, phải sửa lại rất rẻSiêu bền, phải sửa lại rất bênVi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắnVân vân…
5.- Dùng từ vô nghĩa
Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!
ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?
ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chử tịch”
7.- Dùng từ thiếu chính xác
CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được ( masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
GIẢI PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8.- Từ vựng lộn xộn.
LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”
Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.
LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
12.- Ghép từ bừa bãi.
KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phài một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
13.- Dùng từ dao to búa lớn
CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Uc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.
16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ.
(trich TrieuThanh Magazine)Đăng bởi  Hà Thủy Nguyên vào November 12, 2013  in ARTICLE, Lịch sử - Văn hóa
NHỮNG BÌNH LUẬN HÀNG ĐẦU TRÊN FB
  • Hà Kiến Giang Từ dùng sai vô số kể anh ạ! Giữ trong sáng được phần nào hay phần ấy thôi ạ!
  • Hà Kiến Giang Nhà báo, người cần hiểu rõ, sử dụng từ/câu/chữ chuẩn mực nhất trong các tác phẩm của mình, giờ, nhiều khi còn không đạt chuẩn.
  • Người Rừng "PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa."- Lần đầu NR được giải thích về từ PK....hoá ra từ bé đến giờ bộ học...toàn dạy sai ...vcb....
  • Hà Kiến Giang Thế anh nghe từ Cặp bồ, thực ra là lấy trộm từ Couple chưa?
    Rồi từ Khúc chiết (ngược nghĩa với nghĩa gốc), thảo mai (dâu tây)... vv...vv...
  • Nguyên Trung Thuan Nhân danh là người nghiên cứu ngôn ngữ học lâu năm, tôi xin bác lại bài viết trên.
    Không thể gọi đó là dùng sai được. Đó là lối phân tích sai lầm của những người theo chủ nghĩa từ nguyên cứng nhắc.
  • Hà Kiến Giang Hồi em bé, hay nghe chương trình Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên đài tiếng nói Việt Nam nên yêu tiếng Việt và hiếm khi sai từ. Dù rằng là có nhiều từ không rõ nghĩa, phải tra từ điển. ví như sát nhập/sáp nhập ý!
  • Hà Kiến Giang Em thấy có nhiều từ do nhiều người dùng sai, dẫn đến thành quen và khác nghĩa với từ gốc ban đầu mà! (Từ Khúc chiết là một ví dụ ạ!)
  • Nguyên Trung Thuan Vậy thì tặng Hà Kiến Giang bài viết của tôi nhé:

    SÁP NHẬP HAY LÀ SÁT NHẬP?
    “Sáp nhập” và “sát nhập” đều có cùng một nghĩa là “nhập với nhau làm một, nhập lại làm một” và thường được dùng để nói về việc nhập các đơn vị hành chính lại với nhau. Lâu nay đã từng xuất hiện nhiều sự bàn cãi xung quanh việc sử dụng hai từ này. Mấu chốt của sự tranh cãi triền miên này chính là sự mâu thuẫn giữa quan điểm theo nguyên tắc chính tả từ nguyên học với quan điểm theo nguyên tắc chính tả của đời sống. Những người theo quan điểm từ nguyên học luôn khăng khăng cho là phải dùng “sáp nhập” mới đúng. Vậy ta thử truy theo từ nguyên xem sao. “Sáp nhập” là một từ gốc Hán, đó là xét theo mặt phát âm, còn nếu như xét về mặt ngữ nghĩa, thì không nên xem “sáp nhập” là một từ gốc Hán mà là một từ được cấu tạo từ các yếu tố gốc Hán, bởi lẽ nghĩa của nó trong tiếng Việt khác xa với nghĩa của nó trong tiếng Hán. Ở tiếng Hán, “sáp” (còn có âm là “tháp”) có nghĩa là “cắm, chọc, xuyên”, vì thế nó được dùng trong các ngữ cảnh “đỉnh núi xuyên mây”, “cấy lúa” (tức cắm cây mạ xuống đất), rồi nó cũng chỉ phát triển thêm thành nghĩa phái sinh là “chêm, xen” như “xen lời”, “trồng xen”,… mà thôi. Tiếng Hán sử dụng một từ khác để biểu thị ý nghĩa “sáp nhập”, đó là từ “hợp tịnh”. Qua đây có thể khẳng định được rằng “sáp” là yếu tố gốc Hán, nhưng sang tiếng Việt, nó đã được chuyển sang nghĩa khác khi đứng trong tổ hợp “sáp nhập”. Cho nên, quan điểm cho rằng dứt khoát phải dùng “sáp nhập” cần phải xem xét lại. Từ “sáp nhập” từ chỗ được người xưa, những người có học, có vốn tiếng Hán, cấu tạo nên để dùng vào những ngữ cảnh cần nói trong tiếng Việt, dần dần khi đã có chân trong đời sống ngôn ngữ tiếng Việt, thì phải chăng vì theo nguyên lí thuận miệng (cho dễ phát âm) cộng với hàm nghĩa vốn có của từ “sát” là “liền kề, sát cạnh” mà “sáp nhập” đã biến thành “sát nhập” một cách hết sức hợp lí? Nguyên lí thuận miệng này cũng có thể lí giải được khi so sánh cách phát âm giữa hai từ “sáp nhập” và “sát nhập”. Xét về trường độ âm tiết thì “sáp”, “nhập” là những âm tiết được phát âm ngắn, còn âm tiết “sát” được phát âm dài hơn. Hai âm tiết cùng ngắn mà phát âm sát liền nhau ở từ “sáp nhập” thì rõ ràng là khó hơn khi phát âm một âm tiết dài liền trước một âm tiết ngán như ở từ “sát nhập”. Đó chính là sự tác động của đời thường vào ngôn ngữ. Nhìn chung, theo qui luật và theo thời gian, yếu tố nào được sử dụng nhiều hơn sẽ là yếu tố mạnh hơn và rất có khả năng sẽ lấn át được yếu tố kia mà không một nhân tố chủ quan nào có thể cưỡng nổi.
    Trung Thuần
  • Hoa Thanh Quế Ha ha chiều nay cũng mới lướt qua từ "chung cư" đã thấy giật mình nên cọp-pết ngay và luôn, đúng là tư tưởng nhớn đụng nhau. Dưng mà mãi chơii candy nên vẫn chưa kịp đọc hì hì..
  • Hà Kiến Giang Dạ, sát nhập/sáp nhập, em tra từ điển ngay rồi ạ. Dù thế nào em cũng cảm ơn bác đã quan tâm.
    Trân trọng.
  • Nguyên Trung Thuan Tiếng Hán làm gì có từ "chung cư" 終居 này mà Hoa Thanh Quế đã vội khoái chí? Thật chán cho ai đó cứ phán liều mà chẳng hiểu gì như ở bài viết.
    Mình khuyên mọi người đừng nghe theo.
  • Hà Kiến Giang Em nói thực là khi viết bài, em rất hạn chế dùng từ mượn, vì ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong em cũng tàm tạm. Em thường cố gắng dùng từ/tiếng Việt, hoặc những từ vay mượn nhưng ai cũng có thể hiểu đúng, không thể hiểu sai lệch đi.
    Còn
    ...Xem thêm
  • Người Rừng Hi hi ...những bậc huynh tỷ mà NR chọn để gửi bài sang quả là chính xác...còn mong chờ ý kiến của hai trưởng lão nữa là " mặt trận" chữ nghĩa trở nên nóng...may quá qua vụ này mới biết chị Nguyên Trung Thuan là chuyên ngành ngôn ngữ học ( trước mới tạm biết chị rành chữ Trung Quốc thôi )....với các anh chị ..quả thật NR là kẻ mù chữ.
  • Nguyên Trung Thuan He he, "oánh" vào chuyên môn của tui đó nghe. Tôi sắp ra cuốn sách "Tìm về từ nguyên", cách đây có dễ đã gần 2 chục năm, tôi giữ chuyên mục "Sổ tay dùng từ" của báo Giáo dục thời đại, NR ạ.
  • Hà Kiến Giang Việc tiếp cận/học tập/nghiên cứu/tìm hiểu tiếng Việt tùy thuộc vào cá nhân mỗi người, theo cách riêng của họ nên thật khó bảo họ phải thế này, nên thế kia.
    Em tôn trọng mọi thông tin, ý kiến và xem tất cả như những điều hữu ích, trong đó có cả các phản hồi đa chiều.
  • Nguyên Trung Thuan Đồng ý với bạn. Nhưng riêng với bài viết trên là thậm vô lí, không chấp nhận được. Tôi nói với tư cách người nghiên cứu ngôn ngữ và am hiểu tiếng Hán. Chắc chỉ cần nói vậy là đủ.
  • Tuan Nguyen Quoc Người Rừng ở yên đi. Chữ nghĩa là việc khó bàn lắm đấy, các ngôn ngữ ở ta hết sức phức tạp. Bác Nguyên Trung Thuan sành về chuyên môn, nhưng ngôn ngữ học cũng bao la bát ngát lắm.
  • Nguyên Trung Thuan Lĩnh vực nào cũng vậy, phức tạp nhưng vẫn có trật tự về cái lí riêng của nó.
  • Songviet Luu Ngôn có trước, ngữ có sau, ngữ ghi lại ngôn, ngôn biến theo cuộc sống không bị gò bó, ngữ theo không kịp ngôn để diễn tả ngôn nên thường chậm hơn và hay sai lệch, ngữ đúng đấy nhưng ngôn không dám phát đúng và phải phát sai, nói tránh, nói trại, (kỵ, kiêng, huý hoặc cho ngắn gọn đi)....thấy vật lạ từ trên trời rơi xuống người ta la lên trời ơi cái gì đây và đặt cho nó một cái tên "Bộ phận không nhỏ chẳng hạn" ngữ buộc phải ghi lại vật đó là bộ phận không nhỏ....thời gian trôi đi do sợ cường quyền người ta nói trại đi vật đó là "Lớn" thì ngữ phải ghi theo là lớn thoai...từ ngữ không phải bỗng dưng mà có trước khi nó có và sau khi nó có khác nhau rất nhiều....nó biến động theo lịch sử, văn hoá, nguồn nước, khi hậu, cường quyền, ý đồ thay đổi văn hoá của các chính trị gia,.....như Nguyễn Hoàng bắt dân miền nam thay đổi văn hoá để thành lập quốc gia riêng, Bắc quần 1 ống (váy) áo dài-Nam quần hai ống áo dài nhưng ngắn hơn, nhạc ca trù thay cho tuồng chèo, anh cả thay bằng anh hai, nói trại Lữ -Lã, đới-Đái, phượng-Phụng, Hoàng - Huỳnh, bẩn-dơ.....do vậy ngữ theo không kịp ngôn đôi lúc phải chấp nhận thôi nói như Nguyen Nguyên Trung Thuan là có lý, nhưng chưa rõ ý và làm cho người đọc hiểu nguồn gốc sâu xa của nó, còn bài viết của Người Rừng đưa đến chỉ phê phán hiện tượng thôi (quan điểm của tui là phải chấp nhận nhưng mà chấp nhận thống nhất toàn quốc, không nên ông chẳng bà chuộc) ví dụ những từ bị ảnh hưởng bởi Nghị quyết như "Khởi sắc", "HOÀNH TRÁNG", "Hệ thống chính trị thay cho đảng, đoàn thể và chính quyền cơ sở các cấp" gặp chỗ nào cũng nói cũng viết các từ này, rồi ảnh hưởng truyền thông như "Chân dài" "lộ hàng", "bật mí" dùng lâu được mọi người chấp nhận thành quen và được ghi vào sử sách "Chân dài" xuất phát từ " trường túc bất chi lao" "chân dài chơi không biết mỏi" là xấu là dâm chứ không đẹp đẽ gì....dan Toán bàn chữ đúng là lạm bàn có gì mong lượng thư ...trưng cầu thêm ý kiến của PGS-TS Ngôn ngữ học-Nguyen Nguyen Vu....cháu Anh Hong Truong he he...
  • Khuyenh Le Chú( bác) Nguyên Nguyên Trung Thuan nói chuẩn ạ.
    Theo cháu thì,tại sao có từ hán việt,từ thuần việt mà lại ko có từ giữa hai loại trên?
    Nói mà người nghe hiểu được tõ ràng ý và nghĩa của câu từ là dùng được.
    Ngôn ngữ là do con người đặt ra! Nói nhiều,nghe nhiều và hiểu rồi dần dần viết thanhf sách truyền lại cho mọi người thì sẽ thành ngôn ngữ. Sao chúng ta cứ phải cứng nhắc làm gì...
  • Hà Kiến Giang Văn chương chữ nghĩa ít phục nhau!
  • Nguyên Trung Thuan Lập luận của Songviet Luu rất đúng. Ngôn ngữ có những qui luật vận động phát triển riêng của nó, không thể dùng cái lí chủ quan của mình mà phán xét được đâu.
    Các bạn tưởng là tôi cố chấp, bảo thủ ư, nhầm to.
    Tôi chỉ muốn nói thế này: Các bạn bàn về ngôn ngữ cũng giống như tôi bàn về tôn giáo vậy, nói đến tôn giáo thì tôi giống như nhìn vào bức vách, nên im lặng là vàng.
  • Khuyenh Le Chú Songviet Luu nói rất rõ ràng. Phải như thế mới là tiếng Việt của người Việt ta đc ạ
  • Khuyenh Le Im lặng là vàng?
  • Nguyên Trung Thuan Tôi thích cách tư duy của Songviet Luu và Khuyenh Le.
  • Nguyên Trung Thuan Tức là biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe bạn ạ.
  • Người Rừng Cảm ơn bác Songviet Luu ...nhà iem tự "quán triệt đường lối" là rất sợ bác rồi ạ....hehe toán thì iem chưa biết ( cái nì phải nhờ cụ Hoa Thanh Quế) chứ chữ nghĩa với lịch sử....iem cứ phải gọi bác bằng Cụ.
  • Songviet Luu Tôi học ngành toán nhưng không làm toán đó là thật Người Rừng do hay chém gió lúc uống rượu và có trí nhớ tốt nên chém bậy đi cho vui thoai...he he...lý thuyết trò chơi và những suy luận có lý là của ngành Toán đoá ha ha..
  • Minh Hương Muộn mất rồi khi đã thành thói quen
  • Nguyên Trung Thuan Mình tìm hiểu nghĩa gốc của từ Hán Việt là đúng, để có dịp tìm hiểu thêm. Song như thế không có nghĩa là có thể qui kết từ đó được dùng với nghĩa khác trong tiếng Việt hiện đại là sai được. Bởi từ đó đã phát triển sang nghĩa khác, đã được cả cộng đông...Xem thêm
  • Người Rừng Với tinh thần ham học hỏi, những cơ hội như thế này giúp cho NR ngộ ra rất nhiều điều, học thuật vốn phức tạp, ngôn ngữ lại đa nghĩa.....sự uyên bác và chia sẻ , giải thích của các anh chị đã giúp cho NR biết thêm nhiều thứ. Rất cảm ơn chị Nguyên Trung Thuan , mong chị có thêm nhiều chỉ dẫn.
  • Songviet Luu "NHỮNG TỪ DÙNG SAI TRONG NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT"??? VẬY "NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT ĐÚNG" LÀ GÌ XIN TÁC GIẢ CHO BIẾT??? Theo tôi biết thế nào là đúng phải có trước sau đó mới bàn đến cái sai (so với cái gọi là đúng)...
  • Người Rừng Thấy vấn đề hay hay , nhà iem lôi về từ face VYL đó bác, nhưng xem ra , bàn bạc mổ xẻ bên đó thua nhà mình.
  • Nguyên Trung Thuan Cảm ơn NR đã tin cậy. Dĩ nhiên tôi cũng chưa phải là hạng cao siêu gì, nhưng ít ra cũng chỉ cho mọi người được cách suy nghĩ hợp lí. Tôi chỉ có một điều dở là ngại viết dài, hì hì.
  • Songviet Luu Thợ chém gió cả mà Người Rừng he he he...
  • Nguyên Trung Thuan Có thể khẳng định rằng tác giả bài viết trên hoàn toàn tư biện, tôi có thể bác lại được tất, nhưng rất mất thời giờ. Để khi nào có hứng tôi sẽ viết ra nhé.
  • Người Rừng Vâng, mong chị cho ý kiến khi có đủ cảm hứng và thời gian, Nguyên Trung Thuan
  • Nguyen Vu Songviet Luu không phải là nhà NNH nhưng nhìn nhận, phân tích có lý, có lẽ đấy. Vấn đề này không mới và ngay trên FB này một số người có chuyên môn (như anh Nandemo Meiyou và chị Nguyen Trung Thuan) cũng đã có ý kiến rồi. Bài viết của Hà Thủy Nguyên về cơ bản là sai, sai ngay từ cái đầu đề - người hiểu biết về tiếng Việt chả ai dùng "ngôn ngữ tiếng Việt", đến phương pháp luận - dùng kiến thức từ nguyên học để thay thế cho tri thức ngôn ngữ đồng đại của người bản ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của xã hội, nó biến đổi theo xã hội, theo thời gian và không gian nên không thể lấy tri thức, chuẩn mực ngôn ngữ của xã hội này, thời đại này, vùng miền này để đánh giá, phán xét hay làm chuẩn mực cho ngôn ngữ của xã hội khác, thời đại khác, vùng miền khác...
  • Songviet Luu Cảm ợn đồng đội Nguyen Vu đã tham gia và cho ý kiến chỉ giáo...
  • Người Rừng Ý kiến của bác Nguyen Vu rất ngắn nhưng rất thuyết phục, cảm ơn bác đã tham gia .
  • Trần Trung Thực Thực ra thì bản chất của ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, truyền tải thông tin. Tiếng Việt hay bất cứ ngôn ngữ nào cũng có những khiếm khuyết của nó. Tất cả các ngôn ngữ, có từ chuẩn, có những từ bị biến đổi (...Xem thêm
  • Canh Le Tôi nhớ hồi nhỏ, tôi hay đọc ké sách giáo khoa văn học của mấy chú ở trọ trong nhà để đi thi. Thông thường, đối với một từ Hán - Việt, sách sẽ chiết tự ra để giải nghĩa rành mạch ...

    Ví dụ : LƯƠNG ĐỐNG, sẽ được tách ra :
    ...Xem thêm
  • Người Rừng Đã có một tham luận ngắn của chuyên gia ngôn ngữ ....dù chưa đủ chưa phản biện hoàn toàn cả bài nhưng cũng đủ thấy tầm của chuyên gia phản biện là hợp lý , anh Canh Le có thể thảm khảo.
  • Canh Le Tôi vẫn thường đọc hết các bình luận trước khi bình luận mà ... Zí lại, tôi với "chiên da" í vẫn thường "ỏm tỏi" mí nhau ...
  • Canh Le Như nhà bác Songviet Luu bình luận : "Ngôn có trước, ngữ có sau, ngữ ghi lại ngôn, ngôn biến theo cuộc sống không bị gò bó, ngữ theo không kịp ngôn để diễn tả ngôn nên thường chậm hơn và hay sai lệch ..."

    Lấy ví dụ như từ OK, nó được dùng rất phổ biế
    ...Xem thêm
  • Canh Le Như từ PHONG KIẾN, PHONG tước và KIẾN địa, thì thời nhà Trần của ta chẳng phải là như vậy sao ? Các vương hầu được ban điền trang thái ấp riêng, có quân đội riêng, đối xử với nô lệ của mình theo luật lệ riêng ... Người ta gọi đó là CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN PHÂN QUYỀN, hay TẢN QUYỀN, để phân biệt với CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TẬP QUYỀN, hay CỰC QUYỀN ...
  • Canh Le Nhưng khi từ ngữ bị hiểu sai lệch, bị lạm dụng bừa bãi, nó có thể gây ra những hậu quả như vầy :

    https://www.facebook.com/.../232187096919722
       Ở Việt Nam hiện nay, có quá nhiều người thích gắn cái "mác" "nghệ sĩ" lên người để lòe thiên hạ - vì danh hay vì lợi, hay cả hai - để che đậy cho những những suy nghĩ hời hợt, tục tằn ... ; để đắp
    Của: Canh Le
  • Canh Le Người Việt mình khi nghe chữ LỆ là nghĩ ngay đến "nước mắt", nhưng chữ LỆ còn có nghĩa là "sáng đẹp" : LỆ VŨ PHƯƠNG LÂM ĐỐI CAO CÁC, chữ LỆ ấy nằm trong MỸ LỆ, TRÁNG LỆ ... Nhạc sĩ Phạm Duy từng viết bài "Nước Mắt Mùa Thu" để tặng cho ca sĩ Lệ Thu, ai ...Xem thêm
  • Khuyenh Le Cháu thấy bác. Nguyên Trung Thuan nói là có người đang cố tìm cách chứng minh tiếng Hán bắt nguồn tứ tiếng Việt cháu lại thấy cao hứng. Bởi nếu đúng người Việt mình lại có thêm niềm tự hào mới !
    Khả năng này vẫn có thể, vì tuy lịch sử dân tộc ta ko so được với nước Trung Quốc, nhưng về mặt con người chúng ta cũng tồn tại và phát triển song song với họ.
  • Nguyên Trung Thuan Nhiều điều lí thú lắm cháu ạ. Chỉ có điều, Việt nói tới ở đây là Bách Việt, mà Lạc Việt là một trong đó. Bác đã có một vài phát hiện sắp công bố.
  • Khuyenh Le Hy vọng cháu sẽ sớm được biết những phát hiện của bác ạ. Hi
  • Nguyên Trung Thuan Dĩ nhiên không phải chỉ là chuyện ngôn ngữ, mà là những phát hiện thuộc về nền văn hóa Lĩnh Nam, Bách Việt xưa. Nhiều người đang phát hiện dần rồi đấy.
  • Khuyenh Le Hi, cháu có đọc tác phẩm :" Anh hùng lĩnh nam", cháu thấy tác giả viết cũng rất sát với lịch sử dân tộc ta ạ. Có chút hư cấu, nhưng thực sụ cháu rất thích !
  • Nguyên Trung Thuan Muốn tìm về tổ tiên Bách Việt, phải giỏi tiếng Tàu.
  • Khuyenh Le Cái này thì đến thời hậu Hán nước Việt lại trùng hưng,...
    Thì ra người Việt lại xuất sứ từ Chiết Giang, Trung Quốc
  • Khuyenh Le Hị hị
    Tiếng tàu thì cháu biết nói sơ sơ, nhưng chữ viết thì cháu nhìn vào giống như " gà xem tranh" ạ ...!
  • Nguyên Trung Thuan http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1ch_Vi%E1%BB%87t
    vi.wikipedia.org
    Bách Việt (chữ Hán: 百越/百粵; bính âm: bǎi yuè) là một thuật ngữ lỏng lẻo bao hàm các dân tộc Việt cổ không bị Hán hóa hoặc bị Hán hóa một phần đã từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam giữa thiên kỷ I TCN và thiên niên kỷ I CN[1][2]. Đây cũng là từ cổ…
  • Nguyên Trung Thuan Dân nghiên cứu, nhất là về KHXH, không biết tiếng Tàu thiệt thòi vô cùng.
  • Anh Hong Truong Là một người được học ngoại ngữ, mình xin mạo muội đóng góp ý kiến nhỏ thế này. Mình hoàn toàn đồng ý với cậu Songviet Luu và chú Nguyen Vu về ảnh hưởng của đời sống đến sự thay đổi và phát triển của ngôn ngữ. Tác giả bài viết có trích dẫn tiếng Pháp nên mình cũng xin đưa ví dụ về xu hướng sử dung tiếng Anh. Theo cảm nhận của mình, tác giả đã chỉ ra ranh giới giữa động từ, tính từ và danh từ... Tuy nhiên, theo quan sát của mình, xu hướng sử dung "thể bị động" như một tính từ của động từ là rất phổ biến trong tiếng Anh. Ví dụ động từ "ấn tượng" (impress) tác giả đề cập trên đây thường đươc sử dung hai cách: "Cậu ấy làm tôi ấn tượng" (He impressed me) hoặc "tạm dich "Tôi ấn tượng với cậu ấy" (I was impressed by him). Cách sử dung thứ 2 là thể bị động. Động từ đã được sử dung một phần giống như tính từ. Tác giả cũng tách rời việc sử dung hai động từ "cảm giác" (feel) và "cảm nghĩ" (think). Thực ra sự tách rời này trong ngôn ngữ hiện đại là rất khó. Bởi vì "cảm giác" (feel) đôi khi đi trước và bao trùm cả "cảm nghĩ" (think). Đã có nhiều bài viết phân tích động từ "cảm giác" (feel) có hai ý nghĩa song song là "cảm giác" thuần túy (sense) và "khả năng cảm nhận" (sensibility). Nói đến khả năng tức là đã bao gồm đến "cảm nghĩ" (think) ở trong hành động. Ví dụ, "I feel something so wrong" tạm dich là "Tôi cảm giác hoặc cảm thấy có cái gì đó thật không ổn".
    Nói một cách xác đáng, bài viết của tác giả đã thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ, đặc biệt tiếng Hán và tiếng Nôm và có nhiều kiến thức cho thế hệ chúng mình học tập. Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng có đời sống và luôn luôn thay đổi để biểu đạt những giá trị mới của xã hội. Ngược lại, con người cũng vậy cũng phải học cách thích nghi với sự thay đổi của ngôn ngữ để hòa nhập với xã hội. Nói như Anhxtanh, mọi thứ đều có giá trị tương đối thôi, đặc biệt là sự mềm dẻo của ngôn ngữ. Vì thế, nếu "phân tích" ngôn ngữ như các ngành khoa học đòi hỏi sự chính xác là đã đánh mất cái bản ngã của nó rồi,

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét