XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Lịch sử Sài Gòn – hậu bán thế kỷ 19

Nguyễn Đức Hiệp
Theo tài liệu chính thức, thì thành Sài Gòn xây năm 1791 theo kiến trúc của Olliver de Puymaniel, dân số vào năm 1860 là khoảng 200.000, Chợ Lớn từ 12 đến 15.000 ngàn dân. Khi chiếm thành Sài Gòn năm 1859, trước khi trở ra Đà Nẵng và để lại một số quân trấn giữ ở Sài Gòn, đề đốc Rigault de Genouilly đã cho đặt chất nổ phá hủy thành Sài Gòn (do Minh Mạng xây lại sau khi phá hủy thành Phiên An sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi). Cũng theo tài liệu chính thức thì tiếng nổ kinh hoàng, lòng đất rung rinh các tảng đá to lớn của thành văng trên không. Kho lúa lương thực cháy cả tuần và âm ỉ cháy sau đó. Sau khi chiếm được Sài Gòn, thành phố chung quanh thành Sài Gòn hầu như bị hoàn toàn cháy hủy một phần do chiến tranh và một phần do dân chúng bỏ đi đã tự tiêu thổ đốt cháy tất cả, chỉ có khu Chợ Lớn không bị thiệt hại gì. Vì thế Pháp đã hoàn toàn thiết kế lại thành phố theo kiểu Tây phương.Dân số ngay tại Sài Gòn lúc đó (1859) chỉ còn 5 đến 6000 người, nhưng chỉ 15 năm sau (1874), dân số Sài Gòn (không kể Chợ Lớn và vùng phụ cận) là 13448 người gồm 965 người Âu (trong đó Pháp là 913), 6246 người Hoa, 5595 người Việt, 205 người Ấn độ quốc tịch Pháp, 4 người Hoa quốc tịch Pháp, 1 người Phi châu quốc tịch Pháp, 161 Ấn độ, 135 Mã Lai, 17 Tagals (Phi) và chỉ 6 người Cao Miên, 2 Nhật (2) (11). Năm 1896, dân số là 44764, tăng lên hơn 3 lần (trong đó có 3258 người Âu,13801 người Hoa, 26411 người Việt và số còn lại 1294 là người Cao Miên, Mã Lai, Ấn độ (Hindou) v.v…). Người mà Pháp gọi là Mã Lai chính là người Chăm vì về phương diện ngôn ngữ và chủng tộc thì người Chăm là thuộc hệ ngôn ngữ Malay và chủng Austronesian. Sài Gòn trở thành thành phố đa chủng tộc, đa văn hóa.Sau khi đã hoàn toàn chiếm Sài Gòn-Gia Định, ở phía Đông Nam thành Sài Gòn đã bị hủy, Pháp xây 1 nhà thương, 1 nhà thờ, nhà in và kế cạnh đó là dinh rất lớn mà đề đốc Bonard xây từ nhà gỗ đã được mua từ Singapore. Trong nhiều năm ngôi nhà này là nơi thống đốc ở. Ở khu giữa nơi này và sông, lần lượt các tòa nhà được xây lên, trường thông ngôn, bệnh viện mới, cô nhi viện Sainte-Enfance. Như đã đề cập trên, thành Sài Gòn và các nhà gần sông, rạch Thị Nghè, rạch Bến Nghé bị hủy trong chiến tranh và cũng do chính người dân thiêu hủy lúc bỏ đi khi quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn. Nơi này trước đây có khoảng 50000 dân. Sau 1859 chỉ còn khu vực Chợ Quán, giữa thành Sài Gòn và Chợ Lớn, là vẫn còn hiện diện có cư dân tập trung, nơi đây là xóm của những người theo đạo trước đây, họ đã không bỏ đi tiêu thổ khi quân Pháp đến Sài Gòn.Không lâu những làng cũng được được tái lập từ những người di tản chiến tranh trở lại định cư ở giữa vùng Chợ quán và vùng cao về phía giữa Kì Hòa, cánh đồng mộ và thành Sài Gòn củ (5 làng) và ở rạch Thị Nghè 4 làng. Năm 1862, có 11 khu dân cư trở lại với khoảng 8000 dân. Ngoài người Việt, năm 1864 có 6000 người Hoa, hầu hết là nghề buôn bán sống trong khu vực từ gần bờ sông, kinh rạch đến khu Tong-Keou (Thuận Kiều) về hướng Củ Chi và khoảng 200 người Ấn sống nghề nuôi gia súc và lái xe ngựa. Pháp dùng tiền tệ mới france, một franc tương đương với 1 quan (1 quan bằng 10 tiền và 1 tiền bằng 60 đồng). Lúc này để thiết lập cơ sở thương mại và giao thông, các bờ sông được nâng cao; công binh đã san bằng các điểm cao (2 hay 3 mét) trên vùng cao giữa thành Sài Gòn và cánh đồng mả. Các điểm cao này bị san bằng và đất được dùng để lấp các vùng thấp. Khi độ dốc trở nên đều hơn thì các đường bắt đầu được thiết kế, cắt thẳng góc nhau. Những con lộ lớn này được lát đá và trồng các cây lớn dọc hai bên, các nhà dọc đường rất ít và xây lên rất chậm; bởi vì người Pháp đến định cư còn rất ít và vật liệu rất thiếu nên chỉ xây các nhà cây, các công chức sống trong nhà giống người Việt và ngay cả thống đốc chỉ có dinh bằng gỗ, được mua từ Singapore, tháo gỡ ra trước khi chở đến Sài Gòn để ráp lại. 
Dinh gỗ này ở vị trí góc đường rue Taberd (sau đổi là rue Lucien-Mossard tức Nguyễn Du ngày nay) và rue Imperiale (sau đổi là route nationale, rue Paul Blanchy tức Hai Bà Trưng ngày nay) trong khuôn viên của trường Frères des Écoles Chrétiennes (Taberd).Năm 1873 dinh toàn quyền mới, to lớn khang trang hơn, được hoàn thành ở vị trí là dinh Thống Nhất ngày nay (dinh này, sau gọi là Palais Norodom. bị phá hủy sau cuộc đảo chánh 1961 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và được xây lại mới gọi là dinh Độc lập tức là dinh Thống Nhất ngày nay).Cây cối được trồng hai bên đường mới xây, lúc đầu là các cây xoài vừa có bóng mát và trái cây (nhưng về sau các cây này bị chặt bỏ để trồng các loại cây khác như sao, cao su vì vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 xe đi lại dễ gây tai nạn cho các trẻ con thu lượm hái trái cây. Đường Jauréguiberry, nay là Ngô Thời Nhiệm, trong thập niên 1940-1950 vẫn còn các cây cao su )Năm 1865, các tòa nhà dọc sông Sài Gòn được xây dựng cho hảng tàu biển (Messageries maritimes) mà tòa nhà lớn trụ sở của công ty là nhà Rồng ngày nay. Các kinh đầy bùn, các hố rãnh cây cối mọc hoang dại, các đổ nát sau cuộc chiến vẫn còn thấy, làm Sài Gòn vào năm 1864 giống một nơi cắm trại hơn là một thành phố. Trong đêm 2, 3 tháng 9 cùng năm (1864) có con cọp vào vườn Esperance nơi pháo binh ở. Năm 1864 cũng là năm thành lập nhà thương Chợ Quán gần rạch Bến Nghé, trước đó giám mục d’Isauropolis, ông Lefebre tự thành lập bệnh xá nhỏ năm 1861 tại nhà ông, ông tự săn sóc cho những người không phân biệt nghèo khó. Khi chuyển đến bệnh viện mới ở Chợ Quán tháng 9 1864, bệnh viện có thể điều trị 180 bệnh nhân, và có một bác sĩ và 3 soeurs chăm sóc bệnh nhân. Ông thống đốc de la Grandière cũng cho lập một vườn bách thảo, dưới sự quản lý của thú y sĩ, M. Germain trong đoàn quân viễn chinh. Ngày 28/3/1865 ông M. Pierre, nhà thực vật học được cử làm giám đốc với 12 mẫu tây vườn cạnh rạch Thị Nghè.Thành phố Chợ Lớn phát triển nhanh nhất. Dọc rạch Bến Nghé, kinh Tàu Hủ và trong thành phố Chợ Lớn năm 1864 đã mọc lên nhanh chóng các nhà chính xây ngăn nắp thẳng hàng theo kế hoạch. Và một vài người Hoa với một tinh thần doanh nghiệp đắc lực gan dạ, một đặc tính dân tộc của họ, đã bắt đầu xây các nhà lầu. Đề đốc De La Grandière đã nhận thấy điều này, và ông đã mời một thương gia người Hoa giàu có, tên là Ban-hap, người đầu tiên xây ngôi nhà lầu đẹp, đến để thưởng một đồng hồ quả lắc. Ban-hap mặc dầu là triệu phú nhưng rất thích món quà này. Ông ta đã dành riêng trong nhà ông một phòng đẹp nhất để chứa đồng hồ quả lắc của đề đốc De La Grandière tặng. Và ông đã bỏ ra nguyên ngày trong bộ đồ lễ, đi sau 4 người thợ khiêng trên một kiệu vàng chiếc đồng hồ quả lắc, quà của thống đốc, cùng với bằng khen. Ông đã để cho các chức sắc chiêm ngưỡng trước khi đặt vào trong phòng danh dự mà ông đã sữa soạn sẵn. Ban-hap cũng là hội viên sáng lập Hội trung ương cứu trợ tàu bị đắm (Société centrale de sauvetage des naufragés) thành lập năm 1865 ở Pháp với hội viên trên khắp thế giới. Ông cũng là chủ một xưởng làm thuốc phiện ở Sài Gòn.Theo thống kê năm 1869 của 6 tỉnh Nam kỳ (Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên) cho thấy toàn Sài Gòn có dân số là 104522, Chợ Lớn 35900. Ở hậu bán thế kỷ 19, chung quanh Sài Gòn vẫn là các cánh đồng vô tân, gần Thủ Đức và trên đường đi Biên Hòa là các rừng trong đó có heo rừng, nai, chim công và cả cọp nữa. Theo bác sĩ Albert Morice (1848-1877), người sống ở Nam kỳ và viết về vùng đất này vào các năm 1872-1874, thì vùng phụ cận chung quanh trung tâm thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn và giữa đường Sài Gòn-Chợ Lớn là các cánh đồng rộng lớn đến tận chân trời, trong đó có những suối, đầm lầy, ruộng lúa, ruộng trồng đậu phọng.“…Trong rạch, suối có nhiều cá mà dân bản sứ bắt ăn. Trong các đầm lầy có nhiều loài ếch, mà trong đó có một loại gọi là ếch bò (grenouille boeuf, Callula pulchra mà ta gọi là ễnh ương) kêu những tiếng lạ và cháy tai làm những người Âu lúc đầu ngạc nhiên nhưng sau đó nhàm lổ tai họ.

Ở phía đông Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, có vài đồi nhỏ trên đồng bằng và nhiều mảnh rừng xuất hiện. Thay vì đất bùn đỏ ở thủ đô Sài Gòn và đất đen xanh vùng quê Sài Gòn, ở đây người ta đi trên các lộ mòn trãi cát trắng trong các rừng ở Pointat (?) và Tu Duc (Thủ Đức). Những rùng này là nơi các đến của nhiều chuyến đi săn; vào ngày chủ nhật, một số dân đến giữa các khu rừng này để bắn chim sẻ và chim cu gáy (tourterelle). Đôi khi người ta cũng bắn được các con công. Heo rừng và nai thì rất thường gặp và đôi khi gặp cả "Ông Cọp" đến từ Bà Rịa và Biên Hòa để đi kiếm ăn.May thay cho chúng ta ngày nay (tức thời 1872-1874) là thời gặp “ông cọp” đã vừa qua khi mà đôi khi chúng bắt ăn một vài người canh đơn độc. Tiếng nổ từ súng của chúng ta đã từ từ làm chúng tránh xa; khu rừng nhiệt đới thiên nhiên gần đó có nai, bò rừng và công đủ để thỏa mãn dạ dày và cung cấp cho chúng các món ăn ngon…Để có thể quản lý vùng đất vừa chiếm ở Sài Gòn, trong giai đoạn đầu họ đã lập trường thông ngôn, Collège Indigène de Sài Gòn, xây nơi mà xưa kia là rạp hát bội của Lê Văn Duyệt. Khi khánh thành năm 1877 sau 3 năm xây thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat, và từ 1928 trở thành Lycée học hết bậc trung học (tú tài).Hình 1 - Bản đồ Sài Gòn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 – Phía trái là đường xe lửa đi Chợ Lớn và Mỹ Tho. Đường xe lửa đến tận bến sông Sài Gòn, ở góc đường Charner (Nguyễn Huệ). Tân Định lúc này vẫn là làng và cạnh vườn Tao Đàn là làng Xuân Hòa. Kế Tân Định là làng Phú Hòa và làng Nam Chơn (hiện nay còn dấu tích làng Nam Chơn là đình Nam Chơn ở đường Trần Quang Khải). Đường Trần Hưng Đạo đi Chợ Lớn chưa có, vùng này là làng Tân Hòa. Đi Chợ Lớn cũng có đường (route basse) dọc rạch Bến Nghé-kênh Tàu Hủ (arroyo chinois), xe lửa (tram) cũng chạy trên con đường này từ trạm ở quảng trường Mê Linh dọc Quai de Commerce và Quai de Primauguet (Bến Bạch Đằng) đến Chợ Lớn. Quai de Primauguet sau đổi thành Quai de Francis Garnier. Tòa thị sảnh chưa xây, thành Sài Gòn không còn, đường dọc theo thành (Boulevard de la citadelle) nay là đường Tôn Đức Thắng (phía dưới) và đường Đinh Tiên Hoàng (phía trên). Giữa hai đường Boulevard de la Citadelle là trại lính bộ binh (caserne d’ infanterie, nay là sân Hoa Lư), trước đó không lâu nơi trại lính này là trung tâm thành Sài Gòn (thành Phụng). Thành Sài Gòn không còn. Trên bản đồ có ghi đường Thuận Kiều chạy ngang Jardin de Ville tức vườn Tao Đàn (trước 1975 là đường Lê Văn Duyệt, nay là đường Cách Mạng tháng Tám) và đường Mọi (rue des Moïs, sau đổi là rue Richaud và nay là đường Nguyễn Đình Chiểu)Chức thống đốc Nam kỳ (gouverneur de Cochinchine) bắt đầu từ năm 1878 được trao cho dân sự, không còn là thuộc quân sự bổ nhiệm nữa (lieutenant-gouverneur) dưới sự lớn mạnh dần của nhóm công hòa theo Leon Gambetta. Ông thống đốc dân sự đầu tiên là Charles Le Myre de Vilers. Nhiệm kỳ ông từ 1879 đến 1883, ngắn nhưng ông đã thiết lập kế hoạch đô thị và để lại nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ở Sài Gòn. Dưới thời ông de Vilers, ông Blancsubé, thị trưởng Sài Gòn là người đầu tiên được bầu là đại biểu Nam kỳ.4 | T r a n gÔng có ảnh hưởng lớn về sự phát triển đô thị Sài Gòn. Khi Vilers đến năm 1879, với chỉ thị rất rõ: gia tăng xây các tòa nhà công cộng, mang lại không gian sức sống, phát triển hoạt động kinh tế. Trong vòng 4 năm nhận trách nhiệm, nhịp độ xây cất mới gia tăng nhanh chóng. Sự đầu cơ địa ốc và các thương lượng thương mại của các thương gia đã làm giá đất bán đấu giá tăng cao độ. Kế hoạch đô thị trung tâm thành phố hình thành. Ông lập ra một ủy ban nghiên cứu về giao thông đường biển, bộ đặt dưới sự hướng dẫn của bác sĩ quân y hải quân Lapeyrère trong đó có đề án và kế hoạch làm đường xe lữa Sài Gòn-Pnom Penh. Ông tách ra quyền hạn rõ ràng giữa dân sự và quân sự, làm rõ và cải tổ luật hình sự, thiết lập hội đồng thành phố và các hội đồng quận. Nhưng nhiều chương trình kế hoạch duy ý chí của ông gặp phải sự chống đối. Hội đồng quản hạt (Conseil Colonial) chống lại phương pháp không thương lượng hỏi ý kiến của ông.Le Myre de Vilers chống lại ý định của Pháp xâm chiếm Bắc kỳ (Tonkin) để làm địa bàn mở rộng buôn bán thương mại thông thương với thị trường nam Trung quốc qua ngã Vân Nam và Quảng Châu. Vì thế ông bị bãi nhiệm vào tháng 5/1882. Ông trở về Pháp năm 1883 mang theo nhiều hình ảnh quí giá về những công trình của ông. Các hình ảnh này nằm trong kho lưu trữ Quai d’Orsay hơn 120 năm cho đến khi tổng lãnh sự Pháp ở Sài Gòn công bố năm 2002.Ông Petiton mô tả một phần chợ Vải như sau: “Chợ Sài Gòn gồm hai dãy nhà lợp bằng ngói hay tranh. Không có gì sáng sủa cho lắm, bên trong mỗi gian ở chính giữa là đường đi, mổi bên là các cửa tiệm nhỏ, các hàng bán lộ thiên; bên ngoài là các hàng bán cá, các nhà buôn bán trái cây, rau. Chợ có đầy các đứa trẻ mang giỏ, luôn luôn theo sát bạn để đựng cho bạn các hàng bạn đã mua. Đôi khi bạn thấy có một bàn trên đó có một người Ấn (Malabar) hay một người Hoa ngồi co, đó là những người đổi tiền. Đi quanh chợ bên trái và bên phải là các người Ấn được chủ chợ thuê đến mỗi gian hàng người bán nhận tiền một hào (dime) và đưa lại họ tờ biên nhận trả tiền.Những quân nhân Pháp cũng đến đây để mua thực phẩm bổ sung cho phần ăn thường tình của họ; bạn sẽ thấy họ đi ra khỏi chợ cặp đôi với một giỏ treo trên cây tre trên vai họ; nếu bước đi của người Việt và người Hoa sống động và nhanh chóng, thì bước đi của lính chúng ta khi họ khiêng đồ thật là nặng nhọc chậm rãi, trên miệng họ là một điếu thuốc xì gà tồi tệ hiệu Vevey (Thụy sĩ), dài cũng như rất tệ và không hút được. Đoàn lính mua đồ đi ra, theo sau là một trung sĩ hay thượng sĩ, không hơn không kém thanh lịch.Các con chó, giống như các chó Việt Nam, được thả rông tự do kiếm ăn ở chợ, đa số chúng tụ tập ở các hang thịt người Hoa, với dao cầm trong tay, thái những miếng thịt heo nhỏ, ít khi làm cho người Âu muốn ăn.Lúc 9 giờ tối, những khách hàng rất ít còn lại, cũng vội vã ra về, trời đã trở nên nóng thêm”Ông Petiton nói đến ở dọc bến Sài Gòn là nơi duy nhất có một vài quán café. Các quán café này của thời đó ta có thể thấy như sau trong một hình ảnh của bộ sưu tập của ông thống đốc le Myre de Vilers năm 1882.Ông Marcel Monnier (1853-1918) trong quyển “Le tour d’Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin” viết là lúc ông từ bến tàu về khách sạn, ban đêm hai bên đường Catinat (Đồng Khởi) có các cột đèn đốt sang bằng dầu hỏa gây cho ông có cảm tưởng là đèn Sài Gòn đã thay đổi từ gas sang điện.Ta có thể thấy phong cảnh sinh hoạt của Sài Gòn ở 5 | Trang vùng ngoài, theo như ông Petiton kể. Nhà ông Petiton ở lúc ông thăm Sài Gòn nằm ở kế trung tâm thành phố thời bấy giờ, từ đường nơi có nhà giam đi về hướng Chợ Lớn nằm cách rạch Bến nghé thông với kênh Tàu Hủ khoảng 4 hay 500 m (đường Lý Tự Trọng hay đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay). Theo ông tả thì nhà (le cai-nha) gần đường lộ, chung quanh là vài cây dừa và các cây cau. Đối diện nhà về phía trái là một công sở.Khoảng 6 giờ sáng là Sài Gòn bắt đầu cuộc sống thành thị. Ra khỏi nhà, ông thấy hai người Hoa gánh nước trong đó có một người ở trần và một người Việt gánh nước sau hai người này. Sau đó ông thấy trên đường có rất nhiều đàn ông, đàn bà, phụ nữ, trẻ con, các người đi bán mang giỏ chứa hang, các người Hoa có đuôi tóc sam, người Tagal (lai Tây Ban Nha và Phi Luật Tân). Có một người mà người ta gọi là Bồ Đào Nha Singapore hay Quảng Đông (lai Bồ và Hoa): ông này là người phiên dịch của sở giám sát (inspection de Sài Gòn) cho bang Quảng Đông. Người Hoa có 5 bang ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Một xe bò do các con trâu kéo đi chậm rã, nhịp nhàng. Quay về phía nhà ông ở, ông thấy vài con trâu ngay trong vườn!. Qua diễn tả của ông Petiton, ta thấy Sài Gòn ngay vùng mà ngày nay được coi như thuộc trung tâm Sài Gòn, lúc bấy giờ còn rất quê với vườn dừa, cau và có cả các con trâu chung quanh. Đời sống Sài Gòn như thế nào?. Ta hãy đọc những gì ông Petiton viết như sau:“…Đúng 10 giờ sáng là lúc nhân viên từ công sở đi ăn trưa và sau đó về nhà nghĩ trưa cho đến 2 giờ chiều. Một số đọc báo, sách còn lại đa số là ngủ trưa. Thành phố từ 12 giờ trưa đến 2 giờ, rất vắng người vì mặt trời nắng. Lúc 2 giờ mọi người trở lại làm việc. Vào lúc 5 giờ chiều khi tiếng trống kẻng nổi lên, mọi người đủ loại giới, trí thức, thông ngôn Việt, hay Hoa vui vẽ hối hả ra khỏi nơi làm. Những người thông ngôn hay các trò học thông ngôn rất hảnh diện với vẽ quan trọng. Họ lãnh 100 franc mỗi tháng, đó là một số tiền lớn cho những người công chức ViệtNam. Lúc 5 giờ rưỡi là lúc các người cảnh sát (matas) ra về. Lúc này cũng là lúc có nhiều xe ngựa riêng của các chủ xe đi dạo đến vùng Chợ Lớn và Cầu Ông lãnh. Khoảng 5 giờ rưỡi hay 6 giờ chiều là lúc giải trí đi dạo bằng ngựa hay xe ngựa. Đường đi dạo bằng xe ngựa thông thường nhất là đường đi Chợ Lớn cách Sài Gòn 5km. Ở giữa đường Sài Gòn-Chợ Lớn là khu đầm ao hồ (Mares) nơi đó có trại lính kỵ binh đóng ở Sài Gòn.Sáu giờ chiều, những công nhân người Việt và Hoa chấm dứt giờ làm việc trong ngày, và từng nhóm lớn đi về những ngoại ô đông dân và trãi dài ở Cầu Ông Lãnh và Gò Vấp. Tôi thấy lúc này cần phải hoạt động và đi bộ một chút; trên tất những đường tỏa ra từ thành phố, tôi gặp một hàng người Việt đi bộ, người này đi sau người kia; trời tối sụp xuống nhanh chóng. Tôi nghe vài tiếng súng bắn báo hiệu cho tôi biết là các tàu chiến trong vũng tàu bắt đầu kéo cờ xuống.Ban đêm đã đến, 7 giờ; cần ngồi xuống trước bửa ăn tối mà bất kỳ ai làm cho anh cũng giống như bửa ăn tối trên tàu mà anh đang say sóng. Bảy giờ rưỡi, kèn hiệu đi nghĩ được gióng lên: tất cả những người lính tốt đều đi ngủ.Lúc 8 giờ, tiếng súng đại bác nói lên điều gì tôi cũng không biết; có thể là giờ cảng sông Sài Gòn đóng cửa. Sau tiếng cà nông, nếu anh ra đường lúc này, thì là bắt đầu một cuộc đi chơi lý thú.Ban đêm ở Sài Gòn, không giống chút nào với Sài Gòn lúc ban ngày. Người Hoa với các loại lồng đèn đủ màu, các tiệm may, tiệm sửa giày v.v... các nhà chơi bài, các người bán hàng ăn rong lưu động làm cho thành phố có một dấu ấn đặc biệt đập vào mắt người ngoài.
Ở thời điểm chưa có máy bay là phương tiện chính liên lạc như sau này, thì Sài Gòn liên hệ với thế giới bên ngoài là qua tàu thủy chạy bằng hơi nước. Ở Sài Gòn cuộc sống một ngày hôm nay giống như ngày hôm trước và ngày mai, trừ thời điểm lúc tàu thủy sắp cặp bến.Những ngày chờ tàu từ Pháp đến khi tàu bắt đầu vào cảng Sài Gòn từ Vũng Tàu là những ngày lý thú nhất cho tất cả mọi người. Tàu vào Sài Gòn từ Vũng Tàu lâu, vì con sông mà tàu đi vào rất uốn lượn nhiều ngã nên vì thế phải cần một tàu nhỏ chạy bằng hơi nước được gởi ra Vũng Tàu để hướng dẫn tàu vào. Khi tàu đến, trên đỉnh cờ một viên đạn tròn đen được kéo lên, và được hậu thuẩn bởi một phát súng cà nông từ tàu Duperré. Lúc tàu thả neo trong cảng thương mại đối diện với nhà rồng (messageries), cũng là lúc mà một phát đạn cà nông nữa báo hiệu.Tàu nghĩ ở Sài Gòn 24 tiếng trước khi đi Hong Kong. Một vài tiếng sau khi đậu bến, người ta tìm những lá thơ mình muốn trong hộp thơ mình, đây là lúc mọi người đều nôn nức.Vài giờ hay vài ngày sau khi tàu từ Pháp đến, tùy theo thời điểm trong năm, một tàu từ Nhật và từ Trung quốc cũng đến Sài Gòn, và nghĩ tại đây 24 tiếng trước khi đi Âu châu mang theo các lá thư qua đó. Những thương gia lúc này rất bận, họ chỉ có 24 tiếng để viết thư, để quyết định và giải quyết các vấn đề quan trọng. Khi các tàu đã đi thì Sài Gòn trở lại yên tỉnh như mọi ngày .…”Thống kê của bác sỉ Honoré Aurillac, năm 1870 dân số Sài Gòn như sau Viet Nam + Khmer + Mọi (indigenes) 220000, Hoa 18000, Ấn 700, Âu 600. Sau khi mô tả phong cảnh thơ mộng yên lặng thanh bình trong bệnh viện Sài Gòn giữa vườn cây, ông Monnier đã tả cảnh buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam kỳ (conseil colonial) như sau lúc ông đến tham quan và chứng kiến một buổi họp. Hội đồng quản hạt được thành lập năm 1880, gồm 6 người Pháp bầu bởi những người có quốc tịch Pháp sống ở Sài Gòn, 6 người Việt được bầu trong mỗi khu bầu cử bởi một hội đồng các đại biểu chọn từ mỗi làng bởi các chức sắc trong làng, 2 người từ phòng thương mại được các hội viên phòng thương mại đề ra và 2 người được thống đốc đề cử. Nhiệm kỳ là 4 năm, cứ 2 năm bầu lại phân nữa. Quyền hạn của hội đồng quản hạt tương đương như của các hội đồng dân cử ở các thuộc địa Anh (như Australia,Singapore…).cùng thời. Ngân sách toàn Nam kỳ là do hội đồng quản hạt quyết định, hội đồng liên hệ trực tiếp với bộ trưởng thuộc địa ở Pháp và có quyền lập ra các ủy ban điều tra.“… Tôi dành ở phần cuối nói về một nét địa phương không kém lớn lao, nơi không có thơ mộng văn chương, nhưng là nơi hội họp và bàn luận của một quốc hội “chân nhỏ”, không kém hùng biện, hào hứng trôi trãi. Cơ quan dân cử đầu tiên trong xứ này, đó là Hội đồng quản hạt.Không phải chỉ là phong cách và hình thức trang trí bên trong, chúng không có gì là đặc biệt để quan tâm. Ngoài những quạt treo trên trần (pankas) (chú thích của người dịch: chữ panka có nguồn gốc từ chữ Ấn độ “punkha” chỉ các quạt treo trên tường được các người hầu kéo qua các dây thừng trong phòng khách ở các nhà người Ấn, “punkha” được người Anh phổ biến đến các xứ khác trong vùng) và cân bằng nhẹ nhàng như có một bàn tay vô hình. Các bàn ghế, đồ đạt hầu như cũng giống như đa số các nơi khác danh cho các đại biểu. Phòng hình bầu dục, tất cả đều trắng, không có nét trang trí và nếp đường chỉ nào, hai bên mở ra hai ban công hành lang để công chúng quan sát. Chắc chắn là có những quốc hội khác không có chổ nào được bằng như ở đây. Tôi đã dự một buổi họp và đã không tiếc thời gian mất cho buổi chiều như vậy. Cuộc thảo luận hôm đó, nói thật ra thì chỉ gây một chú ý bình thường không có gì đặc sắc hào hứng. Hôm đó chỉ bàn những chuyện nhỏ mọn: các kiến nghị, 7 | Trang đòi hỏi các trợ cấp, nâng đỡ - rất nhiều đòi hỏi - lúc có câu hỏi không rõ về các thuế mới, về sự tăng thuế xuất khẩu lúa gạo thì cuộc thảo luận trở thành sống động. Nhưng cũng không lâu thì người ta trở lại các bản kiến nghị.Chung quanh bàn có hình móng ngựa, các đại biểu (conseiller) Pháp y phục trắng xen giữa các đồng nghiệp người Việt đội khăn đen, tất cả tách biệt trên thảm xanh lá cây như các mảnh quân trong trò chơi domino; những đại biểu bản sứ, rất nghiêm trang, đứng đắn, lắng nghe nhưng không hiểu, tuy vậy quyết không để nghe mất một câu nào. Duy nhất là lúc bỏ phiếu, thì người thông ngôn nói cho họ biết về tình hình diễn biến hiện tại và dịch những kết luận của báo cáo viên. Với vấn đề cá biệt, đã quá đi vào chuyên sâu, để có thể đi đến nói lại kết luận, người thông ngôn luôn tìm được phương cách để truyền đạt giống như người phát ngôn trong vở kịch “Bourgeois gentilhome” (“Trưởng giả học làm sang” của Molière), chỉ trong ba hoặc bốn chữ tượng thanh, gần giống như các từ như Belmen và Marababa Selhem (chú thích của dịch giã: những từ này dùng trong vở kịch trong đó Covielle giả nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với ông Jourdain dùng một chữ cô đọng nhưng có nghĩa rất nhiều, dài tương đương với vài câu trong tiếng Pháp. Covielle dùng những từ như trên hoàn toàn bịa đặt để gạt ông Jourdain gã con gái cho Cléonte). Điều này làm tôi nghiêng về ý kiến là tiếng Việt Nam có những đặc tính giống như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mà ta không thể bỏ qua được, nói lên được rất nhiều mà chỉ dùng một vài chữ thôi. Dưới đó, các ông đại biểu người địa phương (indigenes, tức Việt Nam) đội khăn nghe xong thì bàn luận rất nghiêm trọng, và sau đó đi qua vấn đề khác kế tiếp.Nhưng cá tính của hội đồng này, một lý do cốt yếu làm cho chúng ta có cảm tình, rất đơn giản, là nó không có sự hổ thẹn giã giối, không quá thận trọng nể vì, nó thể hiện cả sự yếu đuối của con người và sự nghiêm khắc chặc chẻ trong tranh luận. Nó ngược lại với những gì xảy ra ở các quốc hội hay hội đồng (parlement) khác, mà trong đó không khí tranh nhau rất khó thở ngột ngạt căng thẳng, rất thông thường át đi tiếng nói của những nhà đại biểu hùng biện. Ở đây tất cả mọi người đều nói được… và có rất nhiều giải khát. Không phải chỉ là ly nước đường truyền thống, dành riêng và được uống ừng ực kiêu ngạo của ông chủ tọa, mà nhiều ly nước cho tất cả mọi người. Những đại biểu của hội đồng quản hạt, chính họ cũng có quyền bất diệt là không bị chết khát. Trước mỗi đại biểu là một ly nước sinh lực (tonique) lựa chọn theo ý mình, được pha với nước soda và nước đá. Thỉnh thoảng một chú bé làm dich vụ, đi vòng quanh, chêm vào các ly đã cạn và trình ra trước các người đại biểu muốn hút thuốc đủ loại các thuốc lá, xì gà. Nếu những người kiểm duyệt tính tình nghiêm trang chán ngắt ủ rê muốn phản đối về những canh tân như vậy, tôi sẽ mời họ trước khi ra luật đến dưới bầu trời nắng da diết của xứ này trong vòng vài tiếng; sự đắn đo hão huyền của họ sẽ tan biến như tuyết dưới ánh nắng mặt trời. Đối với tôi, tôi cho rằng điều này không có vần đề gì với tôi. Hơn nữa, tôi có một ước nguyện, là đòi hỏi hội đồng nên nới rộng biện pháp hay như vậy cho đến cả những khán giả bình thường đến xem hơn là họ chỉ được thấy những ly nước uống giải khát, và hít mùi thuốc lá thơm mà thôi.…“Sau Le Myre de Vilers, thời thống đốc Paul Blanchy, cơ sở hạ tầng được tiếp tục xây dựng, đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho được hoàn tất và khánh thành năm 1885 do kỷ sư Thévenet thực hiện. Và năm 1891 bưu điện thành phố được hoàn thành.Sài Gòn, tháng 9 năm 1885, cũng tiếp nhận hàng ngàn người dân tị nạn. Họ là những người Việt theo đạo Thiên chúa chạy từ Qui Nhơn vào trên một tàu Đức chở đến sau khi thoát khỏi những chiến dịch cấm đạo diễn ra ở miền Trung do triều đình nhà Nguyễn khởi động, “trước khi đánh Pháp từ ngoài, trước hết phải diệt các ‘người Pháp bên trong’”, như những viên quan triều đình đã nói. Họ được các xứ đạo ở Sài Gòn tiếp nhận bảo trợ định cư lại ở vùng đất mới.Đến cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một thành phố đủ mọi sắc tộc Âu, Á sống không khác các thành phố cùng thời lúc đó là Singapore và Hong Kong. Năm 1888, một đoàn xiếc Australia “Woodyear’s Electric Circus” ghé Sài Gòn trình diễn trong hành trình đi lưu diễn ở nhiều thành phố Á châu và Thái Bình Dương.8 | T r a n gTrở thành một đô thị trung tâm thì phải có một tờ báo. Tờ báo Le Courrier de Sài Gòn, xuất bản một tuần 2 lần, ra mắt số đầu tiên ngày 3/4/1888 (lúc ông cựu thị trưởng Sài Gòn, Blansubé mất). Đây là tờ báo tư nhân đăng những tin liên quan đến thành phố và các nơi khác, từ các mẫu tin nhỏ nhất như đua ngựa, chương trình trình diễn trong nhà hát thành phố (không phải nhà hát hiện nay), tai nạn, trộm cắp…đến những tin về kinh tế, chính trị ở Đông Dương và quốc tế qua thông tin của hảng Reuter.Trong cuộc bầu cử đại biểu Nam kỳ vào quốc hội Pháp ngày 13/5/1888, tờ Le Courrier Sài Gòn đã ủng hộ ông Carabelli tranh cử với ông Ternisien. Tờ báo tấn công dữ dội ông Ternisien (luật sư ứng cử viên cộng hòa, chống lại hàng rào quan thuế nhập khẩu)) cho là ông Ternisien đã có những hành động bất lợi cho Pháp khi ông ở Cam Bốt thương lượng với vua Cam Bốt về những hợp đồng thương mại và thiết lập đường xe lửa mà lúc trước cựu thống đốc Le Myre de Vilers đã có dự định thiết lập. Những chi tiết cá nhân, thơ từ và quá khứ hoạt động của ông Ternisien đã bị tờ báo mang ra công kích. Nhưng ông Ternisien đã được nhiều người cử tri ủng hộ (nhất là người Ấn độ). Ông phó thống đốc, Navelle, đã gởi cho ông thị trưởng Carabelli 4 ngày trước ngày bầu cử cập nhật ghi lại danh sách các cử tri Ấn Độ, nhưng ông Carabelli từ chối vì cho là là không đúng luật và ông không có thẩm quyền làm như vậy. Chỉ khi ông Navelle khẩn cấp gởi thư ra lệnh dùng điều khoản 38 trong sắc lệnh ngày 8/1/1877 để bắt ông Carabelli phải thi hành. Lúc đó ông Carabelli mới chịu.Kết quả bầu cử là ông Ternisien thắng, trước ông Carabelli và ông Laurans (chủ nhiệm tờ Indochinois). Ở vòng hai ông được bầu vào quốc hội với số phiếu 710 (1,216 đi bầu trong số 2.144 cử tri ghi danh), hơn ông Carabelli với 494 phiếu. Nhưng ông Ternisien chỉ làm được 6 tháng thì qua sự khiếu nại của ông Carabelli về sự không rõ ràng của danh sách cử tri, quốc hội Pháp đã hủy kết quả và hoãn bầu lại đại biểu Nam kỳ cho đến tháng 4 năm 1889 để thiết lập lại danh sách cử tri trong đó những người Ấn từ thuộc địa Pháp ở Ấn độ khi ở Sài Gòn chỉ được bầu ở xứ họ chứ không được bầu ở Sài Gòn. Tuy vậy trong kỳ bầu cử tháng 4 năm 1889, thì cả ông Ternisien và ông Carabelli cũng không thắng mà người thắng vào quốc hội là ông Le Myre de Vilers, sau khi nhảy vào tham gia vào cuộc tranh cử đầy kịch tính này. Ông Ternisien sau đó trở lại làm nghề luật sư ở Vĩnh Long.Tháng 4/1888, thị trưởng thành phố ông Carabelli trưng bày ở tòa thị sảnh các dự án mang điện thắp sáng thành phố. Thành phố Sài Gòn sửa soạn bước vào thế kỷ 20./.
..theo Khám phá Việt Nam

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014

Tiên tri Vanga và Nostradamus dự đoán thế nào về hiểm họa 2014?

Vanga và Nostradamus là hai nhà tiên tri vĩ đại. Dưới đây là những tiên đoán có phần đáng sợ của Vanga và Nostradamus về năm 2014 và 2016.

Không cần phải nói thêm, Vanga và Nostradamus là hai nhà tiên tri vĩ đại. Khả năng tiên tri của 2 người khiến cả thế giới kinh ngạc, thậm chí kinh hãi. Bà Vanga dự đoán chính xác về thảm kịch của tàu ngầm Krush, vụ khủng bố tháp đôi 11/9 trong khi Nostradamus cũng viết trong quyển sấm truyền với những lời thơ ám chỉ thảm họa này.

Những lời tiên đoán về năm 2014 của nhà tiên tri Vanga

Đến năm 2014 “đa số người dân sẽ bị mụn nhọt, ung thư da và những chứng bệnh khác về da”. Và năm 2016, Châu Âu gần như sẽ không có người sinh sống.
Nhà tiên tri Vanga.
Nhà tiên tri Vanga
Có lẽ xuất phát từ dự đoán rằng năm 2010 sẽ bùng nổ Chiến tranh thế giới III và kết thúc vào năm 2014 nên bà đã đưa đến dự đoán nhân loại bị các bệnh tật do hậu quả của chiến tranh hóa học.
Cho đến nay nhân loại đã trải qua 2 cuộc chiến tranh thế giới khiến hàng chục triệu người chết và để lại hậu quả lâu dài về nhiều mặt. Mặc dù hiện tại, xu hướng hòa bình là chủ đạo trong quan hệ quốc tế, nhân loại vẫn cần cảnh giác với chiến tranh bởi lẽ khắp nơi, xung đột vẫn diễn ra hàng ngày hàng giờ. Nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến quy mô lớn đến như vậy được bà đặt ra không phải là không có cơ sở.

Những lời tiên đoán về năm 2014 của nhà tiên tri Nostradamus

Nhà tiên tri vĩ đại Nostradamus cũng có những dự đoán khá tương đồng với bà Vanga. Dưới đây là 10 lời tiên tri của Nostradamus về năm 2014:
Nhà tiên tri Nostradamus.
Nhà tiên tri Nostradamus.
10. Obama sẽ là vị tổng thống cuối cùng của Mỹ
Nostradamus đã tiên đoán chính xác về chiến thắng của Barack Obama trong cuộc bầu cử năm 2013. Ông cũng nói thêm rằng Obama sẽ là tổng thống cuối cùng của Hoa Kỳ. Tiên đoán này ám chỉ rằng nước Mỹ sẽ sụp đổ hay sẽ phải nhường vị trí đệ nhất siêu cường cho một quốc gia khác?
Điều này trùng khớp với dự đoán của nhà chiêm tinh Ai Cập Joy Ayad rằng năm 2014 sẽ khởi đầu cho sự kết thúc của nước Mỹ.
9. Những biến đổi thời tiết bất thường
Nostradamus cũng tiên đoán rằng những biến đổi bất thường của thời tiết sẽ xảy ra thường xuyên hơn và thảm họa thiên nhiên với sức tàn phá khủng khiếp sẽ xuất hiện nhiều hơn. Lời tiên tri nói: “Nước sẽ dâng lên còn mặt đất sẽ dần sụt xuống bên dưới”.
8. Sự sắp xếp thẳng hàng bất thường của các hành tinh
Sự sắp xếp bất thường này cùng với sự thay đổi của hệ mặt trời sẽ tác động lớn đến trái đất.
7. Trung Đông sẽ xảy ra chiến tranh
Nguồn gốc của những cuộc chiến tại Trung Đông là do nguồn dầu mỏ của những quốc gia vùng Vịnh.
6. Những vụ nổ ở Trung Đông
Nostradamus nói rằng những chiếc máy bay sẽ rơi từ trên trời xuống. Thực tế, Trung Đông đang xảy ra tình trạng bất ổn mạnh mẽ ở hơn 10 quốc gia như: Libya, Syria, Ai Cập, Somalia…
5. Ngày tận thế của thế giới
Nostradamus cũng đưa ra một lời tiên đoán mơ hồ dẫn đến suy đoán rằng cuộc chiến tranh Iraq là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo rằng thế giới sẽ bước vào ngày tận thế. Trước đó, người Maya cũng có lời tiên đoán tương tự, nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng những lời tiên đoán này sẽ không bao giờ thành sự thật.
4. “Trò chơi chiến tranh” của Nhà Trắng
Nostradamus nói rằng Nhà Trắng sẽ dùng những trò chơi chiến tranh với các vương quốc Arab. Mối quan hệ căng thẳng của cả hai bên chưa bao giờ trở nên dễ dàng, nhất là trong cuộc chiến chống khủng bố. Cả Iraq và Afghanistan vẫn chưa thấy được một ngày bình yên kể từ khi có sự xuất hiện của Mỹ.
3. Các cực sẽ tan chảy
Nếu bạn nhìn vào nhiệt độ cao nhất ở Bắc Cực, bạn sẽ tin vào lời tiên đoán này đang dần trở thành sự thật. Các nhà khoa học toàn cầu cũng đang tiến hành nghiên cứu về hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nhưng hiện tại nhiệt độ của Nam Cực không có dấu hiệu sẽ thay đổi.
2. Số phận của Israel
Trong đoạn thứ 34 của bức thư Epistle, Nostradamus đã viết rằng Jerusalem sẽ bị tấn công từ nhiều phía, và hải quân phương Tây sẽ giúp Israel trong cuộc chiến này.
1. Nga mang lại hoà bình
Nostradamus tiên đoán rằng một vị vua phía bắc đến từ Aquilon (ám chỉ Nga) sẽ giúp thiết lập hoà bình và trật tự thế giới. Người ta chưa bao giờ được thấy Mỹ và Nga cùng đứng về một phía, đặc biệt trong vấn đề xung đột ở Syria. Nếu lời tiên đoán này trở thành sự thật thì năm 2014 có thể sẽ chứng kiến nhiều sự kiện thú vị.
Năm 2014 mới đi qua được một nửa nhưng đã có biết bao nhiêu sự kiện kinh hoàng, thương tâm xảy ra. Nếu những lời tiên tri này trở thành sự thực thì quả thực có phần đáng sợ.
Phương Thảo (tổng hợp)

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

GS TRẦN QUỐC VƯỢNG – MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG


Cố GS Trần Quóc Vượng
Kính gởi Ban Biên tập Khoahocnet,
Đây là một tham luận của Cố GS Trần Quóc Vượng viết cho một hội thảo về vua Gia Long tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996. Do liên quan đến quan điểm chính trị nên hội thảo này không tổ chức được, và bài viết này cho đến nay được đăng lần nào.
Nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam rất thích bài viết này, nhưng rất tiếc chuyên luận này chưa hề được công bố.
Bản thân tôi đã sưu tập được bài viết này từ hơn 15 năm và ấp ủ nó được đăng chính thức để lưu trữ, nay xin gởi Khoahocnet. Nếu Khoahocnet đăng tải thì chắc chắn đây là lần đầu tiên được công bố.
Xin cảm ơn Ban Biên tập.
Nguyễn Anh Huy
* * *
 GS TRẦN QUỐC VƯỢNG – MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG

* PHẦN MỘT
0.1. Tôi không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945).
Tôi đã nói và viết tản mạn nhiều vấn đề về xứ Đàng Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.
0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5 (1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một sự “xét lại” về mặt sử học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống của Việt Nam, thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là:
- Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.
- Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.
- Và trong các vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng (1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !
1.0. Nay theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.
- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles đâu !
Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.
1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn ? Đó là một “lập trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).
1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi, quá lâu rồi !
* PHẦN HAI
01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.
01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:
Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài !
Nghĩa là:
Văn không sông núi, không cao diệu,
Người chẳng phong sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:
Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…
Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.
Thế mà đã có kẻ dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !
01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩlàm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.
01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…
01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng.
02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua !”.
Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ?
Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !
02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):
Lạy trời cho cả gió lên,
Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
                   Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra !
                   Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:
Thôi ! Thôi ! Thôi ! Việc đã rồi !
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta !
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !
02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại !
Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.
Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung ?
Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !
03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:
03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh Thịnh.
Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình ! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô !
Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.
Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là tuyệt ! Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học (psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy chứ, phải không anh ?
Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.
03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép:
Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…
Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.
03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như dân, bất nhân như lính”.
Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:
03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam văn học sử yếu của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú” (và do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.
03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời trung học Pháp thuộc).
Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).
03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh rể  – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu” theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.
Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và UBND xã.
Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi được chiêu đãi một bữa bia “đã đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương !
03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.
Thật là lạ ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.
03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta !
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không !, vua Gia Long nói tiếp: - Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết !
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).
  
* LỜI TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của NGUYỄN ÁNH ?
Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học chính tông.
Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.
Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.
                     Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)
                                 Mùa thu tháng Tám, 1996
Kính nộp,
GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)
(1) Có nhà Việt Nam học ở Liên Xô (cũ) còn xem vai trò Gia Long như vai trò của Pi-e đại đế nước Nga xưa nữa kia. Thật là “quá đáng”, nhưng theo tôi, Quang Trung cũng không hề là nhà cải cách vĩ đại của Việt Nam.
(2) Bình Định Vương Lê Lợi.
(3) Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội